ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------&-&-----------
TRẦN THANH HIÊN
NGHIÊN CỨU CA DAO KHMER NAM BỘ
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Hà Nội - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------&-&-----------
TRẦN THANH HIÊN
NGHIÊN CỨU CA DAO KHMER NAM BỘ
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Chuyên ngành: Văn học dân gian
Mã số: 60 22 01 25
Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Tiết Khánh
Hà Nội - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là kết quả nghiên cứu của tôi dưới sự hướng dẫn
của TS Phạm Tiết Khánh
Tôi cũng xin cam đoan đề tài này không trùng với bất cứ đề tài luận văn nào đã
được cơng bố ở Việt Nam
Tơi hồn tồn chịu trách nhiệm về nội dung của đề tài
Người cam đoan
Trần Thanh Hiên
LỜI CẢM ƠN
Khoa học là công việc của một cá nhân nhưng nếu chỉ có sự nỗ lực của bản
thân, có thể chân lí sẽ khơng được chạm đến một cách tồn diện. Do đó, luận văn thạc
sĩ văn học với đề tài Nghiên cứu ca dao Khmer Nam Bộ không chỉ của riêng cá nhân
tôi mà đằng sau những con chữ đầy ắp còn là tấm lòng của những người đã âm thầm
giúp đỡ, hộ trợ và cộng tác cùng.
Trước hết, xin được cảm ơn gia đình đã ln hỗ trợ tôi cả về vật chất lẫn tinh
thần trong cả q trình hồn thành luận văn của mình.
Tơi xin chân thành cảm ơn quý thầy cô Khoa Văn học, cán bộ phòng Sau Đại
học, trường ĐHKHXH & NV, ĐH Quốc Gia Hà Nội đã hướng dẫn và giúp đỡ về mặt
tri thức trong quá trình thực hiện các kĩ thuật làm luận văn.
Và sau cùng, xin gửi lời chân thành cảm ơn sâu sắc đến Tiến Sĩ Phạm Tiết
Khánh - người thầy đáng kính đã tận tụy hướng dẫn tơi trong q trình sưu tầm tài
liệu. Thầy khơng chỉ là người trực tiếp đặt bút vào sửa chữa những câu từ còn vụng về,
mà quan trọng hơn thầy còn là người định hướng và chỉ ra những vấn đề có tầm chiến
lược, giúp tơi vượt qua được những khó khăn trong quá trình thực hiện đề tài này.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 3
1.Lý do chọn đề tài.................................................................................................... 3
2. Lịch sử vấn đề ....................................................................................................... 4
3.Mục đích nghiên cứu ............................................................................................. 9
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 9
5. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................... 10
6. Đóng góp của luận văn ......................................................................................... 11
7. Bố cục của luận văn .............................................................................................. 11
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: GIỚI THUYẾT VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ............................... 12
1.1. Giới thuyết về tộc người Khmer Nam Bộ........................................................ 12
1.2. Giới thuyết về khái niệm ca dao ....................................................................... 19
1.3. Khát quát về văn học dân gian Khmer Nam Bộ ............................................. 23
1.3.1. Diện mạo văn học dân gian Khmer Nam Bộ .................................................... 23
1.3.2. Khái quát về Ca dao Khmer Nam Bộ ............................................................... 34
Tiêu kết ...................................................................................................................... 36
CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG CỦA CA DAO KHMER NAM BỘ ...... 38
2.1. Ca dao nghi lễ..................................................................................................... 38
2.1.1. Bài ca nông lễ ................................................................................................... 39
2.1.2. Bài ca hôn lễ ..................................................................................................... 40
2.1.3. Bài ca tang lễ ................................................................................................... 50
2.1.4. Bài ca chúc mừng ............................................................................................. 51
2.2. Ca dao lao động ................................................................................................. 53
2.3. Ca dao sinh hoạt gia đình và xã hội ................................................................. 62
2.3.1. Ca dao về tình cảm gia đình ............................................................................. 62
2.3.2. Ca dao tình u đơi lứa .................................................................................... 75
Tiêu kết ...................................................................................................................... 84
1
CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM THI PHÁP CỦA CA DAO KHMER NAM BỘ…. 85
3.1. Ngôn ngữ ............................................................................................................ 85
3.1.1. Tiếng gốc Khmer trong các bản dịch ............................................................... 86
3.1.2. Tiếng Khmer được Việt hóa trong các bản dịch .............................................. 87
3.2. Thể thơ ................................................................................................................ 93
3.3. Một số biện pháp nghệ thuật tu từ ................................................................... 96
3.3.1. Nghệ thuật biểu đạt trực tiếp ............................................................................ 96
3.3.2. Nghệ thuật so sánh ........................................................................................... 100
3.3.3. Thế giới hình ảnh - biểu tượng ......................................................................... 103
Tiểu kết ...................................................................................................................... 110
KẾT LUẬN ............................................................................................................... 111
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................ 113
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, trong đó có tộc người Khmer tồn tại lâu đời ở
vùng Nam Bộ. Trong quá trình giao lưu với người Việt, người Hoa, người Chăm,
người Khmer ở nơi đây một mặt đã thể hiện và lưu giữ những nét đẹp thuộc về bản sắc
văn hóa của dân tộc mình, mặt khác cũng tiếp thu những nét văn hóa của các dân tộc
anh em cùng cộng cư trong khơng gian sinh tồn ở phía Nam của Tổ quốc. Do đó, sự
giao lưu, tiếp biến văn hóa giữa dân tộc Khmer với các dân tộc Việt, Hoa, Chăm,
…bộc lộ trên nhiều lĩnh vực văn hóa vật thể lẫn văn hóa phi vật thể. Cơng việc sưu
tầm hay tập hợp lại các vốn văn hóa riêng đó giúp ta nhận ra được bản sắc riêng của
từng dân tộc, và phần đóng góp của các dân tộc ấy vào dịng suối nguồn ngọt ngào của
văn học dân gian Việt Nam.
Người Khmer Nam Bộ có một q trình khai khẩn vùng đất thuộc hạ lưu sông
Mê Kông, đồng thời dân tộc này đã sáng tạo cho mình một kho tàng văn học truyền
miệng độc đáo, tồn tại cho đến ngày nay. Đi sâu vào kho tàng ấy, ta có thể hiểu được
tâm tư người Khmer trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Có thể nói, với thời hiện đại hóa ngày nay, khi mà một số nét đẹp dân gian
truyền thống mang giá trị tinh thần lớn lao đang ngày một phai nhạt và bị lãng quên,
thì việc sưu tầm, phát hiện, hệ thống lại vốn văn học dân giã ấy là một việc làm vô
cùng cần thiết. Ca dao dân ca khơng chỉ phản ánh tâm tư tình cảm của con người, mà
cịn mang tính xã hội và ý nghĩa thực tiễn cao, nó diễn ra trong mọi phong tục, mọi
nếp sống, mang hơi thở của cái thường nhật, khác với không gian thẩm mĩ của thần
thoại, truyền thuyết hay cổ tích vốn là những thể loại có nội dung phản ánh với độ lùi
của thời gian rất xa. Văn học dân gian Khmer Nam Bộ trước đây đã được sưu tầm và
nghiên cứu trong nhiều cơng trình. Việc phân lập hệ thống các thể loại văn học và tìm
hiểu các thể loại Thần thoại, Truyền thuyết, Cổ tích, Truyện Cười đã được nhiều tác
giả thực hiện. Tuy nhiên, phần ca dao dân ca, thành ngữ tục ngữ, đồng dao còn chưa
được nghiên cứu nhiều, chưa được chú trọng nhiều trong kho tàng văn học dân gian
người Khmer. Trong luận văn “Nghiên cứu ca dao Khmer Nam Bộ”, chúng tôi muốn
3
đóng góp phần nào cách hiểu của mình về người Khmer, đồng thời chỉ ra ca dao dân
ca là một bộ phận quan trọng trong dòng chảy của văn học dân gian Khmer Nam Bộ.
