Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Bài giảng Tư tưởng Hồ Chí Minh - Bài 4: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (742.01 KB, 16 trang )

Bài 4: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản Việt Nam

BÀI 4

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Hướng dẫn học
Để học tốt bài này, học viên cần tham khảo các phương pháp học sau:
 Học đúng lịch trình của mơn học theo tuần, làm các bài luyện tập đầy đủ và tham gia
thảo luận trên diễn đàn.
 Đọc tài liệu:
1. Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2011.
2. Văn kiện Đại hội Đảng VIII, IX, X, XI.
3. Đường cách mệnh. Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, trang
289 – 280.
4. Ba mươi năm hoạt động của Đảng. Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 10, Nxb Chính trị
quốc gia, trang 7 – 22.
5. PGS. TS. Nguyễn Khánh Bật (Chủ biên) "Sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin của Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam trong cách mạng
giải phóng dân tộc". Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2010.
 Học viên làm việc theo nhóm và trao đổi với giảng viên trực tiếp tại lớp học hoặc qua email.
 Trang Web môn học.
Nội dung
Bài này gồm hai nội dung lớn:
 Quan niệm của Hồ Chí Minh về vai trị, bản chất của Đảng cộng sản Việt Nam.
 Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam trong sạch, vững mạnh.
Mục tiêu
 Luận giải tính tất yếu thành lập Đảng cộng sản và vai trị, tính sáng tạo của Hồ Chí
Minh trong việc tổ chức thành lập Đảng cộng sản Việt Nam.
 Nắm vững quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò, bản chất của Đảng cộng sản Việt Nam
 Nắm vững quan điểm của Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền, mối quan hệ giữa Đảng


và Dân.

 Hiểu và liên hệ thực tiễn những vấn đề cơ bản trong quan điểm Hồ Chí Minh về cơng
tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong điều kiện hiện nay.

NEU_PHH_Bai4_v1.0013101215

53


Bài 4: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản Việt Nam

Tình huống dẫn nhập
Tình huống 1:
Trong sự nghiệp cách mạng của giai cấp cơng nhân, có ba điều kiện quan trọng đảm bảo thắng
lợi, đó là:
 Có lý luận ( chủ nghĩa Mác - Lênin);
 Có tổ chức lãnh đạo ( Đảng cộng sản);
 Có lực lượng.
Trong ba điều kiện trên, sự lãnh đạo của Đảng cộng sản là vấn đề quan trọng, có ý nghĩa quyết
định nhất đảm bảo thành công của sự nghiệp cách mạng. Tại sao vậy?
Để giải quyết tình huống này cần làm rõ: Tính tất yếu thành lập, vai trị lãnh đạo của
Đảng cộng sản đối với sự nghiệp cách mạng của giai cấp cơng nhân và của cả dân tộc.
Tình huống 2:
Trong mọi hồn cảnh, mọi giai đoạn cách mạng, lúc khó khăn, lúc phát triển, lúc thắng lợi, Hồ
Chí Minh ln khẳng định: "Việc cần làm trước tiên là phải xây dựng, chỉnh đốn Đảng". Trong
sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay, Đảng ta khẳng định nhiệm vụ xây dựng kinh tế là trọng
tâm, xây dựng Đảng là then chốt. Tại sao vậy?
Để giải quyết tình huống trên cần làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác xây
dựng chỉnh đốn Đảng và sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.


Tất cả những vấn đề trên được làm rõ trong bài này.

54

NEU_PHH_Bai4_v1.0013101215


Bài 4: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản Việt Nam

4.1.

Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò, bản chất của Đảng cộng sản Việt Nam

4.1.1.

Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam

 Quan điểm của Mác – Ăngghen
Sự hình thành Đảng cộng sản nằm trong quy luật đấu tranh của giai cấp cơng nhân.
Bởi vì, xuất phát từ địa vị kinh tế - xã hội của mình, giai cấp cơng nhân giữ vai trị
lịch sử lãnh đạo tồn xã hội thực hiện thành cơng nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Tuy nhiên, để hoàn thành vai trị lịch sử, cần thiết phải có ba điều kiện
quyết định, đó là:





Có lý luận phù hợp;

Có tổ chức lãnh đạo;

Có lực lượng đồn kết.
Trong đó, Đảng cộng sản là điều kiện quan trọng, có ý nghĩa quyết định hàng đầu,
đảm bảo phong trào công nhân đi tới thắng lợi. Bởi vì, Đảng cộng sản là lực lượng
lãnh đạo chính trị, bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp cơng nhân, có sứ mệnh
truyền bá lý luận, hình thành ý thức chính trị tự giác của giai cấp công nhân và trực
tiếp lãnh đạo phong trào công nhân đi tới thắng lợi. Mác khẳng định: "Trong cuộc
đấu tranh chống quyền lực liên hiệp của giai cấp hữu sản, giai cấp cơng nhân chỉ
có thể tổ chức thành chính đảng độc lập, có như vậy, giai cấp cơng nhân mới đấu
tranh với tính cách là một giai cấp".
 Quan điểm của Lê nin về sự ra đời của Đảng cộng sản
Theo Lê nin, Đảng cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp
giữa chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân. Đây là
sự kết hợp giữa lý luận và thực tiễn đấu tranh cách mạng
của giai cấp công nhân.
Sự kết hợp này tạo cơ sở vững chắc cho cả hai: "Chủ nghĩa
Mác cần phong trào công nhân với tư cách là lực lượng để
thực hiện chủ nghĩa của mình và phong trào công nhân cần
chủ nghĩa Mác để soi đường, dẫn lối đấu tranh".
 Quan điểm của Hồ Chí Minh
Khi tiếp thu quan điểm trên của Lê nin, Hồ Chí Minh đã khẳng định tính đúng đắn của
nó, nhưng đồng thời cũng thấy rằng luận điểm này chưa đề cập một cách cụ thể đến
các nước thuộc địa, nơi có phong trào yêu nước diễn ra mạnh mẽ và chiếm ưu thế.
Hồ Chí Minh bằng nhãn quan chính trị sắc bén và sự hiểu biết sâu sắc về bản chất
của chủ nghĩa Mác - Lênin và yêu cầu của phong trào yêu nước nên đã thấy rằng,
ở Việt Nam, chủ nghĩa Mác - Lênin nếu chỉ kết hợp với phong trào cơng nhân
khơng thơi thì chưa đủ điều kiện hình thành nên Đảng cộng sản mà cịn phải kết
hợp với cả phong trào yêu nước. Tức là chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ được
truyền bá vào phong trào cơng nhân mà cịn phải được truyền bá rộng rãi vào các

