LỜI CẢM ƠN
Thực tế luôn cho thấy, kết quả của sự thành công không chỉ gắn với nỗ lực của bản
thân mà còn là sự hỗ trợ, giúp đỡ tận tình của mọi người xung quanh. Trong quá trình
nhận đề tài và trong suốt thời gian thực hiện Luận văn đến nay, tôi luôn nhận được sự
quan tâm, chỉ bảo, giúp đỡ của q thầy cơ, gia đình và bạn bè. Với lịng biết ơn sâu
sắc, tơi xin được gửi lời cảm ơn chân thành và lời tri ân sâu sắc đến q Thầy Cơ
thuộc Khoa Sư phạm nói chung và Bộ mơn Sư phạm Ngữ văn nói riêng đã tạo điều
kiện thuận lợi cho tơi trong q trình nghiên cứu. Tôi cũng gửi lời cảm ơn đến quý
Thầy Cô ở Trung tâm Học liệu của trường Đại học Cần Thơ và Thư viện Khoa Sư
phạm đã giúp đỡ tôi trong q trình tìm kiếm tài liệu.
Đặc biệt, tơi xin dành lời cảm ơn chân thành đến TS. Nguyễn Thị Hồng Hạnh,
người đã nhiệt tình hướng dẫn, chỉ dạy, sửa chữa và động viên tơi trong suốt q trình
thực hiện đề tài, nhờ vậy mà tơi có thể hồn thành được Luận văn của mình một cách
tốt nhất.
Cuối cùng, tơi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè đã luôn bên cạnh an ủi, động
viên, là chỗ dựa vững chắc và tiếp thêm sức mạnh tinh thần to lớn cho tơi trong suốt
q trình nghiên cứu.
Một lần nữa, tôi xin chân thành cảm ơn!
Cần Thơ, ngày 18 tháng 06 năm 2020
Người viết
Nguyễn Thị Phương Nghi
TĨM TẮT LUẬN VĂN
Trong thời đại khủng hoảng mơi sinh trầm trọng, con người đang kêu cứu cho
những hành động tiêu cực của mình đối với tự nhiên. Văn học càng khơng thể vơ can
trong bài tốn mang tính tồn cầu, chính vì thế ln có thiện chí dấn thân vào sự
nghiệp chung của nhân loại. Phê bình sinh thái xuất hiện được ví như “cập thời vũ”
(tức cơn mưa xuất hiện đúng lúc) giúp cho giới nghiên cứu bước một bước thật dài
trong việc kết nối văn học với hiện thực cuộc sống. Văn học Việt Nam nói chung và
giới nghiên cứu nói riêng khơng phải “thấy người ta ăn khoai, mình vác mai đi đào”,
hay hơ hào chung chung về lý thuyết mới mà khởi nguyên đã xác định đây là công
việc cần phải làm của kẻ trong cuộc nhằm thể hiện hồi đáp của văn chương đối với lời
kêu cứu từ môi trường.
Nguyễn Ngọc Tư là một nhà văn khơng cịn xa lạ đối với độc giả yêu văn chương
Việt Nam đương đại, không chỉ lối văn mộc mạc đưa chị đến gần với bạn đọc mà còn
là sự phản ánh sắc nét hiện thực cuộc sống vào trong trang viết. Các vấn đề như đơ thị
hóa, ô nhiễm môi trường sinh thái, bất bình đẳng xã hội, bạo lực, giới tính… được
phơi bày khéo léo. Do đó, người viết quyết định nghiên cứu đề tài “Sáng tác của
Nguyễn Ngọc Tư từ góc nhìn Phê bình sinh thái” như một giải pháp chữa lành vết
thương môi sinh bằng khoa học văn chương. Người viết chia Luận văn thành ba phần
bao gồm: Mở đầu, Nội dung chính và Kết luận. Trong đó, người viết đặt trọng tâm
vào Nội dung chính với ba chương cụ thể như sau:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết: người viết trình
bày tổng quan tình hình nghiên cứu Phê bình sinh thái trên thế giới, ở Việt Nam và cụ
thể là trong nghiên cứu sáng tác của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư; giới thuyết về Phê bình
sinh thái với khái niệm, đặc trưng và lịch sử hình thành – phát triển của lý thuyết; khái
quát về tiểu sử, phong cách và sự nghiệp sáng tác của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư.
Chương 2. Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong sáng tác của Nguyễn
Ngọc Tư: người viết chú trọng phân tích ba yếu tố cơ bản bao gồm: ca ngợi sự hòa
hợp của con người với tự nhiên; đề cao vai trò tự nhiên trong đời sống tinh thần con
người và cảm hứng phê phán từ điểm nhìn sinh thái trong sáng tác của Nguyễn Ngọc
Tư.
Chương 3. Nghệ thuật thể hiện những vấn đề sinh thái trong sáng tác của
Nguyễn Ngọc Tư: người viết chú trọng phân tích hình tượng nghệ thuật, giọng điệu,
khơng gian và thời gian nghệ thuật. Thông qua nhịp cầu thẩm mỹ của thi pháp văn
chương góp phần thể hiện tài năng và sự cách tân của nhà văn đối với sáng tác mang
tinh thần sinh thái
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN....................................................................................................................i
TÓM TẮT LUẬN VĂN....................................................................................................ii
MỤC LỤC........................................................................................................................ iii
MỞ ĐẦU............................................................................................................................ 1
1. Lí do chọn đề tài............................................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu....................................................................................................2
3. Đối tượng nghiên cứu...................................................................................................2
4. Phạm vi nghiên cứu......................................................................................................2
5. Phương pháp nghiên cứu.............................................................................................3
NỘI DUNG CHÍNH.......................................................................................................... 5
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ
THUYẾT...........................................................................................................................5
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu...............................................................................5
1.2. Khái lược về Phê bình sinh thái..............................................................................12
1.2.1. Khái niệm Phê bình sinh thái..................................................................................12
1.2.2. Lịch sử hình thành và phát triển của Phê bình sinh thái.........................................15
1.2.3. Những đặc trưng cơ bản của Phê bình sinh thái.....................................................19
1.2.4. Phê bình sinh thái – khuynh hướng nhiều tiềm năng trong Nghiên cứu văn học
Việt Nam...........................................................................................................................19
1.3. Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư........................................................................................23
1.3.1. Tiểu sử và phong cách.............................................................................................23
1.3.2. Sự nghiệp sáng tác..................................................................................................25
CHƯƠNG 2. MỐI QUAN HỆ GIỮA CON NGƯỜI VÀ TỰ NHIÊN TRONG
SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN NGỌC TƯ.......................................................................28
2.1. Ca ngợi sự hòa hợp của con người với tự nhiên....................................................28
2.1.1. Tự nhiên tồn tại như một sinh mệnh gắn bó mật thiết với đời sống con người........28
2.1.2. Tự nhiên và con người – trong quan hệ hợp nhất...................................................33
2.2. Đề cao vai trò của tự nhiên trong đời sống tinh thần của con người....................36
2.2.1. Tự nhiên giúp cho con người sống phong phú và phóng khống............................37
2.2.2. Tự nhiên là nơi cứu rỗi và di dưỡng tinh thần........................................................41
2.3. Cảm hứng phê phán từ điểm nhìn sinh thái trong sáng tác của Nguyễn Ngọc
Tư..................................................................................................................................... 45
2.3.1. Phê phán tư tưởng thống trị, chiếm đoạt tự nhiên..................................................45
2.3.2. Nỗi bất an sinh thái.................................................................................................49
CHƯƠNG 3. NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN NHỮNG VẤN ĐỀ SINH THÁI
TRONG SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN NGỌC TƯ.......................................................56
3.1. Hình tượng nghệ thuật............................................................................................56
3.1.1. Hình tượng dịng sơng.............................................................................................56
3.1.2. Hình tượng cánh đồng............................................................................................59
3.1.3. Hình tượng đơ thị....................................................................................................61
3.1.4. Hình tượng lồi vật.................................................................................................63
3.1.5. Hình tượng con người.............................................................................................65
3.2. Giọng điệu.................................................................................................................68
3.2.1. Giọng hồn nhiên, sảng khoái khi ngợi ca vẻ đẹp tự nhiên......................................68
3.2.2. Giọng xót thương, bất an khi miêu tả sự hủy hoại tự nhiên....................................71
3.3. Không gian nghệ thuật............................................................................................73
3.3.1. Không gian đô thị....................................................................................................74
3.3.2. Không gian tự nhiên................................................................................................77
3.3.3. Không gian tâm trạng.............................................................................................80
3.4. Thời gian nghệ thuật................................................................................................82
3.4.1. Thời gian trần thuật................................................................................................83
3.4.2. Thời gian tâm trạng................................................................................................87
KẾT LUẬN...................................................................................................................... 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................................95
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong xã hội hiện đại, song hành với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật
và sự nhảy vọt về kinh tế - xã hội là q trình ơ nhiễm mơi trường và nguy cơ sinh
thái. Trước bối cảnh căng thẳng của hiện trạng mơi sinh, sự sống cịn của con người
cũng đang bị uy hiếp bởi lối sống “Ăn xổi ở thì” và nhếch nhác trong cách ứng xử với
tự nhiên. Tất cả các ngành khoa học như sử học, nhân loại học, tâm lý học, triết học,
thần học… đều hướng sự quan tâm vào vấn đề môi trường. Người ta nhận thấy rằng để
giải quyết sự căng thẳng trong mối quan hệ giữa con người và tự nhiên không thể chỉ
bằng sức mạnh vật chất mà còn dựa vào khoa học nhân văn. Trong lĩnh vực văn học,
Phê bình sinh thái xuất hiện vào những năm 60, 70 của thế kỷ XX được đánh giá là
phát súng mở đầu cho khuynh hướng nghiên cứu văn học mới, nhanh chóng lan rộng
sang nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Tiếp cận khuynh hướng nghiên cứu văn
học mới ở thế kỷ XXI, Phê bình sinh thái ở Việt Nam đã có những tín hiệu tích cực,
cho thấy sự cố gắng và tinh thần trách nhiệm của các nhà nghiên cứu trước vấn nạn
môi trường bằng cách thúc đẩy sự thay đổi quan niệm của con người đối với tự nhiên
bằng sức mạnh văn chương nhằm hướng đến “cuộc sống an yên, bền vững, hạnh phúc
của dân tộc và nhân loại” [32; 25].