Để tiến hành nghiên cứu, chúng tôi sẽ triển khai tập hợp trên các nguồn tài liệu
đã công bố và in thành văn bản về ca dao dân ca của người Khmer. Từ những tư liệu
thu thập được, chúng tôi chắt lọc và phân chia thành các nội dung cụ thể của ca dao
dân ca như: nghi lễ, gia đình, lao động, tình yêu…Quan trọng hơn là chúng tôi luôn sử
dụng phương pháp liên ngành để chỉ ra được những nét độc đáo của người Khmer gửi
gắm trong ca dao dân ca.
Trên bình diện nghiên cứu về văn hoá Nam Bộ lâu nay, theo nhận định của
nhóm tác giả Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia
Tp. Hồ Chí Minh trong đề án nghiên cứu khoa học trọng điểm Những vấn đề xã hộinhân văn khu vực Nam Bộ giai đoạn 2005-2010, thì các vấn đề kinh tế được quan tâm
nhiều hơn các vấn đề văn hóa xã hội. Nhưng nếu xét kĩ thì nhiều vấn đề kinh tế xã hội
lại có ngun nhân từ khía cạnh văn hóa. Do vậy, tiếp tục phát huy và bảo tồn văn hóa
dân tộc ở vùng Nam Bộ, trong đó có tộc người Khmer là một nhiệm vụ hàng đầu và là
một hướng nghiên cứu có nhiều triển vọng để giải quyết nhiều vấn đề khác có liên
quan.
Luận văn Nghiên cứu ca dao Khmer Nam Bộ cũng lấy nền tảng từ hướng
nghiên cứu nêu trên. Kết quả nghiên cứu đề tài sẽ khẳng định giá trị của ca dao dân ca
đối với đời sống tinh thần của người Khmer Nam Bộ, qua đó góp thêm phần vào việc
giữ gìn và phát huy nét đẹp văn hóa của người Khmer Nam Bộ trong cuộc sống ngày
nay.
2. Lịch sử vấn đề
Văn học dân gian Khmer Nam Bộ được sưu tầm và nghiên cứu muộn hơn so
với văn học dân gian các dân tộc thiểu số khác. Năm 1983, trong lời giới thiệu cho
cuốn Truyện cổ Khmer Nam Bộ, tác giả Huỳnh Ngọc Trảng đánh giá:
“Trước cách mạng tháng Tám 1945, những tập sách hay bài nghiên cứu về
đồng bào Khmer Nam Bộ có đề cập đến các mặt lịch sử, văn hóa, khảo cổ học, dân tộc
học, … nhưng phần thực sự gọi là văn học dân gian thì chưa có gì đáng kể ngồi việc
đưa ra một số truyền thuyết cịn hạn hẹp…
4
Dưới thời thống trị của chủ nghĩa thực dân mới, vấn đề sưu tầm và nghiên cứu
văn học dân gian Khmer Nam Bộ cũng không được chú ý. Rải rác đây đó, trên các tạp
chí xuất bản ở Sài Gịn, người ta thỉnh thoảng bắt gặp đôi chuyện kể Khmer Nam Bộ
được giới thiệu một cách tình cờ, tùy tiện. [69, tr.3]”
Nhận định nêu trên là một trong những cơ sở quan trọng để đối chiếu và tham
khảo khi nghiên cứu Văn học dân gian Khmer Nam Bộ.
Từ sau năm 1945, Nguyễn Đổng Chi có trích dẫn một số dị bản về truyện kể
của người Khmer Nam Bộ để làm so sánh cho các truyện của người Việt. Những
nghiên cứu nặng về lịch sử như: đất nước Phù Nam, người Việt gốc Miên khiến cho
văn học dân gian Khmer Nam Bộ là một đề tài sôi nổi cho giới nghiên cứu trong
những năm sau này.
Trước năm 1975, văn học dân gian Khmer Nam Bộ được sưu tầm chủ yếu nhờ
các tác giả người Pháp. Theo tác giả Trường Lưu [48], những tên tuổi như Barrault,
Francois Martine, Louis Malleret…đã có nhiều bài báo viết về văn hoá người Khmer.
Tuy nhiên các tài liệu nêu trên thường không phân biệt giữa người Khmer ở
Campuchia và ở Nam Bộ. Ơng cịn viết: “... trong vịng chiếm đóng của Mỹ ở Sài Gịn,
một số nhà nghiên cứu - chủ yếu là Lê Hương - mới có những cơng trình biên soạn về
người Khmer ở ĐBSCL, chủ yếu là thiên về lịch sử (Sử Liệu Phù Nam, Sử Cao Miên,
Người Việt gốc Miên ...). Nhưng lịch sử hình thành người Khmer ở ĐBSCL chỉ mới ở
dạng suy luận và phỏng đoán trên cơ sở tư liệu chưa được xử lí một cách nghiêm túc
lắm nên các tác giả thường lúng túng hoặc khiên cưỡng khi lách sâu ngịi bút vào
những khía cạnh cần sâu sắc mới xác định được vấn đề nêu ra [48, tr.8].
Nhận định trên cho thấy một thực tế trong việc sưu tầm và nghiên cứu văn học
dân gian Khmer Nam Bộ trước năm 1975 chưa chú trọng vào việc nghiên cứu văn học
dân gian mà nặng về văn hóa lịch sử. Sau khi đất nước thống nhất, công tác sưu tầm và
tập hợp các nguồn văn học dân gian Khmer Nam Bộ mới thực sự phát triển. Ở Nam
Bộ, phần lớn công việc vẫn nhờ vào đội ngũ giảng viên và sinh viên các trường đại
học ở Cần Thơ và thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên qua khảo sát, chúng tôi nhận
5
thấy văn học dân gian Khmer nói chung và ca dao dân ca nói riêng, chưa được sự chú
ý của nhiều tác giả.
Năm 1969, Lê Hương xuất bản cuốn Người Việt gốc Miên, ông viết: “Chúng
tôi cố gắng sưu tầm những tài liệu về nguồn gốc, dân số, sinh hoạt, xã hội, phong tục,
tập qn, tơn giáo, văn hóa giáo dục, kinh tế, địa danh, lịch sử, thắng cảnh….với chút
tham vọng: mong giúp độc giả tìm hiểu những gì cần biết về ngót triệu đồng bào anh
em của chúng ta” [15, tr 6]. Năm 1990, Cuốn sách Văn hóa và cư dân đồng bằng sơng
Cửu Long của Nguyễn Cơng Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường và tiếp đến, năm 1993,
cuốn Văn hóa người Khmer Đồng bằng sơng Cửu Long của tác giả Trường Lưu ra đời.
Ba cuốn sách mà chúng tơi nói đến giúp chúng tơi có những tìm hiểu rộng mở hơn về
lịch sử và văn hóa của người Khmer vùng đất Nam Bộ, từ đó có cơ sở để phân tích sát
thực nội dung thể hiện của các bài ca dao dân ca.
Năm 1997, dễ nhận thấy là cuốn Văn học dân gian Đồng bằng Sông Cửu Long
do Khoa Ngữ văn trường Đại học Cần Thơ biên soạn phần lớn là sưu tầm các thể loại
văn vần như truyện ngắn, truyền thuyết. Điều này thể hiện càng rõ hơn trong nhiều
cơng trình có quy mơ lớn như: Văn học dân gian Sóc Trăng và Văn học dân gian Bạc
Liêu do Chu Xuân Diên chủ biên, phần ca dao dân ca đã được tập hợp lại và tách riêng
theo từng địa bàn cư trú của người Khmer, ví dụ như trong lời giới thiệu có nhắc đến:
“Qua 3 đợt sưu tầm điền dã tại 4 thị trấn và 25 xã thuộc 6 huyện của tỉnh nhà, được sự
giúp đỡ nhiệt tình của các cơ quan, đơn vị cùng bà con địa phương các xã ấp, nhóm
chúng tơi đã sưu tầm được một khối lượng lớn tác phẩm thuộc các thể loại văn học dân
gian” [6, tr 3]. Tuy nhiên theo tập hợp của chúng tơi, thì trong cả 2 cuốn này, nhóm tác
giả mới chỉ sưu tầm và ghi chép lại được 77 bài ca dao của người Khmer.