tầng lớp dân cư. Bởi vì phong trào yêu nước thu hút được quần chúng đông đảo
hơn, đa dạng hơn. Công nhân ra đời từ nông dân. Giữa họ có một kẻ thù chung
trước mắt là bọn đế quốc, thực dân. Bản thân Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu
nước từ một người yêu nước, các lãnh tụ, các đảng viên tiền bối của Đảng cộng

NEU_PHH_Bai4_v1.0013101215

55


Bài 4: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản Việt Nam

sản Việt Nam cũng vậy. Sự kết hợp này tạo cơ sở vững chắc cho cả ba cùng phát
triển mà trước hết là phong trào yêu nước, bởi nó giúp phong trào yêu nước vượt
qua giới hạn yêu nước truyền thống để trở thành chủ nghĩa yêu nước mới: Yêu
nước gắn với yêu chủ nghĩa xã hội. Chính sự kết hợp ấy tạo ra sự bùng nổ về lịng
u nước, trí thơng minh, sự dũng cảm của mỗi người cách mạng, làm cho phong
trào yêu nước có sự chuyển biến về chất: yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội, yêu
chủ nghĩa xã hội, càng phải nâng cao lịng u nước, u nhân dân.
Trên cơ sở phân tích lý luận và thực tiễn, Hồ Chí Minh đã đi đến tổng kết: Sự ra đời
của Đảng cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin
với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đây là sự đóng góp to
lớn của Hồ Chí Minh vào lý luận về Đảng cộng sản của chủ nghĩa Mác – Lênin.
4.1.2.

Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trị của Đảng cộng sản

 "Cách mạng trước hết cần có Đảng"

Đối với Mác, Ăng ghen và Lê nin, sự ra đời của Đảng cộng sản trước hết là đáp ứng

đòi hỏi của sự nghiệp giải phóng giai cấp cơng nhân. Đối với Hồ Chí Minh, Đảng
cộng sản Việt Nam ra đời, trước hết vì sự nghiệp giải phóng của dân tộc. Người
khẳng định, sự bóc lột tàn bạo của chủ nghĩa thực dân đã đẩy các dân tộc thuộc địa,
trong đó có Việt Nam đến tình trạng "hấp hối trong vịng tử địa". Người viết: "Vì áp
bức mà sinh ra cách mạng, trước sự diệt vong của giống nịi, do sự thống trị đơ hộ
đưa lại, người dân Việt nam ngày càng ý thức được rằng có cách mạng thì sống,
khơng có cách mạng thì chết, do vậy, muốn sống phải làm cách mệnh"1.
Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam không phải chỉ vì lợi ích của giai cấp cơng
nhân hay những người cộng sản mà trước hết để cứu lấy con Lạc, cháu Hồng. Đây
là quan điểm mới mẻ, sáng tạo của Hồ Chí Minh về vai trị của Đảng ở một nước
thuộc địa.
 Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, nhưng nhân dân chỉ có thể phát
huy vai trị thực sự của mình khi họ được giác ngộ về lý tưởng, hành động tự giác,
đoàn kết thống nhất. Đảng cộng sản ra đời thực hiện nhiệm vụ đó.
 Hồ Chí Minh khẳng định: "Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng
thế giới". Do vậy, để đảm bảo thắng lợi của sự nghiệp cách mạng cần phải tổ chức
đoàn kết quốc tế. Đảng cộng sản thực hiện nhiệm vụ cao cả này.
 Năm 1927, Hồ Chí Minh đã đặt ra câu hỏi lớn "Cách mệnh trước hết cần có gì”và
Người khẳng định: "Trước hết phải có Đảng, để trong thì vận động quần chúng,

1

Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 2, trang 267

56

NEU_PHH_Bai4_v1.0013101215


Bài 4: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản Việt Nam


ngồi thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp khắp nơi. Đảng có vững thì
cách mệnh mới thành cơng, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy"2.
 Theo Hồ Chí Minh, những cơ sở quan trọng đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng
cộng sản đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam đó là:




Đảng được trang bị bởi học thuyết Mác – Lê nin.



Đảng cộng sản được nhân dân tin cậy và ủng hộ.

Đảng viên Đảng cộng sản là những người ưu tú,
tiến bộ của giai cấp và dân tộc.

4.1.3.

Bản chất của Đảng cộng sản Việt Nam

4.1.3.1.