Trong nền văn chương đương đại, Nguyễn Ngọc Tư là một trong những nhà văn
gây ấn tượng mạnh mẽ đối với độc giả từ Bắc chí Nam. Ở những sáng tác của chị,
người đọc thấy vừa quen, vừa lạ. Quen ở đây là những vấn đề được đề cập mang hơi
thở “đời tư, thế sự” - về cuộc sống, về số phận con người, đặc biệt là các tác phẩm
mang hơi thở và tinh thần sinh thái. Lạ là những vấn đề được lột tả theo cách riêng của
Nguyễn Ngọc Tư, Giáo sư Nguyễn Văn Hạnh trong Lý luận văn học vấn đề và suy
nghĩ nhận định rằng: “Phong cách luôn gắn với tài năng, với sức mạnh, chiều sâu suy
nghĩ, cảm nhận của người nghệ sĩ về cuộc sống, sự tìm tịi khơng ngừng của người
nghệ sĩ để thể hiện được vào tác phẩm cái gì là đặc sắc, sâu xa nhất của mình” [09;
51]. Thực tế cho thấy, nhà văn luôn tiếp cận và thể nghiệm ở nhiều hình thức nghệ
thuật mới cùng với nội dung vơ cùng sâu sắc và độc đáo.
Mặt khác, người viết nhận thấy rằng, với sự nhạy cảm, tinh tế của một nhà văn nữ,
Nguyễn Ngọc Tư dù vơ tình hay hữu ý đã mang vấn đề môi sinh vào trong sáng tác
của mình như “động mạch chủ”, tuy chưa rõ các đặc điểm của văn học sinh thái thuần
túy nhưng nhìn chung đã mang hơi thở của cảm thức sinh thái, đó chính là sự nỗ lực
khám phá “mối quan hệ của con người đối với thế giới ngoài con người, thế giới phi
nhân loại (nonhuman world), tập trung vào vị trí của con người và tự nhiên trong một
chỉnh thể sinh thái cân đối” [32; 134]. Những vấn đề được đặt ra trong sáng tác có ý
nghĩa vơ cùng to lớn trong việc định hướng đạo đức sinh thái, thay đổi phương thức tư
1
duy và khả năng hành động của con người. Nếu các ngành khoa học khác đưa ra
những số liệu cụ thể, khơ cứng về mơi trường thì văn chương lại mang đến một cách
tiếp cận sâu sắc hơn, tác động vào tâm tư tình cảm nhằm thức tỉnh tâm tính và buộc
con người nhìn nhận nghiêm túc về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên.
Từ những lý do khách quan và chủ quan trên, người viết quyết định chọn đề tài của
mình là: Sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư từ góc nhìn Phê bình sinh thái.
2. Mục đích nghiên cứu
Phê bình sinh thái là một lý thuyết nghiên cứu văn học mới, xuất hiện khá muộn dù
trước đó đã có sự manh nha nhưng cịn mang tính rời rạc, chưa hợp thành một khuynh
hướng nghiên cứu văn học thống nhất. Ở Việt Nam, ngoài việc tiếp nhận học thuyết
mới thì trên nền tảng, các sáng tác chứa đựng cảm thức sinh thái là tương đối đa dạng.
Trong đó, ta có thể kể đến các sáng tác của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư - một làn gió
mới của văn học đương đại Việt Nam, không cố gắng, không gượng ép nhưng hiệu quả
trong việc gợi dẫn, kết nối mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, bóc tách hiện
thực một cách sâu sắc, tinh tế bằng ngòi bút có tâm và có tầm.
Qua luận văn này, người viết nhằm:
Thứ nhất, phác thảo cơ sở lí luận có liên quan đến Phê bình sinh thái và thực tế
nghiên cứu văn học từ góc độ Phê bình sinh thái ở Việt Nam.
Thứ hai, khảo sát thông tin về nhà văn Nguyễn Ngọc Tư và những đóng góp của tác
gia đối với diện mạo văn học Việt Nam.
Thứ ba, nghiên cứu một cách có hệ thống mối quan hệ giữa con người và tự nhiên
trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư, đồng thời, thơng qua “tính văn học” nhằm thể
hiện tinh thần của văn hóa sinh thái trong các sáng tác.
3. Đối tượng nghiên cứu
Nguyễn Ngọc Tư là một nhà văn có bút lực dồi dào, ln thử sức với nhiều thể loại
như: truyện ngắn, tiểu thuyết, tản văn, tạp văn và có cả thơ. Đặc biệt, các tác phẩm
ln có sức khái quát về mặt đề tài.
Tuy nhiên, trong luận văn này, người viết chỉ tập trung tìm hiểu, phân tích và làm
sáng tỏ những sáng tác có liên quan đến vấn đề sinh thái.
4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là các sáng tác của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư,
không giới hạn về mặt thể loại, cụ thể là các tác phẩm có liên quan đến nguồn gốc văn
hóa tư tưởng của nguy cơ sinh thái, hoặc đề cập đến sự tác động qua lại trong mối
quan hệ giữa con người và tự nhiên, sự ra đời của các chính sách phá vỡ sinh thái dẫn
2
đến nguy cơ sinh thái, lối sống chủ nghĩa tiêu dùng, thực dụng hay các sự kiện ô nhiễm
môi sinh trầm trọng.
Trong phạm vi luận văn này, người viết tiến hành khảo sát các sáng tác tiêu biểu
sau:
1. Ngọn đèn không tắt (Tập truyện ngắn - Nhà xuất bản Trẻ, 2000)
2. Giao thừa (Tập truyện ngắn - Nhà xuất bản trẻ, 2003)
3. Cánh đồng bất tận (Tập truyện ngắn - Nhà xuất bản Trẻ, 2005)
4. Gió lẻ và 9 câu chuyện khác (Tập truyện ngắn - Nhà xuất bản Trẻ, 2008)
5. Khói trời lộng lẫy (Tập truyện ngắn – Nhà xuất bản Trẻ, 2010)
6. Không ai qua sông (Tập truyện ngắn – Nhà xuất bản Trẻ, 2016)
7. Cố định một đám mây (Tập truyện ngắn – Nhà xuất bản Trẻ, 2018)
8. Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư (Tạp văn - Nhà xuất bản trẻ, 2006)
9. Yêu người ngóng núi (Tản văn – Nhà xuất bản Trẻ, 2009)
10. Gáy người thì lạnh (Tản văn – Nhà xuất bản Trẻ, 2012)
11. Đong tấm lịng (Tản văn – Nhà xuất bản Trẻ, 2015)
12. Sơng (Tiểu thuyết - Nhà xuất bản Trẻ, 2012)
Tuy nhiên, trong q trình nghiên cứu, người viết có thể đối chiếu, so sánh với các
tác phẩm khác nếu cần thiết.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn Sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư từ góc nhìn Phê
bình sinh thái, người viết đã sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp xã hội học sáng tác: nghiên cứu những tác động của bối cảnh xã hội
đương thời đối với quá trình hình thành tư tưởng và cho ra đời những sáng tác của nhà
văn Nguyễn Ngọc Tư.
Phương pháp so sánh:
So sánh lịch đại: so sánh quan điểm sáng tác và phong cách nghệ thuật của nhà văn
với một số cây bút khác ở thế kỷ trước.
So sánh đồng đại: so sánh tinh thần, hơi thở sinh thái trong sáng tác của Nguyễn
Ngọc Tư với một số tác phẩm cùng thời có nội dung tương tự nhằm làm nổi bật tính
ứng dụng của lí luận Phê bình sinh thái trong các sáng tác nói chung và tài năng đặc
sắc của tác gia nói riêng.
3
Phương pháp nghiên cứu liên ngành: sử dụng kiến thức của các ngành khoa học
khác như: tâm lí, sinh học, lịch sử, địa lý, chính trị, văn hóa để làm nền tảng cho việc
đi sâu và tìm hiểu mối quan hệ giữa tự nhiên và con người.
Phương pháp thi pháp học: tiếp cận sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư dựa trên nghệ
thuật biểu hiện và các dấu hiệu hình thức độc đáo của Phê bình sinh thái như khái
niệm, đặc trưng, tư tưởng trung tâm,… từ đó khám phá tầng nghĩa bên trong, tư tưởng
sinh thái ẩn sau các sáng tác.
Phương pháp phân tích – tổng hợp: khảo sát các sáng tác của nhà văn Nguyễn
Ngọc Tư, tập trung phân tích các yếu tố có liên quan đến vấn đề mơi sinh, đồng thời,
phân tích nguồn tài liệu tham khảo để thu thập những thông tin cần thiết cho đề tài, từ
đó, người viết liên kết, sắp xếp, tổng hợp những thông tin đa dạng cùng với những suy
luận cá nhân nhằm rút ra nhận xét chung, khái quát, tiêu biểu nhất để nêu bật tính ứng
dụng của Phê bình sinh thái trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư.
4
NỘI DUNG CHÍNH
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1.
Tổng quan tình hình nghiên cứu
Trong thập niên 60, 70 của thế kỷ XX thuật ngữ “chủ nghĩa hậu hiện đại” được sử
dụng phổ biến trong giới lí luận Âu Mĩ. “Chủ nghĩa hậu hiện đại xem trọng con người
cá nhân, con người bản thể, do kế thừa tư tưởng của các nhà triết học Martin
Heidegger. Họ lấy cái tôi làm tâm điểm cho mọi luận giải triết học, nhưng khác ở chỗ,
đó là cái tơi khơng nguyên vẹn và đổ vỡ, phân mảnh và chúng, nhất là những cái tôi
giá trị và những cái tôi giải giá trị của những cái tơi đó” [13; 130]. Sự đấu tranh của
bản thân con người bên trong con người được hiểu là “khơng có nhận thức thuần túy
mà là tổng hịa của cả lí tính lẫn cảm tính” [13; 130]. Cảm quan hậu hiện đại, sự đổ
vỡ bên trong con người được Phê bình sinh thái, văn học sinh thái tiếp nhận nhằm
chống lại quan niệm “nhân loại trung tâm” để đi đến “trái đất trung tâm” trong bối
cảnh tồn cầu hóa đứng trước nguy cơ sinh thái trầm trọng. Phê bình sinh thái ra đời
đánh dấu một bước ngoặt lịch sử, là một môn khoa học nghiên cứu liên ngành, kết hợp
giữa văn học và khoa học, từ phân tích văn học để đưa ra những cảnh báo về mơi
trường. Những đóng góp to lớn đó giúp con người nhìn nhận lại các vấn đề mơi sinh,
thay đổi thái độ, hành vi và nâng cao trách nhiệm của mình đối với tự nhiên.