Qua những tham khảo trên, có thể thấy rõ một thực tế đó là: ca dao Khmer
Nam Bộ đã được quan tâm, tuy nhiên nguồn tài liệu sưu tầm chưa thật phong phú.
Đến năm 2003, sau gần 30 năm lăn lội sưu tầm vốn văn nghệ dân gian của ông
bà để lại trên khắp các xóm ấp, phum sóc, sau những nếm trải nhọc nhằn vất vả, “đồng
cam cộng khổ” với bà con Khmer, nhạc sĩ Nguyễn Văn Hoa cho ra đời cuốn sách của
mình. Hai tập 100 làn điệu dân ca Khmer không chỉ dồi dào thêm cho kho tàng ca dao
6
Khmer Nam Bộ mà còn làm nên tên tuổi cho tác giả. Theo nhận định của nhạc sĩ Lư
Nhất Vũ – người đại diện Đoàn sưu tầm Dân ca Nam Bộ, ông cho rằng: “Nhạc sĩ
Nguyễn Văn Hoa là một trong những chuyên gia am hiểu một cách tường tận, sâu sắc
vốn di sản dân ca các dân tộc ở phía Nam, đặc biệt là dân ca Khmer” [14, tr 4]. Cũng
từ đây, lần đầu tiên chúng tôi đọc được một nhận định sâu sắc hơn cả của nhạc sĩ Lư
Nhất Vũ về tầm quan trọng của ca dao dân ca trong đời sống người Khmer vùng Nam
Bộ:
“Âm hưởng dân ca Khmer gợi cho chúng ta cảnh tượng chùa chiền, phum sóc
hiền hịa, nép mình dưới tàn cây thốt nốt trên mảnh đất giồng cao ráo xanh tươi. Giai
điệu và nhịp điệu của loại hình âm nhạc dân gian này vốn hình thành và phát triển lâu
đời trên đất phương Nam, tốt lên khơng khí lạc quan, sơi nổi, tươi vui, rộn ràng, pha
lẫn sắc thái êm dịu và pha chút trào lộng, dí dỏm. Người hát và người nghe như muốn
múa theo giai điệu và tiết tấu. Đó chính là tính cách của con người vừa sơi nổi, nồng
nhiệt, phóng khống, vừa thâm thúy sâu xa, vừa bình dị chân thành….Biểu hiện qua đề
tài, nội dung lời hát và hình tượng âm nhạc, xuyên suốt qua nhiều thể loại, bà con
Khmer vốn năng nổ trong lao động sản xuất, trong đấu tranh với thiên nhiên và xã hội.
Hễ làm gì, gặp gì thì hát nấy! Từ việc ru con, ru cháu, đến việc đi săn, đâm cá sấu, đến
việc cưỡi voi, giã gạo, phơi lúa, đuổi chim, bơi thuyền, đua ghe ngo, cưới hỏi….bất kể
cơng việc gì, cảnh vật gì đều có bài hát để ngợi ca, khơng chỉ nhằm tái tạo khung cảnh
và hành động của con người mà còn thể hiện những tâm trạng xúc cảm, những nhận
thức thẩm mỹ, những tình cảm trong sáng mang tính truyền thống lâu đời”. [14, tr 3].
Trên đây là những cơng trình sách mà chúng tơi có thể khai thác vốn tài liệu
về mặt văn bản ca dao Khmer Nam Bộ, ngồi ra cịn có các tài liệu lẻ từ các nguồn tạp
chí, báo mạng, hay một số chương trình phóng sự về văn hóa người Khmer vùng Nam
Bộ.
Về cơng trình Luận án Tiến Sĩ, Luận văn Thạc Sĩ hay Nghiên cứu khoa học có
liên quan, năm 1997, cơng trình Luận văn Thạc Sĩ Khoa học Văn hóa với tên đề tài:
Diện mạo văn học dân gian Khmer ở Trà Vinh của Huỳnh Anh Tuấn đã đưa ra được
các thể loại văn học dân gian Khmer trong một vùng văn hóa nhất định là tỉnh Trà
7
Vinh, tuy nhiên lại nêu một cách tổng quát, chưa hồn tồn đi vào phân tích cụ thể một
khía cạnh thể loại nào.
Đến năm 2007, cơng trình Luận án Tiến Sĩ: Khảo sát truyện cổ dân gian
Khmer Nam Bộ (qua truyền thuyết, thần thoại, truyện cổ tích) của Phạm Tiết Khánh
đã bước đầu phân loại và có sự đánh giá sơ bộ về giá trị của các thể loại văn học dân
gian của người Khmer ở Nam Bộ.
Năm 2008, công trình Luận văn Thạc Sĩ: Giá trị văn hóa thực tiễn trong
truyện cười dân gian Khmer Nam Bộ của Huỳnh Vũ Lam đã đánh giá khái quát được
sự ảnh hưởng của văn hóa Khmer đến văn học dân gian Khmer nói chung, truyện cười
dân gian nói riêng. Ở đây, tác giả cũng có nhận định: “Ca dao và truyện cười là hai thể
loại mang âm hưởng của cuộc sống hàng ngày, của những sinh hoạt văn hóa diễn ra
thường nhật, quen thuộc nhất với người Khmer xưa và nay”.
Gần đây nhất, năm 2008, chúng tơi tìm được một số biên luận trong Hội thảo
Khảo sát các giá trị Văn hoá đặc trưng đồng bằng Sông Cửu Long, do Bộ Văn hố –
Thơng tin tổ chức tại đại học Cần Thơ nói riêng về ca dao Khmer, mà tiêu biểu là bài
phát biểu của tác giả Hồ Tĩnh Tâm với bài viết Đi tìm vẻ đẹp của ca dao dân ca trong
cộng đồng các dân tộc người Nam Bộ, ông đã viết: “Vốn là một dân tộc có truyền
thống văn nghệ, người Khmer đã sáng tạo ra nhiều loại hình ca vũ độc đáo, từ điệu
múa trống Xà zăm, múa vui Krap, múa gáo dừa Tro jok, múa Chằng khum- rông, đến
các điệu hát A- yay trữ tình, hát đối đáp Prop- kay, Chằm riêng- chàpay, ca đàn kể
truyện cổ, và vươn tới những hình thức sân khấu hồn chỉnh như kịch múa Robăm và
kịch hát Yu- kê” […..]. Hồ Tĩnh Tâm đã đưa ra một cái nhìn tổng quát về các thể loại
trữ tình trong kho tàng văn học dân gian Khmer Nam Bộ.
Từ những cơng trình đã cơng bố trên, chúng tôi nhận thấy, nghiên cứu ca dao
Khmer Nam Bộ một cách cụ thể và kĩ càng là cần thiết, để góp phần làm dồi dào thêm
nguồn tài liệu nghiên cứu về cộng động người Khmer trong quần thể vùng văn hóa
Nam Bộ.
3. Mục đích nghiên cứu
8
Từ cơ sở lịch sử vấn đề, đề tài Nghiên cứu ca dao Khmer Nam Bộ có mục đích
tập hợp lại các văn bản ca dao Khmer và phân tích các nét đặc trưng về nội dung và
nghệ thuật, dựa trên nét văn hóa của người Khmer trong thời đại xưa và nay. Qua đó,
luận văn cũng góp phần làm rõ những màu sắc riêng của thể loại văn học này trong
kho tàng văn học dân gian người Khmer và trong dòng văn học dân gian của dân tộc.