Đảng cộng sản Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân:

Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của
giai cấp công nhân, mang bản chất giai cấp công nhân. Trong Sách lược vắn tắt,
Chương trình tóm tắt, của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được thông qua tại
Hội nghị hợp nhất ngày 3/2/1930 khẳng định, Đảng là đội tiên phong của vô sản giai

cấp, là đội tiên phong của đạo quân vô sản. Tư tưởng trên tiếp tục được Hồ Chí Minh
nhắc lại trong những năm 50, 60 của thế kỷ trước. Năm 1953, Hồ Chí Minh viết:
"Đảng lao động là tổ chức cao nhất của giai cấp cần lao"3. Năm 1960, Người khẳng
định: "Đảng ta là Đảng của giai cấp công nhân..., gồm những người giác ngộ, tiên
tiến, gương mẫu, dũng cảm, hy sinh nhất"4. Đây là quan điểm cơ bản, nhất quán của
Hồ Chí Minh về bản chất giai cấp của Đảng cộng sản. Bản chất giai cấp công nhân
của Đảng được thể hiện trên ba phương diện chủ yếu:
 Về lý luận: Hồ Chí Minh ln chủ trương Đảng
phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, hệ tư tưởng của
giai cấp công nhân làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ
nam cho hành động.
 Về mục tiêu, lý tưởng: Xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội.
 Về tổ chức: Tuân thủ chặt chẽ những nguyên tắc
sinh hoạt đảng kiểu mới của giai cấp vơ sản, đặc Hồ Chí Minh, Báo cáo chính trị
đọc tại Đại hội II của Đảng
biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ.
(2/1951)

4.1.3.2.

Đảng của nhân dân lao động và của tồn dân tộc

Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (Tháng
2/1951), Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Trong giai đoạn này quyền lợi của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam
là Đảng của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của
dân tộc Việt Nam"5. Năm 1957, Hồ Chí Minh khẳng định: Đảng là đội tiên phong của

2


Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 2, trang 268
Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 7, trang 230
4
Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 10, trang 217
5
Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 6, trang 175
3

NEU_PHH_Bai4_v1.0013101215

57


Bài 4: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản Việt Nam

giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của dân tộc. Trong thời kỳ miền Bắc
xây dựng chủ nghĩa xã hội, năm 1961, Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định: Đảng ta là
đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là đảng của dân tộc, không thiên tư, thiên vị.
Quan niệm Đảng không những là Đảng của giai cấp cơng nhân mà cịn là Đảng của
nhân dân lao động và của cả dân tộc có ý nghĩa to lớn đối với cách mạng Việt Nam.
Đảng đại diện cho lợi ích của tồn dân tộc cho nên nhân dân Việt Nam ln coi Đảng
là Đảng của chính mình. Trong thành phần, ngồi cơng nhân cịn có những người ưu
tú thuộc các giai cấp tầng lớp khác như nơng dân, trí thức, tiểu tư sản... Đảng ta cũng
khẳng định rằng, để đảm bảo, tăng cường bản chất giai cấp cơng nhân, Đảng ln ln
gắn bó mật thiết với giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và tồn thể dân tộc trong
tất cả các thời kỳ của cách mạng. Trong q trình rèn luyện Đảng, Hồ Chí Minh ln
chú trọng tính thống nhất giữa yếu tố giai cấp và yếu tố dân tộc. Sức mạnh của Đảng
không chỉ bắt nguồn từ giai cấp cơng nhân mà cịn bắt nguồn từ các tầng lớp nhân dân
lao động khác.

4.1.4.

Quan niệm của Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản Việt Nam cầm quyền

4.1.4.1.

Khái niệm

 Đảng chính trị
Đảng chính trị là một bộ phận ưu tú, tiến bộ, đại diện cho ý chí, quyền lợi của một
giai cấp, tầng lớp xã hội và có nhiệm vụ lãnh đạo giai cấp, tầng lớp xã hội đó đấu
tranh đi tới thắng lợi.
 Đảng lãnh đạo
Là đảng có vai trị tiên phong trong cuộc đấu tranh chính trị, đấu tranh giai cấp; tập
hợp, dẫn dắt và định hướng các lực lượng chính trị - xã hội khác nhau vì mục tiêu
đã được xác định.
Theo Hồ Chí Minh, khái niệm Đảng cộng sản lãnh đạo dùng để chỉ vai trò lãnh
đạo của Đảng cộng sản trong tồn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam vì mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
 Đảng cầm quyền
Đảng cầm quyền là khái niệm dùng trong khoa học chính trị, dùng để chỉ một đảng
chính trị đại diện cho một giai cấp đang nắm giữ và lãnh đạo chính quyền để điều
hành đất nước nhằm thực hiện lợi ích của giai cấp mình.
Khái niệm "Đảng cầm quyền”đã từng được dùng phổ biến tại các nước tư bản chủ
nghĩa. Ở các nước này, nếu một chính đảng có đại biểu giành được đa số phiếu tại
các cuộc bầu cử trong quốc hội thì đảng đó trở thành đảng cầm quyền.
Về mặt thuật ngữ, trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, có thể bắt gặp các khái
niệm dùng để chỉ một hiện tượng Đảng lãnh đạo xã hội sau khi đã giành được
chính quyền như: "Đảng nắm quyền”"Đảng lãnh đạo chính quyền”"Đảng điều
hành chính quyền". Cụm từ "Đảng cầm quyền”được Hồ Chí Minh ghi trong bản

"Di chúc”của Người năm 1969. Theo Hồ Chí Minh, Đảng cầm quyền là Đảng lãnh
đạo chính quyền để tiếp tục thực hiện nhiệm vụ giành độc lập dân tộc, dân chủ và
chủ nghĩa xã hội.
Khi chưa có chính quyền, nhiệm vụ chính của Đảng là lãnh đạo toàn dân tộc thực
hiện cuộc đấu tranh cách mạng giành chính quyền. Phương thức lãnh đạo chủ yếu
là tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, vận động quần chúng đấu tranh cách mạng
giành chính quyền.
58

NEU_PHH_Bai4_v1.0013101215


Bài 4: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản Việt Nam

Đảng lãnh đạo trong điều kiện chưa cầm quyền sẽ phải
đương đầu với vơ vàn khó khăn, thử thách. Trong sự
đàn áp, khủng bố của kẻ thù, mọi quan điểm, đường
lối của Đảng đến với nhân dân chủ yếu thông qua hoạt
động của các tổ chức Đảng và mỗi cán bộ đảng viên.
Trong điều kiện như vậy, mỗi cán bộ đảng viên phải là
tấm gương sáng trong đấu tranh cách mạng, có như
vậy, mới hồn thành được nhiệm vụ, mới được quần
chúng nhân dân tin yêu và bảo vệ. Mọi sự xa rời nhân
dân đều có thể dẫn tới những tổn thất vô cùng to lớn
cho cách mạng.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, chính quyền là cơng cụ mạnh mẽ đưa đường lối,
chủ trương của Đảng vào trong cuộc sống. Trước kia, muốn đưa một chủ trương,
đường lối của Đảng đến với quần chúng nhân dân đòi hỏi biết bao thời gian, cơng
sức, thậm chí cả xương máu của khơng ít cán bộ, đảng viên. Khi có chính quyền
thì việc đó lại diễn ra hết sức thuận lợi, nhanh hơn và hiệu quả hơn nhiều.