Trước khi văn học sinh thái, lí luận Phê bình sinh thái xuất hiện, từ lâu, vấn đề về
con người và tự nhiên đã được các tác gia quan tâm như thiên nhiên trong thơ thời Lý,
Trần, thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Nguyễn Du, Đặng Trần Côn, đồng thời, mối quan hệ giữa con người và tự nhiên cũng
5
được bóc tách nghiên cứu ở nhiều góc độ nhưng đó chỉ là nền móng cơ bản, chưa định
hình cụ thể về một lĩnh vực Phê bình sinh thái độc lập, một “lối viết tự nhiên” (Scott
Slovic), hay văn học sinh thái bài bản. Sự xuất hiện của tự nhiên cũng chỉ đơn thuần là
phương tiện để cái tôi trữ tình bộc lộ tâm trạng: “Vầng trăng vằng vặc giữa trời/ Đinh
ninh hai mặt một lời song song” hay “Gương nha chênh chếch dòm song/ Vàng gieo
ngấn nước, cây lồng bóng sân/ Hải đường lả ngọn đơng lân/ Giọt sương gieo nặng
cành xuân la đà” (Truyện Kiều – Nguyễn Du). Phê bình sinh thái ra đời vào những
năm cuối của thế kỷ XX, xét về mặt thời gian, cơ sở lý thuyết và những nghiên cứu có
tính ứng dụng thực tiễn thì đây là một lĩnh vực phê bình văn học tương đối mới mẻ và
non trẻ. Tuy nhiên, chúng ta khơng thể phủ nhận sự phát triển tích cực của chúng,
minh chứng là hàng loạt các cơng trình nghiên cứu về lý thuyết, dịch thuật, ứng dụng
của Phê bình sinh thái, các hội thảo liên quan đến chủ đề môi trường và sự phát triển
bền vững. Từ những yếu tố trên, người viết chia tổng quan tình hình nghiên cứu thành
hai nội dung chính bao gồm những nghiên cứu ở nước ngồi và ở Việt Nam, trong đó,
người viết khảo sát cụ thể những cơng trình nghiên cứu về cơ sở lý thuyết và ứng dụng
của Phê bình sinh thái trong nghiên cứu văn học.
Ở nước ngoài, đặc biệt là ở Anh và Mỹ, Phê bình sinh thái đã manh nha vào những
năm 70 của thế kỷ XX, nhưng chỉ đơn thuần là “nghiên cứu trước tác về tự nhiên” (the
study of nature writing) [23; 19]. Song hành với những nghiên cứu ban đầu là những
thuật ngữ sơ khai về lí thuyết và phê bình trên phương diện sinh thái, cùng với đó là sự
phức tạp trong hệ thống các định nghĩa Phê bình sinh thái của các học giả trên thế giới.
Ở Mỹ, khởi nguyên của thuật ngữ ecocritism bắt nguồn từ quyển Hài kịch của sự
sinh tồn: nghiên cứu trong sinh thái học văn học (The comedy of Survival: Studies in
Literary Ecology, 1972), thuật ngữ “sinh thái học văn học” (literary ecology) do
Joseph Meeker khởi xướng ám chỉ “sự nghiên cứu chủ đề sinh thái và những mối liên
hệ xuất hiện trong tác phẩm văn học. Đồng thời, nó cũng là một sự thử nghiệm để
khám phá ra vai trị của nó là gì với văn học trong sinh thái học của lồi người” [23;
20]. Cơng trình này cũng đưa ra vấn đề tranh luận gay gắt rằng: “Chính văn hóa
phương Tây với nền tảng tư tưởng của thuyết con người là trung tâm đã khiến cho môi
trường trở nên khủng hoảng” [23; 21].
Năm 1978, William Rueckert viết bài Văn học và sinh thái học: một thực nghiệm
phê bình sinh thái (Literature and Ecology: An Experiment in Ecocriticism) trên tạp
chí Bình luận Iowa số mùa đơng. Thuật ngữ “Phê bình sinh thái” (ecocritism) lần đầu
tiên được sử dụng, đồng thời, tác giả đề xướng một cách rõ ràng phải “kết hợp văn học
và sinh thái học”. Bài viết cịn nhấn mạnh “nhà phê bình “phải có cái nhìn sinh thái
học”, cho rằng nhà lí luận văn nghệ nên “xây dựng được một hệ thống thi học sinh
thái”” [18; 02].
Năm 1985, Frederick Owaage biên tập quyển sách mang tên Giảng dạy văn học môi
trường: tài liệu, phương pháp và Tiềm năng phát triển (Teaching Environmental
6
Literature: Materials, methods, Resources) bao gồm nhiều chiều hướng của mười chín
nhà nghiên cứu khác nhau. Theo Đỗ Văn Hiểu trong Phê bình sinh thái – cội nguồn và
sự phát triển, “cuốn sách này phát huy tác dụng lớn trong việc kích thích các giáo sư
ở Mĩ mở các mơn học liên quan đến văn học sinh thái và tiến hành nghiên cứu lĩnh
vực này” [18; 02].
Năm 1987, trong khảo luận Văn học và sinh thái học: Một thử nghiệm mới trong
phê bình sinh thái (Literature and Ecology: An Experiment in Ecocriticism), William
Rueckert đề ra thuật ngữ ecocriticism ám chỉ “việc ứng dụng sinh thái học và các
thuật ngữ sinh thái học vào nghiên cứu văn học” [23; 21]. Chúng ta dễ dàng nhận thấy
thuật ngữ này chú trọng và đề cao vai trị của sinh thái học, do đó, “đã giới hạn lại
thành một thuật ngữ để chỉ tất cả mối quan hệ giữa văn học và thế giới tự nhiên” [23;
21], nhưng nhìn chung, chúng đã cố gắng trong việc đưa tự nhiên và con người đến
gần nhau hơn dù chưa được thừa nhận như một thuật ngữ khoa học rõ rệt.
Năm 1989, Alicia Nitecki viết Bản tin văn học Mĩ về đề tài tự nhiên (The American
Nature Writing Newsletter), “công bố các bài luận vắn tắt, điểm sách và những thông
tin liên quan đến nghiên cứu cách viết về tự nhiên và môi trường” [23; 21]. Bài viết
này đã góp phần thúc đẩy các trường đại học ở Mỹ đưa việc giảng dạy nghiên cứu môi
trường vào các khóa văn học, tạo ra mơi trường học thuật bổ ích và hàn lâm.
Những nghiên cứu ban đầu dường như trở thành bệ phóng giúp cho Phê bình sinh
thái có những bước phóng vượt bật. Năm 1993, Patrick Murphy xuất bản tạp chí mới,
Nghiên cứu Liên ngành Văn học và Môi trường – ISLE (Interdisciplinary Studies in
Literature and Evironment). Tạp chí cung cấp một diễn đàn để các nhà nghiên cứu,
phê bình văn học quan tâm sâu sắc đến vấn đề môi trường được phát triển.
Năm 1994, Kroeben xuất bản chuyên luận Phê bình văn học sinh thái: tưởng tượng
lãng mạn và sinh thái học tinh thần (Ecological literary criticism; romantic imagining
and the Biology of mind, Columbia University Press), chuyên luận đề cập đến thuật
ngữ “Phê bình văn học sinh thái” (ecological literary criticism) và “Phê bình mang
khuynh hướng sinh thái” (ecological oriented criticism), đồng thời, tiến hành bàn luận
những vấn đề lí luận liên quan đến Phê bình sinh thái như: nguyên nhân ra đời, đặc
trưng, tiêu chuẩn phê bình, mục đích và sứ mệnh của Phê bình sinh thái.
Năm 1995, Lawrence Buell – giáo sư khoa Anh văn trường đại học Harvard cho
xuất bản chuyên luận Tưởng tượng môi trường: Thoreau, văn viết về tự nhiên và sự
cấu thành của văn hóa Mĩ (The Enviromental Imagination: Thoreau, Nature Writing,
and the Formation of American Culture, Harvard University, 1995). Các sáng tác của
Thoreau được khai thác, mổ xẻ dưới góc nhìn sinh thái đã “cung cấp cho “văn học
xanh” một số chỉ đạo có tính tổng thể về phương pháp luận và lí luận” [23; 22].
Chuyên luận được đánh giá như một bước ngoặt mang tính quyết định của Phê bình
sinh thái trong thập niên 90 của thế kỷ XX.
Năm 1996, Cheryll Glotfelty cùng Harold Fromm biên tập Tuyển tập Phê bình sinh
thái: Các mốc quan trọng trong Sinh thái học Văn học (The Ecocriticism Reader:
7
Landmarks in Literary Ecology, University of Georgia Press, 1996). Cuốn sách được
giới nghiên cứu và độc giả công nhận là tài liệu nhập mơn của Phê bình sinh thái.
Ở Anh, người tiên phong cho lĩnh vực Phê bình sinh thái là giáo sư Jonathan Bate,
ông cho xuất bản chuyên luận Sinh thái học của chủ nghĩa sinh thái lãng mạn:
Wordsworth và truyền thống môi trường. Chuyên luận tập trung đi sâu phân tích văn
học lãng mạn từ góc nhìn sinh thái. Ngồi ra, tuyển tập các cơng trình nghiên cứu về
Phê bình sinh thái đáng chú ý nhất ở Anh phải kể đến Tuyển tập nghiên cứu xanh: Từ
chủ nghĩa lãng mạn tới phê bình sinh thái (The Green Studies Reader: From
Romanticism to Ecocriticism, Routledge, 2000), do Laurence Coupe biên tập.
Hưng khởi của Phê bình sinh thái có thể nói đã đi những bước thật dài, đánh dấu sự
phát triển mạnh mẽ của mình với tư cách là một khuynh hướng phê bình văn hóa và
văn học. Năm 2000, sự xuất hiện của chương “Phê bình sinh thái” trong Giáo trình
Nhập mơn lí thuyết: dẫn luận lí luận văn học và lí luận văn hóa (Beginning Theory:
An Introduction to Literary and Cultural Theory, Manchester University press) của
Peter Barry được xem như một dấu ấn trong việc đưa Phê bình sinh thái vào “trường
phái lí thuyết văn học” [23;23]. Cũng trong năm này, Giới thiệu Phê bình đầu thế kỉ
XXI (Introducing Criticism at the Twenty – First Century, 2000) do Julian Wolfreys
biên tập, trong đó có chương “Phê bình sinh thái” do Kate Rigby chắp bút đã giới
thuyết về Phê bình sinh thái như sau: “từ việc phê phán những tư tưởng khiến cho tình
trạng sinh thái lâm vào tình trạng khủng hoảng hiện nay, tìm về các văn bản về tự
nhiên để tái cấu trúc lại văn bản, nhìn lại về văn học lãng mạn; tái cấu trúc tính xã
hội và tính sinh thái, khẳng định có một mối liên hệ giữa các vấn đề tự nhiên và xã
hội, gắn với các vấn đề giai cấp, chủng tộc, giới tính; Phê bình sinh thái cần phải đặt
lại nền tảng ngơn ngữ” [23; 24].
Năm 2003 giáo sư Lough đại học Oregon cho xuất bản chuyên luận Phê bình sinh
thái thực dụng: văn học, sinh thái học và môi trường. Trong chuyên luận này, Lough
“bàn luận một cách sâu sắc về tính tất yếu của phê bình sinh thái, quan hệ giữa phê
bình sinh thái và khoa học, đồng thời, từ góc độ văn hóa sinh thái đương đại tiến hành
bình luận hàng loạt các văn bản văn học” [18; 06] với hi vọng thúc đẩy sự phát triển
mạnh mẽ, mở rộng phạm vi ảnh hưởng và khả năng ứng dụng của Phê bình sinh thái.