Do vậy, luận văn này phải đạt ba nhiệm vụ cơ bản:
Một là, tập hợp các văn bản ca dao Khmer hiện đã ghi chép lại trong các cơng
trình sách và nguồn báo chí.
Hai là, tiến hành phân tích, đánh giá tồn bộ tư liệu có được để tìm ra đặc
điểm nội dung của ca dao Khmer Nam Bộ trong dòng chảy văn học dân tộc.
Ba là, khảo sát sự giao thoa của loại hình này trong đời sống thực tiễn để tìm
hiểu tác động qua lại giữa nó với hoạt động tinh thần của người Khmer Nam Bộ. Từ
đó làm sáng lên những đặc điểm về thi pháp như thể thơ, hình thức thể hiện, các hình
ảnh biểu trưng của loại hình này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.
Đối tượng nghiên cứu
Với 276 bài ca tập hợp được từ các cuốn sách, báo mạng, chúng tôi xác định
đối tượng để khảo sát của mình. Các bài ca này chính là những sáng tác ca dao, những
bài hát dân gian của người Khmer Nam Bộ. Trong q trình phân tích, chúng tôi dựa
trên phương diện ngôn từ, phần âm nhạc do những điều kiện khách quan, không thuộc
phạm vi khảo sát của luận văn.
4.2.
Phạm vi nghiên cứu
Người Khmer có mặt hầu hết ở 20 tỉnh thành phố Nam Bộ nhưng đông nhất là
ở 05 tỉnh thuộc miền Tây Nam Bộ (Sóc Trăng, Trà Vinh, Kiên Giang, An Giang, Bạc
Liêu). Mỗi tỉnh này đều có trên 5 vạn dân Khmer, nhiều nhất là Sóc Trăng (hơn
400.000 người). Do đó, phạm vi khảo sát văn bản tài liệu cũng nằm chủ yếu ở các địa
bàn cư trú đông dảo của người Khmer.
9
Vì nguồn tư liệu khi nghiên cứu văn học của người Khmer ở Nam Bộ có biên
độ rất rộng và đa dạng, có liên quan đến khối cộng đồng người Khmer nói chung, nên
lẽ ra trong mức độ nào đó luận văn phải so sánh đối chiếu với với nguồn tác phẩm, bối
cảnh văn hóa và các lĩnh vực hoạt động tinh thần của người Khmer bản địa ở
Campuchia để tìm những nét độc đáo riêng của tộc người này ở Nam Bộ. Tuy nhiên
trong phạm vi luận văn thạc sĩ ngành văn học dân gian, chúng tôi xin chọn những tư
liệu văn học dân gian và dân tộc học về người Khmer được viết và xuất bản bằng tiếng
Việt ở Việt Nam làm đối tượng khảo sát.
5. Phương pháp nghiên cứu
Xuất phát từ đặc điểm của đối tượng nghiên cứu – thể loại văn học dân gian
trữ tình và mục đích đạt đến của đề tài, chúng tơi sử dụng các phương pháp nghiên cứu
sau:
Phương pháp tiếp cận hệ thống, điều này sẽ giúp cho việc nhìn nhận những
nội dung và đặc điểm của ca dao Khmer Nam Bộ trong tổng thể văn học dân gian Việt
Nam thông qua các văn bản ca dao Khmer Nam Bộ mà chúng tôi tập hợp được.
Phương pháp so sánh dùng để so sánh đối chiếu các khía cạnh của ca dao
Khmer Nam Bộ và ca dao dân ca các dân tộc anh em. Ngồi ra, phương pháp này cũng
giúp chúng tơi dễ dàng so sánh đặc điểm thi pháp của thể loại ca dao dân ca Khmer với
đặc điểm thể loại nói chung để tìm ra những nét tương đồng và dị biệt. Từ cái dị biệt
ấy mới vận dụng các phương pháp bổ trợ lí giải giá trị của thể loại.
Phương pháp thống kê, phân loại dùng để liệt kê các hình ảnh, ngơn từ được
lặp đi lặp lại, hoặc một số câu ca dao có ý nghĩa tương tự như nhau. Những số liệu có
được sẽ giúp chúng tơi nhận xét khách quan hơn về giá trị biểu đạt của các hình ảnh,
các biểu tượng trong ca dao Khmer Nam Bộ.
Phương pháp nghiên cứu liên ngành đóng một vai trị quan trọng trong quá
trình nghiên cứu. Để tìm hiểu sâu sắc hơn các bài ca dao dân ca, chúng tôi vận dụng cả
những kiến thức về lịch sử, địa lý, dân cư, vùng văn hóa…để phân tích nội dung cũng
như lý giải các hình ảnh biểu trưng.
6. Đóng góp của luận văn
10
Về mặt khoa học: luận văn sẽ hệ thống hóa và phân tích đặc điểm nội dung
cũng như thi pháp cả thể loại văn học dân gian ở một vùng văn hóa cụ thể là vùng
Nam Bộ, nhằm làm sáng tỏ được những giá trị của thể loại ấy trong đời sống sinh hoạt,
tín ngưỡng của người Khmer. Trong đó, điều quan trọng là tìm hiểu được những biểu
hiện và tác dụng thực tiễn còn lưu truyền cho tới ngày nay của ca dao dân ca trong mơi
trường văn hóa đã sản sinh ra nó.
Về mặt thực tiễn: luận văn góp phần làm phong phú thêm kho tàng ca dao
dân ca người Khmer Nam Bộ nói riêng, văn học dân gian Khmer Nam Bộ và văn học
dân gian Việt Nam nói chung qua các tài liệu mà chúng tơi tập hợp được. Từ đó, bạn
đọc có thể hiểu hơn về đời sống tâm sư tình cảm của người Khmer gửi gắm qua thể
loại văn học trữ tình này.
Ngồi ra, kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là cơ sở lý luận, làm tiền đề cho
các cơng trình nghiên cứu có quy mơ hơn như nghiên cứu văn hóa, nghiên cứu tổng
thể văn học dân gian Khmer.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục thì nội dung của
luận văn gồm có 3 chương:
Chương I: Giới thuyết về vấn đề nghiên cứu
Chương II: Đặc điểm nội dung ca dao Khmer Nam Bộ
Chương III: Đặc điểm thi pháp ca dao Khmer Nam Bộ
11
CHƯƠNG 1: GIỚI THUYẾT VỀ VẤN ĐỀ
NGHIÊN CỨU
1.1.
Giới thuyết về tộc người Khmer Nam Bộ
Lịch sử vùng đất Nam Bộ được nói đến trong nhiều khám phá của các nhà khảo
cổ học. Họ cho rằng những di cốt của con người ở Ĩc Eo, Ba Thê, Núi Nổi…thì cách
đây khoảng 5000 năm, con người đã có mặt ở vùng đất này. Đặc điểm địa lý nơi đây là
nước mặt, nhiều bùn lầy, cây dại, dã thú….Vì thế mà cư dân sinh sống tập trung ở
vùng tứ giác Long Xuyên và U Minh Thượng. Tuy nhiên, những hình ảnh cịn lại của
đất nước Phù Nam trong sử sách đã ghi đến nay cũng khơng có nhiều điều rõ ràng.