Theo Hồ Chí Minh, khi trở thành Đảng cầm quyền thì bản chất, mục tiêu và lý
tưởng của Đảng khơng thay đổi, đó vẫn là sự nghiệp cách mạng nhằm giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người, đem lại cuộc sống hịa bình,
no ấm và hạnh phúc thực sự cho nhân dân. Khi trở thành Đảng cầm quyền càng có
thêm cơng cụ là chính quyền để thực hiện mục tiêu, lý tưởng đó.
Tuy nhiên, khi có chính quyền trong tay, một vấn đề mới cực kỳ to lớn, và cũng là
thử thách hết sức nặng nề của Đảng là chống lại tình trạng quan liêu, tham nhũng,
thối hóa biến chất của cán bộ đảng viên, làm sao đảng phải thực sự là tổ chức
trong sạch, vững mạnh, mỗi cán bộ đảng viên phải thực sự nêu cao đạo đức cách
mạng, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân.
4.1.4.2.

Đảng cầm quyền vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành
của nhân dân

 Là người lãnh đạo: Lãnh đạo trực tiếp, toàn diện đối với Nhà nước, các tổ chức
đoàn thể xã hội và toàn thể nhân dân.



Phương thức lãnh đạo: Chủ trương, đường lối, định hướng chính trị; tuyên
truyền, giáo dục, thuyết phục; năng lực uy tín của Đảng, công tác kiểm tra,
giám sát...



Điều kiện lãnh đạo: Có năng lực, trình độ, có tầm nhìn xa trơng rộng; có phẩm
chất, uy tín được nhân dân tin cậy và thừa nhận.
 Là người đầy tớ trung thành của nhân dân:
Sự nghiệp lãnh đạo của Đảng là vì dân, tận tâm, tận lực phục vụ nhân dân “Việc gì có

lợi cho dân thì phải làm cho kỳ được, việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh"6; mỗi
cán bộ đảng viên "đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung, chứ
không phải để đè đầu, cưỡi cổ dân như thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật"7.

6
7

Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 6, trang 88
Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 4, trang 56

NEU_PHH_Bai4_v1.0013101215

59


Bài 4: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản Việt Nam

Trong quan điểm của Hồ Chí Minh "lãnh đạo”và "đầy tớ”là thống nhất. Dù là
người “lãnh đạo” hay “đầy tớ” đều chung một mục đích: vì dân. Làm tốt vai trò,
chức năng lãnh đạo hay “đầy tớ” là cơ sở để khẳng định năng lực, uy tín của Đảng
đối với tồn xã hội.
4.2.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam trong sạch,
vững mạnh

4.2.1.

Xây dựng Đảng – quy luật tồn tại và phát triển của Đảng


Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh chiếm vị trí đặc biệt
quan trọng trong toàn bộ di sản của Người. Đây là một hệ thống luận điểm có tính
khoa học, nhất qn cao.
Theo Hồ Chí Minh: Xây dựng đảng là cơng tác đặc biệt quan trọng, vừa có ý nghĩa
cấp bách, vừa có ý nghĩa lâu dài nhằm làm cho đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao
năng lực, uy tín của Đảng, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng.
Cơ sở của tư tưởng này như sau:
 Sự nghiệp cách mạng là một quá trình bao gồm
nhiều thời kỳ, nhiều giai đoạn khác nhau, mỗi thời
kỳ có những yêu cầu và nhiệm vụ cụ thể. Trước
diễn biến của điều kiện khách quan, Đảng phải
chỉnh đốn, tự đổi mới để vươn lên làm tròn nhiệm
vụ trước giai cấp và dân tộc (đáp ứng địi hỏi của
tình hình mới).
 Vấn đề xây dựng, chỉnh đốn Đảng cũng được đặt ra
trong các hoàn cảnh khác nhau:



Khi cách mạng gặp khó khăn, xây dựng Đảng để giúp cho mỗi cán bộ đảng
viên củng cố lập trường, bản lĩnh cách mạng, không tỏ ra bị động, bi quan,
vượt qua khó khăn, thử thách.



Khi cách mạng đang trên đà thắng lợi, xây dựng, chỉnh đốn Đảng để xây dựng
những quan điểm, tư tưởng cách mạng, khoa học, ngăn ngừa bệnh chủ quan, tự
mãn, "kiêu ngạo cộng sản".
Trong ngày đầu kháng chiến toàn quốc, nhằm đáp ứng yêu cầu của kháng chiến,
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Trước hết phải chỉnh đốn nội bộ của Đảng". Khi cách