Năm 2004, Grey Garrard xuất bản chuyên luận Phê bình sinh thái (thuật ngữ phê
bình mới) Ecocriticism (The New Critical Idiom), chuyện luận này chủ yếu bàn về diễn
ngơn của Phê bình sinh thái “từ tám phương diện như ô nhiễm, nơi chốn, điền viên,
hoang dã, tận thế (thảo luận về Kito giáo), cư trú, động vật, trái đất” [23; 25]. Grey
Garrard đã tinh tế đưa độc giả đi sâu vào lí thuyết Phê bình sinh thái, dưới góc nhìn
này, những vấn đề lí thuyết nói chung, diễn ngơn của Phê bình sinh thái nói riêng được
bóc tách với những tranh luận và mâu thuẫn nội tại của chúng.
Năm 2005, chuyên luận Tương lai của phê bình môi trường: khủng hoảng môi
trường và tưởng tượng văn học (The Future of Environmental Criticism;
8
Environmental Crisis and Literary Imagination, 2005) của Lawencen Buell đã đặt Phê
bình sinh thái vào lĩnh vực nghiên cứu văn hóa song song với văn học để khảo sát.
Chuyên luận đánh dấu bước mở rộng phạm vi Phê bình sinh thái cả bề rộng lẫn bề sâu.
Năm 2012, Karen Thronber cho xuất bản quyển sách Sự mơ hồ sinh thái: Khủng
hoảng môi trường và văn học các nước Đông Á (Ecoambiguity: Environmental Crises
and East Asia Literatures, 2012). Nếu Phê bình sinh thái phát triển mạnh ở các nước
châu Âu thì quyển sách này đã mở rộng phạm vi của chúng sang châu Á, đồng thời, đề
cập đến khái niệm “mơ hồ sinh thái” với “văn học châu Á vốn nổi tiếng bởi sự tôn
vinh vẻ đẹp của thiên nhiên và miêu tả con người trong sự gắn bó sâu sắc với thế giới
tự nhiên. Nhưng phân tích văn xi hư cấu và thơ ca Trung Hoa, Nhật Bản, Hàn
Quốc, Đài Loan hằng trăm năm qua lại cho thấy những nền văn học này lại dồi dào
diễn ngôn về sự suy thối của mơi trường (ecodegradation) (…), việc lãng mạn hóa
những mối quan hệ giữa con người và môi trường của họ thường là sự thách thức hơn
là sự phản ánh cái hiện thực mang tính kinh nghiệm” [29; 06]. Bên cạnh đó, quyển
sách cịn đặt ra vấn đề thơng qua những phân tích xun văn hóa về các tác phẩm văn
chương viết trực tiếp về sự tàn phá môi trường để có cái nhìn sâu sắc vào những thách
thức mang tính “xuyên quốc gia” (từ dùng theo Đỗ Văn Hiểu) mà con người đang phải
đối mặt.
Ở Việt Nam, văn học vẫn được xem là “phản ứng chậm” trước sự nguy kịch của
nhân loại, thế nhưng bước đầu đã xuất hiện một số cơng trình nghiên cứu lí thuyết,
dịch thuật, ứng dụng về lí thuyết mới. Do đó, người viết chia lịch sử nghiên cứu Phê
bình sinh thái ở Việt Nam thành hai mảng: nghiên cứu lí luận Phê bình sinh thái ở Việt
Nam và ứng dụng Phê bình sinh thái vào tác phẩm cụ thể, trong đó, người viết tập
trung vào các nghiên cứu có liên quan đến những sáng tác của nhà văn Nguyễn Ngọc
Tư.
Năm 2011, Viện văn học tổ chức buổi thuyết trình về vấn đề Phê bình sinh thái
mang tên: “Tiếp cận văn học châu Á từ lý thuyết phương Tây hiện đại: vận dụng,
tương thích, thách thức và cơ hội”. Điểm nhấn của hội thảo này chính là sự có mặt của
Karen Thronber, nhà nghiên cứu đã có buổi giảng về Ecocriticism “giới thiệu một
cách tổng quan về bản chất, ý nghĩa và tiến trình của nghiên cứu văn chương mơi
trường và sau đó phân tích 6 điểm cơ bản mà phê bình sinh thái quan tâm” [32; 92].
Bài Phê bình sinh thái – khuynh hướng nghiên cứu văn học mang tính cách tân
(2012) của Đỗ Văn Hiểu đã chỉ ra những điểm mới trong tư tưởng nồng cốt của Phê
bình sinh thái, đó chính là sự chuyển hướng từ tư tưởng “nhân loại trung tâm luận”
sang tư tưởng “sinh thái trung tâm luận”, đồng thời đề cao tư tưởng hạt nhân của Phê
bình sinh thái là “Chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái”. Ngoài những vấn đề cách tân về tư
tưởng nồng cốt, nhà nghiên cứu còn đề cập một số vấn đề khác như: sứ mệnh, nguyên
tắc mỹ học, đối tượng, phạm vi nghiên cứu riêng của Phê bình sinh thái, đồng thời, trả
lời cho câu hỏi: Phê bình sinh thái liệu có phải là vạn năng hay khơng? Bên cạnh đó,
9
bài viết cũng lưu tâm đến những hạn chế và khó khăn trong việc mở rộng và phát triển
khuynh hướng nghiên cứu này bởi tư tưởng “nhân loại trung tâm luận” từ lâu đã ăn
sâu vào tiềm thức của con người.
Nguyễn Thị Tịnh Thy trong bài Phê bình sinh thái – nhìn từ lý thuyết giải cấu trúc
(2013) đã nhận thấy Phê bình sinh thái mang cảm quan hậu hiện đại. “Nội hàm căn
bản của phê bình sinh thái là tính giải cấu trúc mạnh mẽ, biểu hiện ở các đặc điểm
lệch tâm, tản quyền, cái chết của chủ thể, lật đổ và tái thiết, tính đối thoại” [30; 74].
Bài viết này cho thấy rõ những ngộ nhận trầm trọng về tư tưởng “nhân loại trung tâm”
đã dẫn đến những hệ lụy khó lường, đồng thời, kêu gọi “mỗi hành vi, phẩm chất,
thành quả của con người đều phải được xem xét trong mối quan hệ với tự nhiên, trong
thái độ đối với tự nhiên” [30; 76], phá bỏ quan niệm phân chia giữa khách thể và chủ
thể, nhìn nhận tự nhiên trong mối quan hệ bình đẳng, “lật đổ” hay nói cách khác là
“phủ định ngun tắc lý tính của chủ nghĩa hiện đại” [30; 78], từ đó, yêu cầu “tái
thiết” của Phê bình sinh thái được đặt ra nhằm “khắc phục vấn nạn môi trường, xây
dựng một xã hội hài hòa, phát triển bền vững”. Nhà văn, nhà phê bình mang trên mình
sứ mệnh cao cả là “góp phần ngăn chặn văn học phản sinh thái, thông qua thay đổi
văn học, thay đổi quan niệm để chuộc lỗi với tự nhiên” [30; 80], từ đặc trưng đối thoại
“chúng ta khơng chỉ nghe được tiếng nói của con người mà cịn nghe được tiếng nói
của tự nhiên, hiểu được tự nhiên phải chống lại, hoài nghi, khiếp sợ và chạy trốn con
người như thế nào” [30; 81].
Trần Đình Sử trong bài viết Phê bình sinh thái tinh thần trong nghiên cứu văn học
hiện nay đã vận dụng tư tưởng sinh thái để xem xét mối quan hệ giữa văn học và mơi
trường văn hóa, tinh thần xã hội như một vấn đề sinh thái, chủ trương không tập trung
vào mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, “mà xem xét môi trường tinh thần xã hội
như là môi trường sống của văn nghệ, sự tương tác giữa môi trường văn hóa tinh thần
với sáng tạo văn nghệ” [27; 01].
Trần Thị Ánh Nguyệt – Lê Lưu Oanh viết Con người và tự nhiên trong văn xuôi
Việt Nam sau năm 1975 từ góc nhìn phê bình sinh thái” (2016), thốt thai từ Luận án
Tiến sĩ, chuyên luận đã trình bày bao quát về dòng văn học sinh thái và văn xi Việt
Nam sau năm 1975 từ góc nhìn Phê bình sinh thái. Giáo sư đầu ngành Trần Đình Sử
cũng đã có những đánh giá về “Quyển sách thốt thai từ Luận án Tiến sĩ này lần đầu
tiên đã giới thiệu một cách cụ thể lí thuyết phê bình sinh thái trên thế giới và Việt
Nam, cung cấp một bức tranh tồn cảnh về hướng phê bình này, từ giai đoạn mục ca,
đồng q đến giai đoạn hình thành chính thức, nói rõ khái niệm và tiêu chí về văn học
sinh thái và phê bình văn học sinh thái”.
Phê bình sinh thái – khuynh hướng nghiên cứu văn học mới du nhập vào Việt Nam
với sự “đón tiếp nồng hậu” của giới nghiên cứu, hơn thế nữa, ta càng không thể phủ
nhận sự cố gắng của các dịch giả trong lĩnh vực dịch thuật để học giả và các nhà
10
nghiên cứu dễ dàng tiếp cận lí thuyết phê bình văn học mới. Chúng ta có thể điểm qua
một vài cơng trình dịch thuật có ảnh hưởng lớn ở Việt Nam như: Phê bình sinh thái –
cội nguồn và sự phát triển (2012) do Đỗ Văn Hiểu dịch từ bản tiếng Trung Phê bình
sinh thái Âu Mĩ, Nxb Học Lâm, 2008, và Phê bình sinh thái: Phát triển và nguồn gốc,
trong “Tuyển tập văn luận văn học sinh thái Trung quốc và thế giới”, Nxb Đại học
công Thương Triết Giang, 2010; Hải Ngọc dịch Những tương lai của phê bình sinh
thái và văn học của Karen Thornber trong tập Phê bình sinh thái Đơng Á: Tuyển tập
phê bình (Các nền văn học, văn hóa và mơi trường (East Asian Ecocriticisms. A
Critical Reader (Literatures, Cultures, and the Environment), 2013); bản dịch của
Đặng Thị Thái Hà (2014) trong tuyển tập Giới thiệu phê bình thế kỷ XXI (Introducing
Criticism at the Twenty- First Century); bản dịch của Trần Thị Ánh Nguyệt (2014)
Nghiên cứu văn học trong thời đại khủng hoảng môi trường trong tuyển tập Phê bình
sinh thái: Các mốc quan trọng trong Sinh thái học Văn học (The Ecocriticism Reader:
Landmarks in Literary Ecology, University of Georgia Press).