Cho đến thế kỉ XVI – XVII, quá trình di dân tự nhiên và đến thời nhà Nguyễn là
những cuộc di dân quy mô lớn của người Việt, của người Khmer từ Campuchia tràn
theo sông Tiền, sông Hậu, của người Chăm Hồi giáo đến vùng Châu Đốc, và của
người Hoa đi trốn chạy triều đình Mãn Thanh, thì vùng đất này chính thức được mở
rộng, hình thành một cộng đồng sinh sống của ba tộc người: Việt, Chăm, Khmer. Đây
cũng là cơ sở khách quan để hình thành vùng văn hóa mang đặc trưng giao thoa rõ
ràng. Đó chính là một vùng văn hóa trẻ, phong phú, đa dân tộc, đa tơn giáo và đa màu
sắc.
Khái quát về tộc người Khmer Nam Bộ, có lẽ cần kể đến tên tuổi của Lê Hương
với cuốn Người Việt Gốc Miên. Ở đây, ông nghiên cứu rất sâu về nguồn gốc, dân số,
sinh hoạt (bao gồm xã hội, tơn giáo, tổ chức về đời, văn hóa – giáo dục, kinh tế) và địa
hình. Đặc biệt phần sinh hoạt của người Khmer vùng Nam Bộ được ông chú trọng và
phân tích nhiều hơn cả. Dựa vào các tài liệu dân tộc học và khảo cổ học khác, chúng
tơi có thể giới thuyết các nét nổi bật về người Khmer như sau: tộc người Khmer Nam
Bộ thuộc dòng ngơn ngữ Nam Á, nhóm ngơn ngữ Mơn – Khmer. Thuộc cùng nhóm
ngơn ngữ này cịn có 24 tộc người khác, phân trên các vùng núi thuộc tỉnh Sơn La, Lai
Châu trải dài đến dãy Trường Sơn và vào tận miền Đông Nam Bộ. Theo cuộc tổng
điều tra dân số năm 1999: Tộc người Khmer hiện nay có dân số là 1.055.174 người,
chiếm 8% dân số trong vùng. “Họ chủ yếu sinh sống ở miền Đông Nam Bộ, miền
12
đồng bằng sông Cửu Long, xen lẫn người Việt, người Hoa, người Chăm…Ngồi ra,
người Khmer Nam Bộ cịn được gọi nhiều tên khác như Miên, Việt gốc Miên, Cur,
Cul…”[15, tr 46]. Cũng theo kết quả của cuộc tổng điều tra dân số trên, người Khmer
có dân số đứng hàng thứ 5 trên tổng số 54 dân tộc sống trên nước ta. Trong đó tỉ lệ
phân bố dân cư cao nhất là ở vùng đồng bằng Sơng Cửu Long (Sóc Trăng: 338.269,
Trà Vinh: 290.932, Kiên Giang:182.058, An Giang: 78.000, Bạc Liêu: 58.132, Cần
Thơ: 35.284, Cà Mau: 20.822).
Về địa bàn cư trú, theo nhiều tài liệu, người Khmer ở đồng bằng Sông Cửu
Long cư trú theo rải rác trên nhiều tỉnh thành và tập trung thành ba cụm chính. Tác giả
Đinh Văn Liên trong bài viết Văn hố Khmer trong q trình giao lưu và phát triển ở
đồng bằng Sông Cửu Long cho rằng:
…Người Khmer cư trú rải rác hầu khắp 9 tỉnh đồng bằng nhưng quy tụ vào 3
vùng trọng điểm, mỗi vùng có sắc thái riêng qui định bởi điều kiện thiên nhiên, truyền
thống lịch sử và quá trình cộng cư hoà hợp với các dân tộc anh em Việt, Hoa, Chăm.
Tuy nhiên, sự thống nhất vẫn là yếu tố chủ đạo trong văn hố của đồng bào Khmer ở
tồn vùng đồng bằng: 1.Vùng Trà Vinh-Trà Cú là một trong những vùng cư trú cổ xưa
nhất của người Khmer ở đồng bằng Sông Cửu Long (…). 2. Vùng ven biển Sóc Trăng
– Bạc Liêu là vùng cư trú ven biển của người Khmer, nổi bật lên yếu tố hoà hợp văn
hoá – nhân chủng giữa ba dân tộc Việt, Hoa, Khmer 3. Vùng biên giới Châu Đốc, Tri
Tôn, Hà Tiên, Rạch Giá là vùng mang tính cách trung gian giữa người Khmer đồng
bằng Sông Cửu Long và người Khmer Cămpuchia. [47, tr.58-59]
Tác giả cũng thừa nhận rằng người Khmer ở vùng Châu Đốc - Rạch Giá có tiếp
thu những yếu tố Campuchia truyền vào cộng với điều kiện cư trú nằm giữa dãy thất
sơn và vùng tứ giác Long Xuyên, nên những cách ứng xử mang sắc thái tương đối
khác so với đồng bào Khmer vùng đồng bằng Trà Vinh-Cửu Long và vùng ven biển
Sóc Trăng-Bạc Liêu.
Tác giả Nguyễn Sĩ Tuấn viết trong bài “Một vài nét khác biệt giữa văn hố
Khmer Nam Bộ và văn hóa Khmer Campuchia” lại quan niệm có khác:
13
…địa bàn cư trú của người Khmer Nam Bộ cũng có thể chia thành các tiểu khu
vực với những hệ sinh thái đặc thù. Khu vực cao thuộc vùng Châu Đốc, Tri Tôn, Bảy
Núi (thuộc An Giang). Khu vực chuyển tiếp: Cần Thơ, Vĩnh Long, Kiên Giang, một
phần An Giang. Khu vực thấp gồm Sóc Trăng, Trà Vinh, Bạc liêu, Cà Mau cư trú theo
ven biển … Trong đó khu vực cao có nhiều nét tương đồng với Khmer Campuchia
hơn, cịn khu vực thấp mang tính giao thoa đậm nét với văn hóa Việt, Hoa hơn. [49,
tr.717]
Như vậy có hai khuynh hướng phân chia về mặt địa bàn cư trú của tộc người
Khmer ở đồng bằng Sông Cửu Long. Trong đó, vấn đề phân chia vùng Trà Vinh là ven
biển hay thuộc đồng bằng là chưa thống nhất. Còn gọi Cần Thơ, Vĩnh long và Kiên
Giang và một phần An Giang là khu vực chuyển tiếp thì cũng chưa ổn bởi tính chất
giáp biên giới của Kiên Giang rất gần với Vùng Tri Tôn của An Giang.
Theo nhiều nhà nghiên cứu khác, người Khmer Nam Bộ, đặc biệt là ở đồng
bằng Sơng Cửu Long có đặc điểm cư trú theo 4 hình thức: Cư trú trên đất giồng; Cư
trú trên đất ruộng; Cư trú theo kênh mương và các con rạch nhỏ; và Cư trú theo trục lộ
giao thông. Mỗi hình thức cư trú ít nhiều cũng có tác động đến các yếu tố kinh tế và
văn hóa, làm cho các quan niệm về một số giá trị cũng khác nhau. So với người Khmer
ở Campuchia, điều kiện sống của người Khmer ở đồng bằng Sơng Cửu Long có những
nét khác biệt. Cũng là xã hội nông nghiệp lúa nước nhưng người Khmer thường tập
hợp nhau lại thành những tập thể láng giếng nhỏ, bám sát đất trồng trọt và gọi là Phum
và cao hơn Phum là Sóc. Các Phum, Sóc khơng hồn tồn tương đương với đơn vị
hành chính, nên dù có sự thay đổi thể chế chính trị, người Khmer vẫn giữ được tổ chức
xã hội theo kiểu của mình. Điều này khơng tìm thấy ở Campuchia. Theo giáo sư Sơm
Som Un trong Lịch sử Campuchia thì “…Ở Campuchia khơng có dạng phum như
vậy, người ta cất nhà ở rải rác khắp nơi. Nếu nơi nào có dạng phum như trên, ấy chính
là do người Khmer gốc từ đồng bằng Sông Cửu Long lên làm ăn sinh sống và lập ra và
dù cho ở đến bao nhiêu đời đi nữa thì họ vẫn giữ nề nếp tổ chức phum như thế [43,
tr.22]. Do đó, nền văn hố của người Khmer sống ở hai quốc gia khác nhau đã có
những bước phát triển khác và cũng từ đó tạo nên sắc thái riêng cho cư dân Khmer
14
sống ở vùng đất mới. “Đó là một nền văn hố ít bảo thủ hơn, trình độ dân trí, xã hội,
nhân văn tiến triển ở nhiều mức khác hơn” [43, tr.55].