mạng chuyển sang thế phản cơng (năm 1952), Người nói: "Muốn lãnh đạo vững,
trước hết đảng viên phải có tư tưởng, lập trường vững chắc để lãnh đạo, xung
phong gương mẫu. Vì vậy, chỉnh đốn Đảng là việc chính mà chúng ta cần làm
ngay". Trước lúc đi xa, Người để lại lời tâm huyết cho toàn Đảng, toàn dân: "Việc
cần làm trước tiên là chỉnh đốn Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi chi bộ đều ra
sức làm trịn nhiệm vụ, tồn tâm, tồn ý phục vụ nhân dân".
 Hồ Chí Minh cũng cho rằng xây dựng, chỉnh đốn Đảng là cơ hội để mỗi cán bộ
Đảng viên tu dưỡng đạo đức cách mạng, nâng cao năng lực, trình độ, đáp ứng
nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó.
 Trong điều kiện Đảng trở thành Đảng cầm quyền, việc xây dựng Đảng là cơng
việc thường xun, quan trọng và có ý nghĩa cấp bách. Người đã thấy rõ hai mặt
của quyền lực: một là, quyền lực có sức mạnh to lớn để cải tạo xã hội cũ, xây dựng
xã hội mới tiến bộ, nếu biết nhận thức và sử dụng đúng. Mặt khác, nó cũng có sức
60

NEU_PHH_Bai4_v1.0013101215


Bài 4: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản Việt Nam

phá hoại ghê gớm nếu quyền lực bị tha hóa. Những cán bộ Đảng viên từ chỗ được
giao quyền thành sở hữu quyền lực, tham nhũng, ức hiếp nhân dân... Đây là một
thử thách cực kỳ to lớn, thậm chí là một nguy cơ đe dọa đến vận mệnh của Đảng,
sự tồn vong của chế độ xã hội mới.
Hồ Chí Minh nêu lên một chân lý quan trọng phản ánh đúng thực tiễn và đã được
kiểm nghiệm không phải chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều nơi trên thế giới: "Một
dân tộc, một đảng, một người, ngày hơm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không
nhất định là ngày hôm nay và mai sau vẫn được ca ngợi, nếu lịng dạ khơng trong
sáng, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân"8.
Nhìn một cách tổng quát, theo Hồ Chí Minh xây dựng Đảng mang tính quy luật, là

nhu cầu tồn tại và phát triển Đảng. Đổi mới Đảng nhằm làm cho Đảng thực sự
trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; làm cho cán bộ đảng viên
không ngừng nâng cao phẩm chất và năng lực trước những yêu cầu, đòi hỏi ngày
càng cao, phức tạp của nhiệm vụ cách mạng. Đổi mới Đảng sẽ làm cho toàn Đảng
trở thành một khối thống nhất về nhận thức và tư tưởng, làm cơ sở cho sự thống
nhất về hành động, đủ sức chèo lái con thuyền cách mạng Việt nam vượt qua
phong ba, bão táp, cập bến bờ vinh quang.
4.2.2.

Nội dung công tác xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam

4.2.2.1.

Xây dựng Đảng về tư tưởng, lý luận

Để đạt mục tiêu cách mạng, Hồ Chí Minh chỉ rõ: phải dựa vào lý luận cách mạng và
khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh đã ví chủ nghĩa Mác - Lênin như
trí khơn của con người, như bàn chỉ nam định hướng cho con tàu đi là nói lên vai trị
cực kỳ quan trọng của lý luận ấy trong tất cả các thời kỳ cách mạng. Với ý nghĩa đó,
theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác - Lênin trở thành "cốt", trở thành nền tảng tư tưởng
và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong việc tiếp nhận và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh lưu ý những
điểm sau đây:
Một là, việc học tập, nghiên cứu, tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin phải luôn phù
hợp với từng đối tượng.
Hai là, việc vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin phải luôn luôn phù hợp với từng hồn cảnh.
Ba là, trong q trình hoạt động, Đảng ta phải chú ý học tập, kế thừa những kinh
nghiệm tốt của các Đảng cộng sản khác, đồng thời Đảng ta phải tổng kết kinh nghiệm
của mình để bổ sung chủ nghĩa Mác - Lênin.
Bốn là, Đảng ta phải tăng cường đấu tranh để bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa

Mác - Lênin.
4.2.2.2.

Xây dựng Đảng về chính trị

Tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng Đảng về chính trị có nhiều nội dung, bao
gồm xây dựng đường lối chính trị, bảo vệ chính trị, xây dựng và thực hiện nghị quyết,
xây dựng và phát triển hệ tư tưởng chính trị, củng cố lập trường chính trị, nâng cao
bản lĩnh chính trị…

8

Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 12, trang 557 - 558

NEU_PHH_Bai4_v1.0013101215

61


Bài 4: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản Việt Nam

Đảng thực hiện vai trị lãnh đạo chính trị của mình, chủ yếu bằng việc đề ra cương
lĩnh, đường lối chiến lược, phương hướng phát triển kinh tế - xã hội cũng như sách
lược và quy định những mục tiêu phát triển của xã hội theo hướng lâu dài cũng như
của từng giai đoạn. Đảng muốn xây dựng đường lối chính trị đúng đắn cần phải coi
trọng những vấn đề: Đường lối chính trị phải dựa trên
cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng nó
vào hồn cảnh cụ thể của nước ta trong từng thời kỳ;
trong xây dựng đường lối chính trị phải học tập kinh
nghiệm của các Đảng cộng sản anh em, nhưng phải

tính đến những điều kiện cụ thể của đất nước và của
thời đại trong từng giai đoạn hoặc cả thời kỳ dài; để có
đường lối chính trị đúng, Đảng phải thật sự là đội tiên
phong dũng cảm và là bộ tham mưu sáng suốt của giai
cấp công nhân, của nhân dân lao động và cả dân tộc.
Hồ Chí Minh lưu ý cần phải giáo dục đường lối, chính sách của Đảng, thông tin thời
sự cho cán bộ, Đảng viên để họ luôn luôn kiên định lập trường, giữ vững bản lĩnh
chính trị trong mọi hồn cảnh, đồng thời, Người cũng cảnh báo nguy cơ sai lầm về
đường lối chính trị gây hậu quả nghiêm trọng đối với vận mệnh của Tổ quốc, sinh
mệnh chính trị của hàng triệu Đảng viên cũng như của hàng triệu nhân dân lao động.
4.2.2.3.