Ứng dụng Phê bình sinh thái trong nghiên cứu văn học đã bước đi những bước đầu
tiên thật vững chắc, gặt hái được nhiều thành tựu có ý nghĩa đóng góp sâu sắc và gợi
mở nhiều tiềm năng như:
Năm 2013, Huỳnh Như Phương viết Mùa xuân, sinh thái và văn chương gợi dẫn từ
truyện ngắn Muối của rừng (Nguyễn Huy Thiệp), bài viết đề cập đến mối quan hệ giữa
mơi trường và nhân loại, vai trị của mỗi công dân, đặc biệt là nhà văn trong việc thức
tỉnh ý thức, thái độ, cách ứng xử của con người đối với môi trường sinh thái. “Nếu văn
chương là tiếng nói của số phận con người thì những hiện tượng như vậy đều không
xa lạ với văn chương. Đó vừa là vấn đề đạo đức, vừa là vấn đề thẩm mỹ” (Huỳnh Như
Phương), người viết ngầm rung lên hồi chuông cảnh báo cấp thiết về hậu quả từ những
hành vi đạo đức tiêu cực mà con người đem đến cho tự nhiên.
Trần Thị Ánh Nguyệt viết Thiên nhiên trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư từ góc
nhìn phê bình sinh thái (Bài đã đăng trong Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ,
Đại học quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, tập 17, số 3-2014). Bài viết mang đến cái nhìn sơ
lược về Phê bình sinh thái, từ gợi dẫn này Trần Thị Ánh Nguyệt nhận thấy trong các
truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư là “một tâm hồn mê đắm tự nhiên, đặt lịng mình
vào từng dịng sơng, ngọn gió, cánh chim để hiểu linh hồn của tạo vật từ đó rung lên
hồi chng cảnh tỉnh về khủng hoảng sinh thái” (Trần Thị Ánh Nguyệt), từ đó, nhà
nghiên cứu vạch ra những cảnh báo về sự hủy hoại môi trường sinh thái, cấp thiết kêu
gọi con người lắng nghe tiếng nói từ tự nhiên bởi vì “Động vật cũng có cảm thụ mĩ
cảm của nó, biết lắng nghe và đánh thức tâm hồn con người” [23; 260]. Trần Thị Ánh
Nguyệt khẳng định nghệ thuật là phải “thông qua miêu tả mối quan hệ giữa con người
và tự nhiên để tạo nên sức hút, sức sống” [23; 268] và nhà văn Nguyễn Ngọc Tư đã
làm tốt điều đó, làm “xanh” cho một khoảng không gian văn học dưới nền văn minh
đơ thị đang bóp nghẹt chúng ta.
11
Nguyễn Thùy Trang viết Văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư từ góc nhìn sinh thái, bài viết
trình bày một số tiền đề lí thuyết về Phê bình sinh thái và văn học sinh thái, khai thác
không gian sông nước – một nét nổi bật trong văn xuôi của Nguyễn Ngọc Tư, bên
cạnh đó, người viết cịn bàn luận về cái chết của chủ thể và cái chết của tự nhiên từ
góc nhìn sinh thái. Bài nghiên cứu đã khai thác một cách khái quát vấn đề môi sinh,
nhấn mạnh mối quan hệ giữa chúng với con người và đưa ra lời cảnh báo cấp thiết cho
vấn đề môi trường. Tuy nhiên, bài nghiên cứu này vẫn chưa được công bố, trên đây chỉ
là sự ghi lại phần tóm tắt của luận án.
Năm 2012, Mai Anh Tuấn viết Đọc tiểu thuyết “Sông” của Nguyễn Ngọc Tư, khảo
về sự biến mất. Bài viết đánh dấu “cột mốc danh tiếng”, mới lạ, biến đổi, “khơng cịn
vẫy gọi giọng điệu vang dội như hợp âm bốn chữ rải đều Cánh đồng bất tận, Biển
người mênh mơng, Thương q rau răm, Khói trời lộng lẫy…” (Mai Anh Tuấn). Tác
gia nhấn mạnh sự mất mát, chia lìa là sự “bình thường đến dị thường, là quen thuộc
đến thảng thốt” mà con người ở vùng đất trong Sông phải đối diện dưới cách viết
khơng thi vị hóa, lí tưởng hóa của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư. Trong cuộc hành trình,
các nhân vật “biến mất để tồn tại, để được tìm kiếm, nhớ nhung và nhắc tới, trong
chừng mực nào đó”.
Năm 2013, Đồn Ánh Dương viết Mơi trường và nhân tính: tự sự của Nguyễn Ngọc
Tư trong Cánh đồng bất tận, bài viết khảo sát tác phẩm Cánh đồng bất tận – một câu
truyện mở, tác phẩm được dệt nên bởi sự đan cài giữa xúc cảm và suy tưởng của các
nhân vật. Bài viết chú trọng khai thác ngôn ngữ trần thuật, những ẩn ức, sự dằn xé nội
tâm dữ dội và dòng chảy sự kiện theo mạch xúc cảm của nhân vật. Nhìn chung, bài
viết đi theo hướng tiếp cận truyện ngắn từ góc nhìn cấu trúc – ký hiệu học, cụ thể khai
thác biểu tượng cách đồng, đó “là hành trình thử đi ngược từ “cánh đồng lưu lạc” trở
về chỗ đứng nhìn vọng ra, đặng tìm hiểu phần nào tâm ý của tác giả” (Đồn Ánh
Dương).
Tóm lại, thơng qua lịch sử nghiên cứu trong và ngồi nước về Phê bình sinh thái,
người viết nhận thấy, lí thuyết này đã và đang phát triển mạnh mẽ, xứng đáng trở thành
một tân binh của trào lưu, khuynh hướng nghiên cứu tiềm năng trên phạm vi toàn thế
giới, đơn cử với hàng loạt các cơng trình nghiên cứu lí luận Phê bình sinh thái của các
nhà nghiên cứu tên tuổi như Patrick Murphy, Karen Thronber, Cheryll Glotfelty,…dần
đi đến khẳng định cơ sở lí luận vững chắc, nâng cao tính học thuật, hàn lâm của
khuynh hướng này. Ở Việt Nam, những cơng trình nghiên cứu văn học từ góc nhìn
sinh thái, cùng với sự tiếp cận, nghiên cứu và dịch thuật lý thuyết mới cho thấy những
nỗ lực của các nhà nghiên cứu đối với thực trạng sinh thái nhức nhối. Tuy nhiên, các
tác phẩm thuần văn học sinh thái hay những cơng trình dịch thuật ở Việt Nam vẫn còn
rất hạn chế. Từ những khảo sát trên, người viết đảm bảo hướng nghiên cứu của đề tài
này không trùng lặp với bất kì cơng trình nghiên cứu nào khác đã công bố.
12
1.2.
Khái lược về Phê bình sinh thái
1.2.1. Khái niệm Phê bình sinh thái
Phê bình sinh thái là một khuynh hướng nghiên cứu văn học mới, đang trên đà hoàn
thiện, xây dựng vững chắc cơ sở lí luận, chính vì thế, việc tranh luận xoay quanh vấn
đề về tên gọi, hay nói cách khác là khái niệm là điều khơng thể tránh khỏi. Có nhiều
thuật ngữ khác được sử dụng cùng với thuật ngữ Phê bình sinh thái như: Sinh thái học
văn học (Literary ecology), Nghiên cứu văn học và môi trường (Studies of literature
and environment), Phê bình xanh (Green studies), Phê bình văn học mơi trường
(Environmental literary critcism), Phê bình văn hóa xanh (Green cultural studies).
Theo nhà Phê bình sinh thái Vương Nặc (Trung Quốc) trong bài Phê bình sinh thái:
Định nghĩa và nhiệm vụ (Sinh thái phê bình: Giới định dữ nhiệm vụ), có năm khái
niệm về phê bình sinh thái gây được sự chú ý nhất trong giới phê bình. Bao gồm định
nghĩa của James S. Hans, Scott Slovic, Cheryll Glotfelty, William Howarth, Lawrence
Buell.
Năm 1990, trong cơng trình (Những) giá trị của văn học (The Value(s) of Literature,
James S. Hans đưa ra định nghĩa Phê bình sinh thái thể hiện sự mở rộng biên độ, Phê
bình sinh thái không giới hạn ở lĩnh vực xã hội và mối quan hệ của con người và tự
nhiên mà còn mở rộng ra mối quan hệ giữa sinh thái trên Trái đất này với con người,
đồng thời, đề cao vai trò của văn hóa trong mối quan hệ giữa con người và tự nhiên.
Tuy nhiên, khái niệm của James S. Hans gặp phải một số hạn chế như chưa xác định rõ
nghiên cứu văn học trong Phê bình sinh thái sẽ dựa vào những tư tưởng hay tiêu chí
nào. Khái niệm cũng chưa chỉ ra được quan niệm giá trị cần biểu đạt của Phê bình sinh
thái là gì, dẫn đến việc nhập nhằng hay không muốn vạch một ranh giới sắc nét cho
chủ nghĩa sinh thái. Ngoài ra, quan niệm mỹ học và tiêu chí mỹ học được xem là yếu
tố quan trọng của học thuyết cũng không được nhắc đến. “Nhìn từ góc độ sách lược
học thuật, đây là một lý giải có thể chấp nhận được, nhưng nhìn từ tính khoa học và
tính logic của một định nghĩa thì vẫn có khiếm khuyết” [32; 51].
Năm 1994, tại hội thảo khoa học về Phê bình sinh thái ở thành phố Salt Lake (Mĩ),
định nghĩa Phê bình sinh thái của Scott Slovic được đánh giá cao và có ảnh hưởng lớn.
Định nghĩa có diện bao phủ rộng, khẳng định tất cả các phương pháp đều có thể
nghiên cứu lối viết tự nhiên, đồng thời, chú trọng và đề cao lối viết tự nhiên và miêu tả
thế giới phi nhân loại. Phê bình sinh thái đã gặt hái được nhiều thành tựu khi định
nghĩa của Scott Slovic được đưa ra. Mặt khác, định nghĩa của Scott Slovic đã đánh
đồng văn học sinh thái với lối viết tự nhiên gây sự lẫn lộn giữa văn học phi sinh thái,
văn bản phi văn học và văn học sinh thái. Định nghĩa Phê bình sinh thái của Scott
Slovic cũng vướng phải sự nhập nhằng về ranh giới này như James S. Hans. Ngoài ra,
định nghĩa cịn giới hạn đối tượng phê bình là các văn bản miêu tả thế giới tự nhiên,
khơng có ý thức phơi bày nguồn gốc xã hội, văn hóa, tư tưởng của nguy cơ sinh thái,
13
nếu chỉ miêu tả tự nhiên, tuyên truyền ý thức sinh thái mà không chỉ rõ nguyên nhân
của nguy cơ sinh thái sẽ dễ dàng dẫn đến cực đoan. Cuối cùng, định nghĩa của Scott
Slovic không chỉ ra được những đặc trưng thẩm mỹ của Phê bình sinh thái dẫn đến
tình trạng người nghiên cứu có thể đứng ở bất kì góc độ nào, dùng bất kì phương pháp
nào để nghiên cứu văn học.