Người Khmer ở Nam Bộ có một tâm lý và cá tính dễ hịa đồng, dân dã, linh
hoạt và gần gũi do nhiều yếu tố tự nhiên lẫn xã hội tác động. “Điều này khác với tính
hướng thượng, tính chặt chẽ, tính đẳng cấp của xã hội Khmer truyền thống ở
Campuchia” [49, tr.717]. Nét tính cách này đã xây nên một nền văn hóa Khmer Nam
Bộ, mang bản sắc riêng.
Nhiều người cho rằng, khi nói đến văn hố Khmer tức là nói đến nền văn hố
chịu ảnh ảnh hưởng sâu đậm của triết lí Phật giáo Tiểu thừa. Điều này khơng sai,
nhưng rất nhiều cơng trình nghiên cứu đã khẳng định rằng: Sự phổ biến của Phật giáo
Tiểu thừa trong đời sống tinh thần của người dân Khmer chính là sự thắng thế của Phật
giáo đối với đạo Bà La Mơn. Nói thắng thế khơng có nghĩa là thay thế, vì trong tâm
thức của người Khmer vẫn cịn một số dấu ấn của Bà la môn giáo, nhất là trong một số
lễ hội, phong tục. Bởi vậy, trong văn hóa, chúng tơi có thể tìm thấy tâm linh tín
ngưỡng mang dấu ấn mờ nhạt của đạo Bà La Môn, song ở đây cũng tồn tại khá rõ
nguồn gốc lễ nghi nông nghiệp của cư dân trồng lúa nước nhất là ở một số lễ hội,
phong tục như lễ chào năm mới Chôl Chnăm Thmây, lễ cúng Sen Đôn Ta, lễ cúng
trăng – cầu mưa Ốc Om Bóc, lễ Dâng Bơng, lễ Dâng Y…Đặc biệt, tầm quan trọng
các ngày lễ của người Khmer theo tập quán lâu đời, được tổ chức theo Phật lịch, dù
hiện nay hằng ngày trong đời sống họ vẫn sử dụng dương lịch. Lễ Chơl Chnăm Thmây
có nghĩa là “vào năm mới” (Phật lịch), tức là lễ tết lớn nhất hằng năm của người
Khmer, còn gọi là lễ chịu tuổi, thường diễn ra vào tháng tư dương lịch (tức đầu tháng
Chét của người Khmer. Đây là thời điểm giao mùa giữa mùa nắng và mùa mưa, trong
khi đó, lễ Oóc Om Bok (lễ cúng trăng) lại diễn ra vào thời điểm giữa mùa mưa và mùa
nắng (tống tiễn mùa ẩm ướt để đón ánh nắng mặt trời). Lễ thường kéo dài trong ba
ngày, ngồi ý nghĩa đón mừng năm mới, lễ Chơl Chnăm Thmây cịn có ý nghĩa chấm
dứt thời kỳ nắng hạn, bước sang thời kỳ có nắng trời dồi dào để chuẩn bị cho vụ làm
mùa tới. Theo thường lệ hằng năm gần đến ngày lễ Chôl Chnăm Thmây, bà con Khmơ
Me lo chuẩn bị rất chu đáo, mà trước hết tập trung vào việc ăn, mặc, ở. Để chuẩn bị
15
cho việc ăn uống, đãi khách, dâng cho chùa, gia đình nào cũng lo chà gạo để sẵn, làm
bánh, chuẩn bị thịt heo, gà, vịt… Nước sinh hoạt cũng được gánh đầy ghè, chum. Mọi
người sửa sang bàn thờ Phật, quét dọn sân nhà, kết cổng chào…Mọi công việc ruộng
rẫy lúc này cũng được dừng lại, trâu bò trong mấy ngày này cũng được chuẩn bị rơm
cỏ đầy đủ, để ở trong chuồng hoặc thả tự do ở nơi có điều kiện. Trong đêm giao thừa
trên bàn thờ có bày sẵn năm nhánh hoa, năm cây đèn cầy, năm cây nhang, năm hạt
cốm và nhiều loại trái cây. Cha mẹ, ông bà tập hợp con cháu lại, ngồi xếp chân phía
trước bàn thờ tổ tiên, đốt nhang đèn, vái 3 vái tiễn đưa Têvêđa cũ và rước Têvêđa mới,
mong được ban phúc lành. Họ tin rằng Têvêđa là ông tiên được trời sai xuống chăm
sóc dân chúng trong thời gian một năm, hết nhiệm kỳ sẽ có vị khác xuống thay thế.
Sáng ngày thứ nhất (Săngk-ran) là lễ rước “Maha Săngk-ran mới”. Mọi người đều
được tắm gội, mặc quần áo đẹp, mang nhang đèn, lễ vật đến chùa. Dưới sự điều hành
của ơng Achar, mọi người xếp hàng đi vịng quanh chánh điện ba vòng rồi làm lễ chào
mừng năm mới. Ngày thứ hai (Wonbót), mỗi gia đình làm lễ dâng cơm buổi sáng và
buổi trưa cho các vị sư sãi, trước khi ăn sư sãi tụng kinh tạ ơn người làm vật thực.
Buổi chiều thì làm lễ “Đắp núi cát” ngay tại khuôn viên chùa, để mong gặp được điều
lành theo sự hướng dẫn của vị Achar. Hình thức đắp núi cát cũng có nhiều thay đổi so
với trước đây: trong những ngày gần tết người Khmer đến cửa hàng vật liệu để mua
một số cát, số cát này được xe chở đổ trước sân chùa, trước để làm lễ, sau làm vật liệu
xây dựng các cơng trình cơng cộng. Với sự hướng dẫn của vị Achar, người Khmer
dùng số cát này đắp tháng chín ngọn núi nhỏ có rào chắc bằng tre hoặc vật liệu khác
bao quanh, tám ngọn núi ở tám hướng và một ngọn ở chính giữa tượng trưng cho trung
tâm của trái đất và bốn phương tám hướng của vũ trụ. Tục đắp cát ý nghĩa ngăn ma
quỷ và những điều không tốt lành, nhắc nhở mọi người ln tích cơng, tích phúc lớn
dần như núi cát và sẽ lan khắp tám phương. Ngày thứ ba (Lơnsắk), sau khi đã dâng
cơm cho các vị sư sãi ở chùa, người ta làm lễ tắm tượng Phật bằng nước có ướp hương
thơm, rồi sau đó tắm cho các vị sư cao niên ở chùa, nhằm rửa hết cái cũ, những bụi
bậm của trần thế trong năm cũ, để bước sang năm mới với một thân thể sạch sẽ, hồn
tồn mới. Tiếp đó, là lễ cầu siêu (Băngskơl). Các vị sư được mời đến tháp lưu giữ hài
cốt của những người quá cố để cầu kinh cho linh hồn họ được siêu thoát. Đến trưa mọi
16
người về nhà làm lễ tắm tượng Phật thờ trong từng gia đình, rồi chúc mừng cha mẹ,
ơng bà, dâng bánh trái để tạ ơn. Cũng có khi tổ chức lễ tắm ông bà, cha mẹ gọi là để
báo hiếu. [10, tr 1041-1043]. Trong lễ Chôl Thnăm Thmây, hoạt động văn nghệ cũng
được coi trọng, chùa nào cũng tổ chức văn nghệ, mời đoàn văn nghệ đến phục vụ hoặc
tổ chức văn nghệ nghiệp dư tại chùa. Trong đêm cuối cùng, mọi người vui chơi đờn
hát, nhảy múa, kể chuyện…cho đến khi trời sáng mới thôi. Đối với người Khmer, chùa
là chỗ dựa tinh thần, nơi tín ngưỡng tơn nghiêm nhất, trung tâm văn hóa của địa
phương, nơi sinh hoạt cộng đồng, cho nên khi tết đến đồng bào dân tộc Khmer không
chỉ đến viếng chùa mà tất cả đều tập trung ở chùa ăn tết, xem đây là mái nhà chung
của dân tộc mình. Tết Chơl Thnăm Thmây có ý nghĩa rất trọng đại, vừa là ngày mở
đầu của năm mới, ngày mở đầu cho mùa vụ, ngày vui tươi hạnh phúc nhất trong năm,
đối với thanh niên nam, nữ coi đây là dịp để trao đổi, tâm sự, hẹn hị…Những lễ hội
này có ảnh hưởng lớn từ đạo Bà La Môn.