Xây dựng Đảng về tổ chức, bộ máy, công tác cán bộ

Hệ thống tổ chức của Đảng: Hồ Chí Minh khẳng định sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ
tổ chức, một tổ chức tiên phong chiến đấu của giai cấp công nhân. Hệ thống tổ chức của
Đảng từ Trung ương đến cơ sở phải thật chặt chẽ, có tính kỷ luật cao. Sức mạnh các tổ
chức liên quan chặt chẽ với nhau; mỗi cấp độ tổ chức có chức năng, nhiệm vụ riêng.
Trong hệ thống tổ chức Đảng, Hồ Chí Minh rất coi trọng vai trò của chi bộ. Bởi lẽ, đối
với bản thân Đảng, chi bộ là tổ chức hạt nhân, quyết định chất lượng lãnh đạo của
Đảng; chi bộ là môi trường tu dưỡng, rèn luyện và cũng là nơi giám sát Đảng viên; chi
bộ có vai trị quan trọng trong việc gắn kết giữa Đảng với quần chúng nhân dân.
 Các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng:



62

Nguyên tắc tập trung dân chủ
Đây là nguyên tắc cơ bản quyết định sức

mạnh của Đảng, Hồ Chí Minh gọi đây là
nguyên tắc tổ chức của Đảng.
Theo Hồ Chí Minh thực hiện dân chủ để đi
tới tập trung, cho nên dân chủ là cơ sở của tập
trung. Do vậy, tập trung là trên cơ sở của dân
chủ. Dân chủ và tập trung là hai mặt của một vấn đề thống nhất, gắn bó với nhau.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh: tập trung là phải thống nhất về tư tưởng, tổ chức và
hành động. Do vậy, thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, địa
phương phục tùng trung ương là tập trung...
Hồ Chí Minh cho rằng: Dân chủ là "của quý báu nhất của nhân dân". "Chế độ
ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi
vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là

NEU_PHH_Bai4_v1.0013101215


Bài 4: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản Việt Nam

quyền lợi và cũng là nghĩa vụ của mọi người. Khi mọi người đã phát biểu ý
kiến, đã tìm thấy chân lý thì lúc đó, quyền tự do tư tưởng hóa ra là quyền tự do
phục tùng chân lý"9.
Nếu khơng có dân chủ, thì sẽ làm cho "nội bộ đảng âm u". Vì vậy, Hồ Chí
Minh đặc biệt chú ý đến việc thể hiện và phát huy dân chủ nội bộ. Mặt khác, có
dân chủ trong Đảng thì mới có thể nói đến dân chủ trong xã hội, mới định
hướng cho việc xây dựng một chế độ dân chủ thực sự.



Nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách
Đây là nguyên tắc lãnh đạo của Đảng. Tại sao cần phải tập thể lãnh đạo? Theo

Hồ Chí Minh: một người tài giỏi đến mấy cũng không thể thấy được hết mọi
mặt của vấn đề, càng không thể thấy hết được mọi việc, mọi chuyện. Vì vậy,
cần có nhiều người cùng tham gia lãnh đạo. Nhiều người thì có nhiều kiến
thức, người thấy rõ mặt này, người thấy rõ mặt kia, do đó hiểu được mọi mặt
của vấn đề. Ý nghĩa của tập thể lãnh đạo rất đơn giản "dại bầy hơn khơn độc".
Tại sao cần có nhân phụ trách? Hồ Chí Minh giải thích: Việc gì đã được tập thể
bàn bạc kỹ lưỡng, kế hoạch đã được định rõ thì cần giao cho một người phục
trách, nếu giao cho một nhóm người thì cũng cần một người phục trách chính.
Như thế cơng việc mới chạy được, tránh tình trạng đùn đẩy, dựa dẫm, ỷ vảo tập
thể. Không xã định rõ cá nhân phụ trách thì giống như tình trạng "nhiều sãi
khơng ai đóng cửa chùa".
Như vậy, "lãnh đạo khơng tập thể, thì sẽ dẫn đến tệ bao biện, độc đoán, chủ
quan. Kết quả là hỏng việc. Phụ trách khơng do cá nhân, thì sẽ dẫn đến tệ bừa
bãi, lộn xộn, vơ chính phủ. Kết quả cũng là hỏng việc. Tập thể lãnh đạo và cá
nhân phụ trách cần thiết phải đi đơi với nhau"10.



Ngun tắc tự phê bình và phê bình
Đây là nguyên tắc sinh hoạt, nguyên tắc phát
triển của Đảng. Hồ Chí Minh rất coi trọng
nguyên tắc này.
Tính tất yếu: Hồ Chí Minh cho rằng con người
chứ khơng phải là thánh thần, khơng có ai
khơng có khuyết điểm. Do vậy, tự phê bình và
phê bình giúp cho mỗi cá nhân và tổ chức nhận
ra khuyết điểm, khắc phục, sửa chữa. Đây là "thang thuốc", là vũ khí hay nhất,
là quy luật phát triển của Đảng.
Mục đích của cơng tác phê bình là làm cho đảng ngày càng trong sạch, vững
mạnh, đồn kết gắn bó hơn :"Muốn đồn kết thống nhất trong Đảng, ắt phải

thống nhất tư tưởng, mở rộng dân chủ nội bộ, mở rộng tự phê bình và phê
bình". Người thẳng thắn nêu rằng: "Một đảng mà giấu diếm khuyết điểm của
mình là một đảng hỏng".11

9

Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 8. trang 216
Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 5. trang 505
11
Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 5. trang 505
10

NEU_PHH_Bai4_v1.0013101215

63


Bài 4: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản Việt Nam

Phương pháp tự phê bình và phê bình là phải trung thực, khéo léo, chân thành
“phải có tinh thần đồng chí, thương yêu lẫn nhau”.