Năm 1996, giáo sư Cheryll Glotfelty – nhà Phê bình sinh thái đầu tiên của Mỹ, đưa
ra định nghĩa Phê bình sinh thái: “Phê bình sinh thái là khoa học nghiên cứu mối quan
hệ giữa văn học và môi trường tự nhiên” (Dẫn theo Nguyễn Thị Tịnh Thy, trong Tuyển
tập phê bình sinh thái: Các mốc quan trọng trong sinh thái học văn học (The
Ecocriticism Reader: Landmarks in Literary Ecology, tr. XVIII). Định nghĩa của
Cheryll Glotfelty thể hiện rõ sứ mệnh của Phê bình sinh thái là thơng qua văn học, thẩm
định, nhìn nhận lại văn hóa nhân loại, “tiến hành phê phán văn hóa, truy tìm nguồn gốc
văn hóa tư tưởng dẫn đến nguy cơ sinh thái” (Nguyễn Thị Tịnh Thy). Định nghĩa này có
sự tiến bộ và bứt phá hơn định nghĩa Phê bình sinh thái của Scott Slovic ở điểm “phê bình
sinh thái đứng một chân ở văn học, một chân ở Trái đất” (Dẫn theo Nguyễn Thị Tịnh
Thy), có nghĩa là khuynh hướng phê bình mới vẫn có sự dung hịa giữa tính nghệ thuật,
tính thẫm mỹ của văn học và “đứng ở góc độ của tồn bộ hệ thống sinh thái để suy nghĩ
vấn đề” (Nguyễn Thị Tịnh Thy). Cheryll Glotfelty mạnh dạn khẳng định khuynh hướng
chủ yếu của học thuyết là chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái, đồng thời xóa bỏ ranh giới nhập
nhằng mà các khái niệm trước mắc phải, nghĩa là khẳng định sự hài hịa giữa chủ nghĩa
mơi trường và chủ nghĩa sinh thái. Tuy nhiên, cũng chính tại điểm này đã khiến cho định
nghĩa của Cheryll Glotfelty chứa đựng mâu thuẫn khi cố chứa đựng cả phê bình mơi
trường, đồng thời, “khơng xác định rõ hàm nghĩa cụ thể của đứng một chân ở văn học”,
“không giới thuyết rõ đặc trưng của phê bình sinh thái là gì” [32; 55]. Một số nhà nghiên
cứu đi theo định nghĩa của Cheryll Glotfelty lướt qua phần nghệ thuật của tác phẩm, khiến
Phê bình sinh thái trở nên đơn điệu, nghèo nàn, bởi “văn học có thể có sự trùng lắp về đề
tài, chủ đề, nhưng có mn vàn cách thức thể hiện đề tài, chủ đề ấy mà không bị trùng
lắp” [32; 63]. Mặc dù có sự khẳng định rõ ràng và sáng tỏ hơn các định nghĩa trước
nhưng khái niệm của Cheryll Glotfelty vẫn “mơ hồ về phương pháp phê bình và q rộng
về tầm nhìn văn hóa” [32; 55].
Trong tiểu luận Một số nguyên tắc của phê bình sinh thái (Some Principles of
Ecocriticism), William Howarth định nghĩa về Phê bình sinh thái là “phán quyết việc
nhà/trong nhà”. Định nghĩa Phê bình sinh thái của William Howarth nhấn mạnh tính
chỉnh thể, khẳng định khuynh hướng tư tưởng cơ bản là chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái.
Tuy nhiên, định nghĩa này lại một lần nữa lướt qua đặc trưng thẩm mỹ của lí thuyết.
Nguyễn Thị Tịnh Thy cho rằng “thuật ngữ ra đời từ ngơn ngữ hình tượng này có tính
học thuật khơng cao, khơng rõ ràng, chặt chẽ. Bản thân định nghĩa đó cũng cần được
định nghĩa và giải thích lại” [30; 57].
14
Trong tiểu luận Tưởng tượng về môi trường: Thoreau, lối viết tự nhiên và sự hình
thành văn hóa Mỹ (The Environmental Imagination: Thoreau, Nature Writing, and the
Formation of American Culture), giáo sư Lawrence Buell đã định nghĩa Phê bình sinh
thái như sau: “Từ tinh thần thực tiễn của chủ nghĩa bảo vệ môi trường, tiến hành
nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và môi trường” (dẫn theo Nguyễn Thị Tịnh Thy,
trong Lawrence Buell, The Environmental Imagination: Thoreau, Nature Writing, and
the Formation of American Culture, 1996, tr430). Định nghĩa là sự “Tích hợp nhiều
ngành khoa học, liên hệ với nhiều sự vật, đề xướng thay đổi tư tưởng, chú ý đến hiện
thực mối quan hệ giữa con người với môi trường” [30; 58], đồng thời, nhấn mạnh Phê
bình sinh thái khơng phải giáo điều, chỉ mang tính khoa học mà tập trung chú ý đến
hiện thực của nguy cơ sinh thái, các hoạt động bảo vệ môi trường. Tuy nhiên,
Lawrence Buell đã đưa ra định nghĩa cho phê bình mơi trường chứ khơng phải cho Phê
bình sinh thái, tức đã hạ thấp chủ nghĩa nhân loại trung tâm. Ngoài ra, Lawrence Buell
chỉ chú trọng “tư tưởng, nội dung của tác phẩm văn học, bỏ qua yếu tố quan trọng của
loại hình nghệ thuật ngơn từ, đó là giá trị nghệ thuật của các tác phẩm văn chương”
[30; 63].
Căn cứ vào những định nghĩ được đưa ra, có sự tiếp thu, xem xét, rút kinh nghiệm
từ những ưu điểm và nhược điểm của các học giả đi trước, Vương Nặc đưa ra định
nghĩa về Phê bình sinh thái như sau: “Phê bình sinh thái là phê bình văn học nghiên
cứu mối quan hệ giữa văn học và tự nhiên từ định hướng tư tưởng của chủ nghĩa sinh
thái, đặc biệt là chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái. Nó phải phơi bày nguồn gốc văn hóa tư
tưởng của nguy cơ sinh thái được phản ánh trong tác phẩm văn học, đồng thời khám
phá thẩm mỹ sinh thái và biểu hiện nghệ thuật của nó trong tác phẩm” (Dẫn theo
Nguyễn Thị Tịnh Thy trong “Sinh thái phê bình: Giới dữ nhiệm vụ”, trong Kinh Á
Bình, Trung ngoại sinh thái văn học văn luận tuyển, Chiết Giang Công thương Đại học
xuất bản xã, 2010, tr.69). Nhược điểm lớn của định nghĩa này là việc địi hỏi Phê bình
sinh thái “phải phơi bày nguồn gốc văn hóa tư tưởng của nguy cơ sinh thái được phản
ánh trong tác phẩm văn học”, tức gián tiếp thu hẹp đối tượng nghiên cứu của Phê bình
sinh thái.
Từ những ưu và nhược điểm của những khái niệm trên, Nguyễn Thị Tịnh Thy tiếp
nhận có phê phán và đề xuất định nghĩa về Phê bình sinh thái như sau: “Phê bình sinh
thái là phê bình văn học nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và tự nhiên từ định
hướng tư tưởng của chủ nghĩa sinh thái, đặc biệt là chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái
thông qua việc khám phá thẩm mỹ sinh thái và biểu hiện nghệ thuật của nó trong tác
phẩm”. Trong q trình nghiên cứu đề tài, người viết xin đi theo hướng định nghĩa về
Phê bình sinh thái của Nguyễn Thị Tịnh Thy.
15
1.2.2. Lịch sử hình thành và phát triển của Phê bình sinh thái
1.2.2.1. Cội nguồn tư tưởng – triết học của Phê bình sinh thái
Khởi nguồn Phê bình sinh thái là một phong trào hướng đến hoạt động xã hội và
môi trường diễn ra vào những năm 70 của thế kỉ XX nhằm chống lại sự tàn phá Trái
đất, song chúng khơng phải là một trào lưu mang tính bộc phát. Khuynh hướng nghiên
cứu văn học mới chứa dụng nguồn gốc tư tưởng sâu xa, có sự bắt rễ từ các hệ tư tưởng
lớn và được dung hòa giữa văn hóa phương Đơng và phương Tây.
Ln lý sinh thái trong văn hóa phương Đơng xuất hiện từ khi mâu thuẫn giữa con
người và tự nhiên chưa được đặt lên bàn cân mà ngày nay các nhà Phê bình sinh thái
thường gọi chúng là “sự mơ hồ sinh thái”. Do đó, chúng ta khơng thể phủ nhận vai trị
của tam giáo phương Đơng đã góp phần hình thành nên diện mạo của học thuyết này.
Trong hành trình tìm về tam giáo, các nhà sinh thái học đều thừa nhận những giá trị
tư tưởng luân lý sinh thái của Phật giáo trong việc nghiên cứu và xây dựng luân lý sinh
thái hiện đại. Thực tế cho thấy rằng, từ bi là pháp tắc quan trọng nhất của Phật pháp,
đó là thái độ bao dung, rộng lượng, khơng toan tính, khơng phân biệt, đặc biệt là biết
cuối xuống thương xót đối với vạn vật chúng sinh. Từ bi trong hành động của Phật
giáo chủ yếu bao gồm bố thí và bất sát sinh (không giết động vật, không chém thảo
mộc tùy tiện), tức là phải đem đến niềm vui, yêu thương cho cả người yêu ta và kẻ
ghét ta. Ngoài ra, Phật giáo còn cho rằng tất cả hiện tượng trong vũ trụ này đều có mối
quan hệ tương tác lẫn nhau trong vòng tròn của nhân – duyên – quả (Duyên khởi luận).
Vịng trịn quan hệ tương hỗ này có thể coi như là một dạng tuần hoàn sinh thái, khẳng
định thế giới là một chỉnh thể thống nhất. Tư tưởng luân lý sinh thái này đã cung cấp
cơ sở tinh thần cho việc giải quyết vấn đề môi trường sinh thái hiện nay.