Cho đến nay, khi các lễ hội trong năm đã cắt bớt đi nhiều, bởi lẽ Phật giáo Tiểu
thừa đã trở thành “môi trường sống” cho bất cứ người Khmer nào. Họ có thể đem của
cải của mình cúng vào chùa, bởi họ quan niệm dâng một thì sẽ được gấp mười nên khi
có điều kiện, họ trích một số lớn để cũng dường để tỏ thành tâm. Họ khơng sợ nghèo
đói, chỉ sợ chết khơng được hỏa thiêu để đem tro vào chùa ở cạnh Đức Phật. Bởi thế,
tâm lý chúng của người Khmer là thích sống đơn giản, khơng muốn tranh giành, nghe
và tin những gì thấy trước mắt, ghét ba hoa, trừu tượng. Họ rất cần cù, mộc mạc, giỏi
chịu đựng gian khổ, khi họ đã tin cậy ai thì người đó nói gì họ cũng nghe. Họ có một
tinh thần tự túc, tương trợ lẫn nhau, những việc cất nhà, cưới hỏi, tang lễ thường nhận
được sự giúp đỡ của hàng xóm” [15, tr 33]. Tuy nhiên, đôi khi ta vẫn bắt gặp những
triết lý về nhân sinh, những tín ngưỡng dân gian thể hiện qua các tác phẩm văn xi
thì lại in đậm tư tưởng của Ấn Độ giáo.
Như trên đã nói, nền văn hóa Ấn cung cấp nguồn để tài cho văn hóa nghệ thuật
Khmer. Những yếu tố văn hóa Ấn đặc biệt quan trọng trong các loại hình nghệ thuật
Khmer là: Bà-la-mơn, mà tín ngưỡng Civa là cơ sở tơn giáo; sử thi Ramayana và
Mahabharata cung cấp đề tài, ca ngợi đức tính của giai cấp thống trị và thể thức múa
17
Ấn … [43, tr.73]. Vì thế khi tìm hiểu các vấn đề có liên quan đến văn hóa dân tộc
Khmer, phải thừa nhận Phật giáo tiểu thừa có tác động sâu sắc đến tất cả những lệ tục
trong cuộc đời mỗi con người Khmer, nhưng cũng nên lưu ý cuội nguồn sâu xa của tín
ngưỡng tơn giáo Bà La Mơn trong tâm thức và quan niệm về cuộc sống của họ. Thế
nên, cho dù Phật giáo Tiểu thừa đã trở thành một “môi trường sống” cho bất cứ người
Khmer nào nhưng những triết lí về nhân sinh, những tín ngưỡng dân gian vẫn còn in
đậm tư tưởng của Ấn Độ giáo. Các khái niệm thần “Neak tà”, “Mahaprum”, quỷ
“Reahu”, chim “Krut”, tiên thần “Krây-no” đều có nguồn gốc từ Bà La Mơn giáo. Lấy
một ví dụ: Cùng theo đạo Phật nhưng những người theo tu theo trường phái Đại thừa
(người Kinh ở Việt Nam, người Hán ở Trung Quốc) thì quan niệm người chết là phải
xuống âm phủ, đầu thai kiếp khác; chết là kết thúc một vòng đời để tiếp tục tái sinh ở
một kiếp khác. Lý thuyết “luân hồi”, “nghiệp báo” là một trong những điều mà các tín
đồ Phật giáo đại thừa vẫn thường nhắc nhở nhau. Ngược lại, người Khmer theo Phật
giáo Tiểu thừa lại cho rằng: “linh hồn của người là linh hồn cá thể được sinh ra từ linh
hồn vũ trụ (Brama) nên khi chết phải quay về với vũ trụ. Chính vì vậy nên thân xác
cần được hỏa thiêu để tiêu trừ tội lỗi, phần thân xác trần tục tiêu tan càng nhanh thì
linh hồn càng mau chóng trở về với vũ trụ” [49, tr.682-683]. Tín ngưỡng đậm chất Ấn
Độ với các khái niệm Bản ngã (Brama) và Tiểu ngã (Atman) chìm sâu dưới tinh thần
Phật giáo đã làm cho đời sống tâm thức của người Khmer Nam Bộ có những nét độc
đáo riêng so với người Việt và người Hoa theo Phật giáo Bắc tơng. Ngồi ra một trong
những đặc điểm về văn hoá của người Khmer đáng lưu ý nữa là khuynh hướng biểu
diễn và nghệ thuật tạo hình. Các điệu múa của người Khmer rất đa dạng và phổ biến.
Hầu như người Khmer nào cũng biết múa một vài điệu. Bởi thế mà khuynh hướng
biểu diễn của một số môn nghệ thuật mang nhiều đặc điểm hoàn toàn độc đáo so với
người Việt và người Hoa ở Nam Bộ.
Về kiến trúc và điêu khắc, nghệ thuật tạo hình của những nghệ nhân Khmer
mang một đặc điểm hoàn toàn độc đáo so với người Việt và người Hoa, đặc biệt là
trong các ngôi chùa. Chùa Khmer dù lớn hay nhỏ, ở địa phương nào cũng có cơng
trình kiến trúc rất cơng phu, có sự phối hợp bởi những đường nét nghệ thuật độc đáo
và hài hòa thể hiện ý nghĩa sâu xa và thâm thúy của triết lý Phật giáo, minh họa những
18
hình ảnh cổ xưa theo tín ngưỡng dân gian, đồng thời diễn tả những sinh hoạt của cộng
đồng dân tộc Khmer. Chùa Khmer thực sự là một sản phẩm văn hóa dân tộc gắn liền
với cuộc sống của người Khmer qua nhiều thế kỷ cũng như trong hiện tại và góp phần
vào cơng trình kiến trúc của các dân tộc ở vùng đất Tây Nam Bộ. Chúng tơi tìm hiểu
và ghi nhận điều này thông qua các kiến trúc của các ngơi chùa trong từng “phum,
sóc” của người Khmer như chùa Âng, chùa Dơi, chùa Ông Mẹt, chùa Bà Om... . Nói
một các khái qt thì tồn bộ đặc điểm văn hóa của người Khmer Nam Bộ có nhiều
đặc trưng cơ bản, tác động đa chiều của nhiều tôn giáo đến tâm linh và tín ngưỡng, ảnh
hưởng rộng tới từng lĩnh vực của đời sống, trong đó có nền văn học dân gian.