Nguyên tắc kỷ luật nghiêm minh, tự giác
Sức mạnh vô địch của Đảng nằm ở ý thức tổ
chức kỷ luật, tinh thần tự giác của mỗi tổ chức
Đảng và mỗi cán bộ đảng viên. Mỗi cán bộ
đảng viên đều bình đẳng trước kỷ luật của
Đảng. Tự giác thuộc về mỗi cá nhân, cán bộ

đảng viên đều là những người tự nguyện đứng
trong hàng ngũ của Đảng để cùng hành động vì
mục tiêu chung là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tự giác vào đảng thì
cũng phải tự giác tuân thủ kỷ luật của Đảng.





4.2.2.4.

Nguyên tắc đoàn kết thống nhất trong Đảng
Đoàn kết là cơ sở, cội nguồn sức mạnh của Đảng, là nguyên nhân của mọi
thắng lợi. Sự đoàn kết thống nhất trong Đảng là cơ sở, cội nguồn của sức mạnh
đoàn kết toàn dân tộc. Trước lúc đi xa, Hồ Chí Minh căn dặn Đảng ta: "Đồn
kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí
từ Trung ương cho đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đồn kết nhất trí trong
Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình"12.
Cán bộ, cơng tác cán bộ của Đảng
Hồ Chí Minh đề ra một hệ thống các quan điểm về cán bộ và cơng tác cán bộ.
Người nhận thức rất rõ vị trí, vai trò của cán bộ trong sự nghiệp cách mạng. Cán
bộ là cái dây chuyền của bộ máy, là mắt khâu trung gian nối liền giữa Đảng, Nhà
nước với nhân dân. Muôn việc thành công hay thất bại là do cán bộ tốt hay kém.
Người cán bộ phải có đủ đức và tài, phẩm chất và năng lực, trong đó, đức, phẩm
chất là gốc.
Hồ Chí Minh cho rằng, cơng tác cán bộ là công tác gốc của Đảng. Nội dung của
nó bao hàm các mắt khâu liên hồn, có quan hệ chặt chẽ với nhau: Tuyển chọn
cán bộ; đào tạo, huấn luyện, bồi dưỡng cán bộ; đánh giá đúng cán bộ; tuyển dụng,
sắp xếp, bố trí cán bộ; thực hiện các chính sách đối với cán bộ.


Xây dựng Đảng về đạo đức

Hồ Chí Minh khẳng định: Một Đảng chân chính cách mạng phải có đạo đức. Đạo đức
tạo nên uy tín, sức mạnh của Đảng, giúp Đảng đủ tư cách lãnh đạo, hướng dẫn quần
chúng nhân dân.
Xét về thực chất, đạo đức của Đảng ta là đạo đức mới, đạo đức cách mạng. Đạo đức
đó mang bản chất của giai cấp công nhân, đạo đức cộng sản chủ nghĩa mà nội dung
cốt lõi là chủ nghĩa nhân đạo chiến đấu. Có đạo đức cách mạng trong sáng, Đảng ta
mới lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh,
đồng bào sung sướng. Đó là mục tiêu, lý tưởng của Đảng và cũng là tư cách số một
của Đảng cầm quyền.

12

Hồ Chí Minh, tồn tập, tập 7. trang 492

64

NEU_PHH_Bai4_v1.0013101215


Bài 4: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản Việt Nam

Giáo dục đạo đức cách mạng là một nội dung quan trọng trong việc tu dưỡng, rèn
luyện của cán bộ, Đảng viên. Nó gắn chặt với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân
dưới mọi hình thức nhằm làm cho Đảng luôn luôn thật sự trong sạch.
4.3.

Kết luận


Hồ Chí Minh là người sáng lập, đồng thời là người giáo dục và rèn luyện Đảng Cộng
sản Việt Nam. Những quan điểm, tư tưởng của Người bao gồm các vấn đề có tính quy
luật có liên quan đến sự hình thành, vị trí, vai trị, bản chất của Đảng Cộng sản và
những vấn đề có tính ngun tắc liên quan tới công tác xây dựng Đảng Cộng sản Việt
Nam trong sạch, vững mạnh, nhất là trong điều kiện Đảng trở thành Đảng cầm quyền.
Trong hệ thống các quan điểm đó, Hồ Chí Minh có những phát kiến đặc biệt sáng tạo,
phản ánh mối quan hệ biện chứng giữa tính phổ biến và tính đặc thù của quy luật hình
thành Đảng vô sản kiểu mới trong điều kiện từng nước; quan điểm về sự thống nhất
biện chứng giữa bản chất giai cấp cơng nhân với tính dân tộc và tính nhân dân của
Đảng; quan niệm về Đảng Cộng sản cầm quyền và các yếu tố đảm bảo vai trò cầm
quyền của Đảng.
Trong giai đoạn cách mạng mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh, dân tộc ta đang đứng trước nhiều thời cơ, vận hội, nhưng
cũng khơng ít khó khăn, thách thức. Vai trị lãnh đạo của Đảng càng phải được khẳng
định, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng cần được nâng cao hơn bao giờ hết
để ngang tầm với các yêu cầu, nhiệm vụ mà lịch sử dân tộc giao phó. Đảng ta xác định
rõ nhiệm vụ, xây dựng kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt gắn
chặt với xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tạo nền
tảng tinh thần cho sự phát triển xã hội. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đẩy
mạnh cơng tác xây dựng Đảng trên tất cả các mặt: Tư tưởng - lý luận, chính trị, tổ
chức và cán bộ, đạo đức, làm cho Đảng thật sự trong sạch, đạt đến chiều cao về đạo
đức, trí tuệ, bản lĩnh chính trị, vững vàng trước mọi thử thách của lịch sử. Chúng ta đã
đạt được rất nhiều thành tựu trong công tác xây dựng Đảng cầm quyền, nhưng bất cập,
yếu kém, hạn chế cũng không phải ít, nhất là sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo
đức lối sống của một bộ phận cán bộ, Đảng viên chưa được ngăn chặn và đẩy lùi.
Những hạn chế này đang làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng, hạn chế
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Được chiếu rọi bởi ánh sáng tư tưởng
Hồ Chí Minh, Đảng ta quyết tâm xây dựng, chỉnh đốn về mọi mặt một cách thiết thực;
xác định đổi mới và chỉnh đốn Đảng đáp ứng nhu cầu phát triển của giai cấp và dân

tộc là quy luật tồn tại sống còn của Đảng.