Trong triết học Nho gia, tư tưởng luân lý sinh thái chủ yếu thể hiện ở các quan niệm
như: “thiên nhân hợp nhất” (trời và người là một), “thiên địa nhân” (trời, đất và con
người là bộ ba), “nhân dân nhi ái vật” (yêu dân là yêu vạn vật), “thủ chi hữu độ” (sử
dụng có hạn độ), “ân cập cầm thú” (ân huệ tới cầm thú), “nhân cập thảo mộc” (yêu
đến cỏ cây), ... Tư tưởng Nho gia hướng con người đến tấm lòng yêu mến, trân quý,
bảo bọc vạn vật, đồng thời, khẳng định giá trị nội tại của vạn vật. Học thuyết Phê bình
sinh thái dường như tiếp thu một cách tuyệt đối tư tưởng Nho gia nhằm hình thành tư
tưởng sinh thái cho con người hiện đại, nhất là trong mối quan hệ hòa hợp, tương hỗ
giữa con người và tự nhiên để đi đến xóa bỏ mối quan hệ chủ/khách.
Trong hệ thống triết học cổ đại Trung Quốc, Đạo gia được các nhà nghiên cứu
phương Tây đánh giá là có trí tuệ sinh thái sâu sắc và hồn thiện nhất. “Tự nhiên vơ vi”
là hạt nhân của học thuyết này. Tư tưởng hướng con người đến cách hành xử tử tế,
khơng làm gì tiêu cực và trái quy luật tự nhiên. “Vô vi” tức thuận theo quy luật tự
nhiên, tôn trọng tự nhiên, theo đuổi sự hòa hợp trong mối quan hệ tự nhiên và con
16
người trong cuộc sống. Đồng thời, phải biết dung hòa giữa vị trí và vai trị của con
người nhưng vẫn đảm bảo thuận theo bản tính vạn vật bởi trời đất với ta cùng sinh ra.
Có thể khẳng định rằng, tư tưởng sinh thái của Đạo gia có ý nghĩa thực tiễn to lớn
trong công cuộc bảo vệ môi trường tự nhiên trong thời đại khủng hoảng môi sinh
nghiêm trọng.
Như vậy, trí tuệ sinh thái của Phật giáo, Nho gia và Đạo gia giao cắt nhau ở việc
đều trao cho tự nhiên một sinh mệnh và một vị thế đặc biệt quan trọng trong đời sống.
Vị thế con người không còn đứng cao hơn tự nhiên mà trạng thái lý tưởng nhất cho
mối quan hệ này là sự hài hòa, tương hỗ. Phê bình sinh thái đứng vững vàng và khẳng
định được sự bền chắc về mặt tư tưởng khi bổ sung trí tuệ sinh thái của Nho, Phật, Đạo
vào cơ sở lý luận, xứng đáng là một khuynh hướng nghiên cứu văn học đầy tiềm năng
mà vẫn đề cao những giá trị văn hóa cốt lõi. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, tư tưởng sinh
thái của tam giáo là để bồi đắp, hoàn thiện lý luận và mở rộng thực tiễn nghiên cứu.
Những tư tưởng luân lý sinh thái phương Tây mới là nguồn gốc trực tiếp của Phê bình
sinh thái.
Đầu tiên có thể kể đến là Thuyết tiến hóa của Darwin – một trong những cơng trình
lịch sử vĩ đại của loài người. Chứng minh một cách thuyết phục bằng khoa học cho
việc phát hiện ra mối quan hệ mật thiết giữa con người và các sinh vật khác, Darwin
đã giáng một đòn mạnh mẽ vào tư tưởng “con người là kiểu mẫu mn lồi” [23; 13].
Thuyết tiến hóa nhấn mạnh rằng tất cả các sinh vật đều có quan hệ huyết thống, rằng
nhân loại và tồn thể sinh vật trên trái đất này đều có cùng nguồn gốc xét về mặt ý
nghĩa sinh học. Từ đó, kêu gọi con người phải đối xử tử tế với sinh mệnh tự nhiên
ngoài con người bởi chúng là họ hàng của ta.
Biện chứng của tự nhiên – một tác phẩm triết học lớn của Engels đã nhấn mạnh mối
quan hệ thống nhất của con người và giới tự nhiên. Engels nhắc nhở con người không
được ngỗ ngược với tự nhiên như là những kẻ chinh phục và thống trị các dân tộc
khác, đồng thời đưa ra lời cảnh tỉnh rằng sự đắc thắng của con người trong việc cải tạo
thế giới một cách mù quáng cùng thái độ ngạo mạn trước tự nhiên sẽ phải trả giá bằng
những hậu quả khơn lường.
Ngồi ra, chúng ta cần phải kể đến những tư tưởng và thông điệp về môi trường của
các triết gia như J. J. Rousseau, Aldo Leopold, Arne Naess, … J. J. Rousseau – nhà
triết học Ánh sáng Pháp nhận định rằng bản chất nguyên thủy con người vốn lương
thiện, qua thời gian, sự lương thiện ấy ngày một mất đi bởi sự chuyển dời và tác động
của xã hội. Triết gia đưa ra quan niệm cần giáo dục và khuyến khích con người quay
trở về với tự nhiên. Khẳng định hậu quả của việc con người đang xây dựng tường rào
ngăn cách giữa mình với tự nhiên. Aldo Leopold – nhà đạo đức học môi trường Mỹ,
tác giả của tiểu luận Luân lí học trái đất (The Land Ethic) cho rằng mỗi sinh vật, mỗi
17
loài vật đều là thành phần tất yếu trong tổng thể của mơi trường tự nhiên rộng lớn.
Aldo Leopold cịn đề xuất để thay đổi thế giới quan “nhân loại trung tâm” để nhận
thức “vạn vật bình đẳng”, từ đó, mối quan tâm giữa con người với con người đã được
mở rộng thành mối quan tâm giữa con người với vạn vật. Người đề xuất khái niệm
Sinh thái học chiều sâu (Deep ecology), Arne Naess đưa ra quan điểm của mình rằng:
“con người và các vật chủng khác “bình đẳng chung sống”, ngăn chặn tình trạng vì
sự tham lam của cá nhân mà đưa trái đất đến hủy diệt, từ đó cứu vớt sinh thái tồn
cầu và tương lai nhân loại” [23; 13]. Phát ngôn của triết gia người Na Uy - Arne
Naess đã giúp con người nhìn nhận lại cách tư duy và hành xử của mình với mơi
trường tự nhiên, đồng thời, cảnh báo con người về tư tưởng trọng lợi ích nhãn tiền,
mang sự ích kỷ, nghèo nàn về tâm hồn của mình mà bức tử thiên nhiên.
Tóm lại, lí thuyết Phê bình sinh thái chỉ mới xuất hiện trong những thập niên cuối
của thế kỷ XX nhưng nó đã có nguồn gốc tư tưởng sâu xa từ tư tưởng văn hóa phương
Đơng và phương Tây. Văn học sinh thái phương Tây đã tìm lại giúp người phương
Đơng tình u và sự hịa hợp với tự nhiên mà trong q trình phát triển họ đã lãng
qn. Cịn phương Tây – những kẻ giương cao ngọn cờ chinh phục, dần thức nhận
hành động tiêu cực của mình đối với tự nhiên trong quá trình phát triển xã hội. Thật
tuyệt vời khi trào lưu nghiên cứu văn học mới, đầy tiềm năng có sự giao hịa giữa văn
hóa Đơng Tây, song đó, khắc phục nhược điểm, khai thác ưu điểm của đôi bên tạo nên
sự hợp nhất cho tư tưởng sinh thái nhân loại. Sự hòa hợp này ắt giúp cho Phê bình sinh
thái có cội nguồn tư tưởng, cơ sở lý luận vững chắc và thuyết phục hơn.
1.2.2.2. Sự manh nha, hình thành và phát triển của Phê bình sinh thái
Trong lời giới thiệu cho Tuyển tập phê bình sinh thái: các mốc quan trọng trong
sinh thái học văn học (Ecocriticism Reader:Landmarks in Literary Ecology), Cheryll
Glotfelty đã dựa trên “mơ hình ba giai đoạn phát triển phê bình nữ quyền của học giả
Elaine Showalter, đồng thời căn cứ vào nội dung và trọng tâm nghiên cứu” [32; 82],
bà cho rằng từ thập niên 70 của thế kỷ XX đến nay, Phê bình sinh thái phát triển qua
ba giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất “chủ yếu nghiên cứu văn học tái hiện tự nhiên và môi
trường như thế nào” [32; 83]. Phê bình sinh thái dựa vào thuyết sinh thái học bề sâu
với nguyên tắc cốt lõi là “niềm tin rằng, môi trường sống là một chỉnh thể cần được
tơn trọng” [23; 14] để xem xét tự nhiên. Ngồi ra, Phê bình sinh thái giai đoạn này cịn
đi theo cách tiếp cận sinh học trung tâm luận “để xem xét tự nhiên được mô tả như thế
nào trong văn học và cả sự thiếu vắng hình ảnh tự nhiên trong một số văn bản văn học
nhất định” [32; 83]. Giai đoạn thứ hai, là giai đoạn đi sâu phân tích các tác phẩm văn
học viết về tự nhiên bị lướt qua nhằm “tìm hiểu và nghiên cứu lịch sử, sự phát triển,
thành tựu và phong cách, thể tài của các tác phẩm miêu tả tự nhiên trong văn học Mỹ”
[30; 176]. Giai đoạn thứ ba, là giai đoạn mà Phê bình sinh bắt đầu hình thành lý luận,
xây dựng cơ sở vững chắc và từng bước hoàn thiện.