Tóm lại, tồn bộ đặc điểm văn hố của một tộc người khơng thể tóm lược trong
một vài trang giấy. Nhưng qua một vài đặc điểm văn hoá cũng có thể thấy được nét
đặc trưng cơ bản của tộc người Khmer Nam Bộ. Những đặc trưng này có tác dụng sâu
rộng đến mọi lĩnh vực của đời sống, trong đó có nền văn học dân gian nói chung, và
thể loại ca dao dân ca nói riêng.
1.2.
Giới thuyết về khái niệm ca dao
Ca dao dân ca là một bộ phận lớn trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam. Ca
dao là khái niệm chỉ thể loại thơ ca trữ tình dân gian, diễn tả đời sống nội tâm con
người. Ca dao là một từ Hán Việt, theo từ nguyên, ca là bài hát có chương khúc, giai
điệu dùng để hát hoặc ngâm; dao là bài hát ngắn độ một vài câu.
Theo cuốn Từ điển thuật ngữ văn học của Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn
Khắc Phi, “thuật ngữ ca dao được dùng vời nhiều nghĩa rộng hẹp khác nhau. Theo
nghĩa gốc thì ca là bài hát có khúc điệu, dao là bài hát khơng có khúc điệu. Ca dao là
danh từ ghép chỉ toàn bộ những bài hát lưu hành phổ biến trong dân gian có hoặc
khơng có khúc điệu. Trong trường hợp này thì ca dao đồng nghĩa với dân ca” [12, tr 31
– 32]. Để phân loại ca dao dân ca, cuốn từ điển cũng dựa trên chức năng kết hợp với
hệ thống đề tài thì chia thành ca dao ru con, ca dao tình yêu, ca dao tình cảm gia đình,
ca dao than thân, ca dao trào phúng [12, tr 32].
19
Theo cuốn Văn học dân gian Việt Nam do Đinh Gia Khánh (chủ biên), phần thể
loại trữ tình dân gian cho Chu Xuân Diên biên soạn, ông cho rằng: “Trong sinh hoạt
văn học dân gian có một bộ phận quan trọng là sinh hoạt ca hát…Người ta thường hay
nghĩ đến việc diễn xướng ca dao, dân ca” [4, tr 410]. Bởi vậy, ông đưa ra khái niệm:
“Dân ca là những bài hát và câu hát dân gian trong đó cả phần lời và phần giai điệu là
một trong những đặc điểm ấy. Song nói đến dân ca Việt Nam, khơng chỉ nói đến
những bài, những câu hát nhất định, mà cịn là nói đến những hình thức sinh hoạt dân
ca nhất định nữa” [4, tr 411]. Cũng dựa trên cuốn sách này, chúng tơi có thêm chú ý
khi tìm hiểu về đặc điểm và phân loại dân ca Việt Nam: lời ca (câu hay bài), giai điệu
(giọng hoặc làn điệu), hình thức sinh hoạt (hay lề lối hát). Hay nói cách khác, khi phân
tích ca dao dân ca phải chú ý tới mối quan hệ hữu cơ giữa nó với giai điệu và với một
hệ thống câu hát hoặc bài hát nhất định. Từ đây, các tác giả đưa ra một cách phân loại
ca dao dân ca dựa trên ba mảng màu cơ bản: Sinh hoạt lao động (quan hệ của con
người với giới tự nhiên); Sinh hoạt gia đình và xã hội (quan hệ của con người với
nhau); Sinh hoạt nghi lễ (quan hệ giữa con người với giới tự nhiên và giữa con người
với các lực lượng siêu nhiên do trí tưởng tượng của chính con người tạo ra).
Bức tranh thứ nhất là sinh hoạt lao động, đặc điểm cơ bản của những bài ca ở đề
tài này là: bằng cách tạo ra và tăng cường tính chất nhịp nhàng cho động tác lao động
và có khi lại giúp con người nhận thức được những đặc điểm của q trình lao động,
những bài ca này có tác dụng làm giảm nhẹ sự mệt nhọc và gây ra sự phấn khích trong
lao động. [4, tr 413 – 414].
Bức tranh thứ hai về sinh hoạt gia đình và xã hội, có thể kể đến những khúc hát
ru hay những lời răn dạy của ông ba cha mẹ dành cho con cháu, của vợ chồng dành
cho nhau, của anh em trong gia đình nói với nhau…Hai bức tranh kể trên có thể coi là
cơ sở chính cho sự phát triển của dân ca Việt Nam.
Bức tranh thứ ba nói đến sinh hoạt nghi lễ. Khi đi vào phân tích các bài ca ở đề
tài này, chúng ta cần nhấn mạnh yếu tố tơn giáo và văn hóa bản địa của mỗi dân tộc là
khác nhau. Có thể là nghi lễ trong lao động, những lễ tiết trong một năm, những nghi
lễ trong một đời người (sinh đẻ, trưởng thành, đám hỏi, hôn lễ, ma chay…) hay nghi lễ
20
tế thần. Mỗi dân tộc đều có một hình thức sinh hoạt nghi lễ riêng để thể hiện tập tục,
truyền thống của mình. Ở luận văn này, chúng tơi sử dụng phương pháp liên ngành
nhằm làm sáng rõ hơn nét riêng trong truyền thống của người Khmer Nam Bộ.
Theo Nguyễn Xuân Kính, khi nghiên cứu ca dao dân ca, ta cần chú ý trước tiên ở
việc xác định ranh giới giữa các thể loại. Ông phân biệt cụ thể ca dao với tục ngữ,
thành ngữ. Ông đã khảo sát được tục ngữ Việt cũng có nhiều câu được làm bằng thể
thơ lục bát, đôi khi được gọi là ca dao vì ca dao thường được sáng tác theo thể thơ này.
Ví dụ như:
Tranh quyền cướp nước gì đây
Coi nhau như bát nước đầy thì hơn [17, tr 72]
Từ việc xác định trên, ơng đưa ra những khía cạnh dễ phân biệt giữa hai thể
loại này: tục ngữ thiên về triết lí dân gian, tri thức dân gian; ca dao thiên về tình cảm,
có nội dung trữ tình dân gian….Trong sinh hoạt văn hóa, ca dao là những lời thơ dân
gian được dùng để hát, để ngâm, tục ngữ được dùng trong khi nói. Trong hoạt động
nói năng, mỗi câu tục ngữ là một câu nói đặc biệt được dùng xen kẽ vào giữa những
câu nói bình thương khác [17, tr 72]. Tiếp nữa, Nguyễn Xn Kính cịn chỉ ra quan hệ
giữa ca dao và dân ca. Từ cuối thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX, thuật ngữ ca dao và
phong dao chính thức ra đời dựa trên những biên soạn của các nhà nho. Mãi đến
những năm 50 của thế kỉ XX, thuật ngữ dân ca mới xuất hiện và chính thức được sử
dụng trong cuốn sách Tục ngữ và dân ca Việt Nam (Vũ Ngọc Phan biên soạn, in lần
đầu năm 1956). Như vậy, ca dao dân ca được hiểu theo nghĩa của hai từ: ca dao và
dân ca. Tác giả Nguyễn Xuân Kính kết luận lại như sau: Dân ca bao gồm phần lời (câu
hoặc bài), phần giai điệu (giọng hoặc làn điệu), phương thức diễn xướng và cả môi
trường, khung cảnh ca hát. Ca dao được hình thành từ dân ca. Khi nói đến ca dao,
người ta thường nghĩ đến lời ca. Khi nói đến dân ca, người ta nghĩ đến làn điệu và
những thể thức hát nhất định….Ca dao chính là những sáng tác văn chương được phổ
biến rộng rãi, lưu truyền qua nhiều thế hệ, mang những đặc điểm nhất định và bền
vững về phong cách. Ca dao đã trở thành một thuật ngữ chỉ thơ dân gian” [17, tr 78 –
79]. Cũng từ cách hiểu đó, mà cuốn sách đi vào năm khía cạnh để phân tích đặc điểm
21