NEU_PHH_Bai4_v1.0013101215

65


Bài 4: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản Việt Nam

TĨM LƯỢC CUỐI BÀI

 Hồ Chí Minh là người sáng lập và rèn luyện Đảng cộng sản Việt Nam. Quan điểm của Hồ Chí
Minh là hệ thống những luận điểm khoa học và sáng tạo về sự thành lập Đảng, vai trò và bản
chất giai cấp của Đảng; Đảng cầm quyền, quan hệ Đảng – Dân...
 Công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng là vấn đề quan trọng có nghĩa sống cịn đối với sự tồn
tại và phát triển của Đảng. Hồ Chí Minh đã xây dựng những quan điểm có ý nghĩa quan trọng
chỉ đạo cơng tác xây dựng Đảng qua các thời kỳ của cách mạng Việt Nam. Những quan điểm
này thể hiện sự sáng tạo của Hồ Chí Minh, góp phần cụ thể hóa và phát triển lý luận chủ
nghĩa Mác - Lênin về Đảng cộng sản.
 Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng trên các phương
diện tư tưởng, tổ chức, cán bộ, đạo đức làm cho Đảng thật sự trong sạch, đạt đến tầm cao về trí
tuệ, bản lĩnh chính trị, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới.

66

NEU_PHH_Bai4_v1.0013101215


Bài 4: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản Việt Nam


CÂU HỎI ƠN TẬP

Câu 1: Phân tích tính sáng tạo trong quan điểm của Hồ Chí Minh: Đảng cộng sản Việt
Nam là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước?
Gợi ý trả lời:
 Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin:
o Quan điểm của Mác: Sự hình thành Đảng cộng sản là quy luật trong phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân.
o Quan điểm của Lê nin: Đảng cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác
với phong trào công nhân.
 Quan điểm của Hồ Chí Minh:
Năm 1960, Hồ Chí Minh khẳng định: “chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân
và phong trào yêu nước đã dẫn tới sự hình thành của Đảng cộng sản Đơng Dương năm 1930".
Đây là sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin về quy luật ra đời của Đảng
cộng sản ở một nước thuộc địa. Vì:
Ở những nước thuộc địa, bên cạnh phong trào cơng nhân còn phong trào yêu nước.
Phong trào yêu nước diễn ra trước phong trào công nhân và đã vận động được đông đảo
tầng lớp nhân dân tham gia.
o Phong trào cơng nhân dù có tiên tiến nhưng nếu khơng gắn bó với phong trào u nước
thì cũng khơng thể mở rộng được và đi tới thắng lợi.
o Phong trào công nhân ngay từ khi mới hình thành, ngay lập tức đã hịa quyện, gắn bó
thống nhất với phong trào u nước, vì có chung một kẻ thù, một mục tiêu cách mạng.
o Yêu cầu gắn kết giữa ba nhân tố trên dẫn tới sự hình thành Đảng cộng sản. Đảng cộng
sản ra đời làm cho cả ba nhân tố phát triển, đặc biệt là phong trào yêu nước Việt Nam.
o Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và giai cấp đối
với việc hình thành Đảng cộng sản ở một nước thuộc địa. Và bản thân Hồ Chí Minh cũng từ
giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, từ người yêu nước trở thành người cộng sản.
Câu 2: Phân tích tính sáng tạo trong quan điểm của Hồ Chí Minh về bản chất của Đảng
cộng sản?

o

Gợi ý trả lời:
 Theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin, Đảng cộng sản mang bản chất giai cấp công nhân.
 Căn cứ vào lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cách mạng
Việt Nam, Người khẳng định: Đảng ta là Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là Đảng của
nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Cơ sở của sự khẳng định này là:
Mục tiêu đấu tranh của Đảng và mục tiêu của giai cấp công nhân, nhân dân lao động là
thống nhất: Giành độc lập tự do, hịa bình, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
o Đảng đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Quan niệm Đảng không những là Đảng của giai cấp cơng nhân mà cịn là đảng của nhân dân
lao động và của cả dân tộc có ý nghĩa to lớn đối với cách mạng Việt Nam. Đảng đại diện cho
o

NEU_PHH_Bai4_v1.0013101215

67


Bài 4: Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản Việt Nam

lợi ích của tồn dân tộc cho nên nhân dân Việt Nam luôn coi Đảng là Đảng của chính mình.
Trong thành phần, ngồi cơng nhân cịn có những người ưu tú thuộc các giai cấp tầng lớp
khác như nơng dân, trí thức, tiểu tư sản... Đảng ta cũng khẳng định rằng, để đảm bảo, tăng
cường bản chất giai cấp cơng nhân, Đảng ln ln gắn bó mật thiết với giai cấp cơng nhân,
nhân dân lao động và tồn thể dân tộc trong tất cả các thời kỳ của cách mạng. Sức mạnh của
Đảng không chỉ bắt nguồn từ giai cấp cơng nhân mà cịn bắt nguồn từ các tầng lớp nhân dân
lao động khác.


68

NEU_PHH_Bai4_v1.0013101215



×