18
Lawrence Buell trong Tương lai của phê bình mơi trường: Khủng hoảng môi
trường và tưởng tượng văn học (The Future of Environmental Criticism:
Environmental Crisis and Literary Imagination, 2005) chia Phê bình sinh thái thành
hai “làn sóng”. Làn sóng thứ nhất xuất hiện khoảng giữa thập niên 90 của thế kỷ XX,
lấy sinh thái học bề sâu làm cơ sở để phân tích, khai thác vấn đề sinh thái bị lướt qua
trong những tác phẩm kinh điển. Làn sóng thứ hai bắt đầu khoảng cuối thập niên 90
cho đến đầu thế kỷ XXI, ở giai đoạn này, phạm vi nghiên cứu được mở rộng, Phê bình
sinh thái khơng chỉ đơn giản miêu tả mối quan hệ giữa con người với tự nhiên mà còn
được đặt trong mối quan hệ với văn hóa, xã hội. Việc xây dựng quan hệ xã hội tốt đẹp,
là tiền đề vững chắc cho việc thay đổi lối mòn tư duy, xây dựng và cải biến mối quan
hệ giữa con người với tự nhiên nhằm giảm bớt nguy cơ sinh thái. Tiếp thu cách phân
chia giai đoạn này, Scott Slovic đề xuất làn sóng thứ ba vào khoảng cuối thập niên thứ
nhất của thế kỷ XXI: “Bước sang thế kỷ XXI, phê bình sinh thái bắt đầu hướng theo
một quan điểm thiên về tính chất nhân chủng học và đặt bình diện xã hội làm trung
tâm; giờ đây giới nghiên cứu lại tập trung vào mảng văn học về thành phố và q
trình cơng nghiệp hóa cũng như vấn đề công bằng/bất công môi trường cùng những
vấn đề xã hội liên đới, đặc biệt trong bối cảnh mà những vấn đề về sắc tộc, về các
nhóm thiểu số, cộng đồng bản địa, chủ nghĩa hậu thực dân, cộng đồng lưu vong và
chủ nghĩa thế giới trở thành mối quan tâm hàng đầu. Theo đó, nó dịch chuyển mối
quan tâm về nơi chốn từ phạm vi địa phương sang phạm vi xuyên quốc gia hay toàn
cầu” [29; 03]. Giai đoạn thứ ba nhấn mạnh “góc nhìn liên văn hóa, liên văn minh và
sự kết hợp tơn chỉ chủ nghĩa hành động của phê bình văn học nữ quyền và phê bình
cơng bằng mơi trường” [30; 178], mà khơng cần quan tâm đến bất kì sự chun biệt
hóa nào. “Đâu là cách tốt nhất để tổng hợp và phân tách những động lực (dyamics)
của cái cục bộ, cái toàn cầu và mọi thứ ở giữa; đâu là cách tốt nhất để tổng hợp và
phân tách những khoảng khắc trong thời gian của con người từ thời gian của hành
tinh và mọi thứ ở giữa?” [29; 16] chính ở “hiện tượng xuyên quốc gia và xuyên văn
hóa” [29; 15] trong phạm vi nghiên cứu của Phê bình sinh thái. Nói theo Nguyễn Thị
Tịnh Thy, ba làn sóng hay giai đoạn này giao thoa, trùng điệp, song hành giới nhau, có
lúc nhịe lẫn vào nhau khó phân biệt.
Tiếp nhận những cách phân chia lịch sử Phê bình sinh thái của các học giả đi trước
trên thế giới. Nguyễn Thị Tịnh Thy khơng phân kì lịch sử theo những làn sóng, bởi
tính giao thoa, chứa đựng lẫn nhau, nhập nhịe rất khó phân biệt, mà đi theo hướng
phân chia theo giai đoạn phát triển: Từ năm 1972 đến 1990 được xem là giai đoạn hình
thành, từ năm 1991 đến 2007 là giai đoạn phát triển, từ năm 2008 đến nay là giai đoạn
chuyển hướng. Ở mỗi giai đoạn, các nhà nghiên cứu trên khắp thế giới ln cố gắng
tìm kiếm, khai thác, bồi đắp lí luận phê bình mới qua những cơng trình nổi bật, đồng
thời, đưa trào lưu Phê bình sinh thái làn rộng ra tồn thế giới. Phê bình sinh thái ngày
19
nay đã có những bước tiến mới mẻ, mở rộng về đối tượng, phương pháp và trọng tâm
nội dung nghiên cứu, đồng thời, có sức khái quát và phức tạp vơ cùng. Nhưng nhìn
chung, Phê bình sinh thái ở mỗi giai đoạn vẫn cố gắng hướng đến nhiệm vụ chính là
thay đổi lối mòn tư duy, thái độ của nhân loại đối với tự nhiên.
1.2.3. Những đặc trưng cơ bản của Phê bình sinh thái
Phê bình sinh thái có mầm mống từ rất lâu nhưng “phải đến những năm 1990,
nghiên cứu mối quan hệ giữa văn học và môi trường vật chất mới trở thành một trào
lưu tri thức được xác định rõ ràng. Chắc chắn, bất chập việc khởi điểm của nó thực sự
mới chỉ được tính từ gần đây, phê bình sinh thái (nghiên cứu văn học được định
hướng về chủ đề mơi trường) đã nhanh chóng phát triển thành một lĩnh vực đa dạng,
liên ngành, một hướng nghiên cứu mới hình thành khơng bị ràng buộc vào bất kỳ một
phương pháp đơn lẻ nào hay một giáo điều, một cam kết theo quan điểm môi trường
luận nào” [29; 03]. Phê bình sinh thái là một nhánh mới của lý luận phê bình văn học,
chính vì thế, nó khơng phủ định sạch trơn mà Phê bình sinh thái vừa tiếp thu các thành
tựu, “tiền đề lý luận của nhiều ngành khoa học khác nhau” [32; 65] cùng với đó là sự
“kết hợp với phương thức nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu riêng biệt để tạo nên
những đặc trưng của mình” [32; 65].
Thứ nhất, Phê bình sinh thái chú ý đến đạo đức sinh thái, “xuất phát điểm và đích
đến của phê bình sinh thái là ý thức sinh thái” [32; 66], việc đề ra chính sách, lối đi
cho môi trường trong văn học sinh thái tuy chưa mang tính thực thi cao, vướng phải
nhiều khó khăn nhất định nhưng đã tác động rất lớn đến ý thức sinh thái, tức là trong
“hình dung, hiểu biết và kỳ vọng” - đó chính là động lực, “địa hạt màu mỡ” (Nói theo
Nguyễn Thị Tịnh Thy) cho nghiên cứu Phê bình sinh thái ở thế kỷ XXI. Khi đề cập
đến đạo đức sinh thái, mối quan hệ giữa nhà nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu phải
xóa bỏ ranh giới chủ thể hay khách thể mà tiến đến xây dựng nguyên tắc mỹ học riêng,
“thẩm mỹ sinh thái là thẩm mỹ mang tính tự nhiên, thẩm mỹ sinh thái đề cao chỉnh
thể, thẩm mỹ sinh thái đề cao nguyên tắc dung nhập” [16; 02]. Chính những yếu tố đó,
Phê bình sinh thái góp phần “xây dựng, khơi phục ý thức sinh thái, tinh thần sinh thái
của người đọc” [30; 67] bởi “văn học là sản phẩm của môi trường văn hóa xã hội, mà
trực tiếp là mơi trường sinh thái tinh thần của con người. Mối quan hệ giữa văn học
và môi trường sinh thái tinh thần ngày càng được quan tâm sâu sắc hơn trên thế giới”
[27; 01].
Thứ hai, Phê bình sinh thái kích thích việc đọc lại văn học kinh điển truyền thống từ
góc nhìn sinh thái. Các tác phẩm văn học kinh điển được khai quật và nhìn nhận lại từ
góc nhìn Phê bình sinh thái với mục đích “tìm ra ý nghĩa văn hóa sinh thái và ý nghĩa
mỹ học sinh thái từng bị chìm khuất” [32; 68], từ đó, “thúc đẩy tồn nhân loại ni
dưỡng và bồi đắp tố chất sinh thái nhân văn” [32; 68].
20
Thứ ba, Phê bình sinh thái giữ vững lập trường chủ nghĩa sinh thái trung tâm. Các
khái niệm ban đầu về Phê bình sinh thái của James S. Hans, Scott Slovic, vẫn còn nhập
nhằng trong việc theo đuổi các lập trường, nhưng về sau Phê bình sinh thái đã đi đúng
hướng khi giữ vững lập trường sinh thái trung tâm, “giải cấu trúc” về sự đối lập nhị
nguyên, đề cao tính đa ngun, trong đó, con người và tự nhiên “có mối quan hệ thống
nhất về sinh mệnh, đồng sinh đồng tử” [32; 68].
Thứ tư, Phê bình sinh thái có tính liên ngành. Phê bình sinh thái là một loại phê
bình văn hóa, tầm nhìn lý luận rộng lớn của Phê bình sinh thái khơng đơn thuần phân
tích tự nhiên được thể hiện như thế nào bên trong tác phẩm văn học hay sự tác động
qua lại giữa con người và tự nhiên, mà “chú trọng thâm nhập vào các tầng vỉa của tác
phẩm văn học từ góc độ sự phát triển của xã hội loài người và sự thay đổi của mơi
trường sinh thái” [32; 69]. Ngồi ra, khủng hoảng môi trường, nguy cơ sinh thái cùng
với sự xuống cấp về đạo đức, khủng hoảng tinh thần là chất xúc tác để Phê bình sinh
thái ra đời. Nhằm đem đến góc nhìn tồn diện, đa dạng, phong phú, sâu sắc hơn cho
thực tiễn phê bình, địi hỏi Phê bình sinh thái phải mang tính liên ngành, đó chính là
“sự hấp thụ kiến thức của sinh thái học, sinh vật học, địa lý học, tâm lý học, nhân loại
học, văn hóa học, mỹ học, đạo đức học, sử học, tơn giáo học,…” [32; 70]. Hơn thế
nữa, đặc trưng này còn giúp cho đối tượng nghiên cứu của Phê bình sinh thái vượt ra
khỏi phạm vi văn học.
Thứ năm, Phê bình sinh thái thể hiện tinh thần văn hóa sinh thái thơng qua “tính
văn học”. Phê bình sinnh thái sẽ khơng vì nhiệm vụ chính trị của mình mà “xao nhãng
nhiệm vụ phát hiện, phân tích, kiến giải những tín hiệu thẩm mỹ của tác phẩm văn
học. Hay nói một cách khác, tất cả mọi thông điệp của văn học đều được thể hiện
thơng qua thế giới hình tượng” [32; 71]. Nhờ vào “tính văn học” mà tinh thần của văn
hóa sinh thái được thể hiện rõ, giá trị sinh thái và giá trị của tác phẩm nghệ thuật giữ ở
cán cân cơng bằng. Phê bình sinh thái giúp văn học khơng sa lầy vào chủ nghĩa hình
thức mà “u cầu khảo sát trạng thái tồn tại trong quá khứ và tương lai của nhân loại
từ điểm nhìn song trùng của bản chất sinh mệnh và Trái đất” [32; 72]. Ngoài ra, khơng
phiến diện khi chỉ đi phân tích tác phẩm văn học có “lối viết tự nhiên”, nghĩa là cực
đoan kêu gọi người đọc quay trở về với tự nhiên mà bỏ qua những giá trị nghệ thuật
đặc sắc, làm nên linh hồn cho tác phẩm.
Thứ sáu, Phê bình sinh thái có hàm nghĩa thuật ngữ rất phức tạp. Theo Nguyễn Thị
Tịnh Thy, những người phản đối Phê bình sinh thái yêu cầu phải tách bạch rõ ràng
giữa văn học có tính học thuật với vấn đề nguy cơ mơi trường có tính hiện thực. Mặt
khác, họ cũng khơng thể phủ nhận văn chương là sự phản ánh hiện thực một cách rõ
nét và giữa chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau, điều này đặt ra một bài tốn khó,
thách thức về sự cân bằng giữa “tinh thần của chủ nghĩa mơi trường” với “thực tiễn lí
luận phê bình văn học” [32; 73]. Trong nỗ lực để trở thành một loại phê bình văn hóa,
Phê bình sinh thái cũng vướng phải mẫu thuẫn nội hàm với văn hóa trong việc khẳng
21