Tải bản đầy đủ (.pdf) (179 trang)

(Luận án tiến sĩ) nhân vật liệt nữ trong văn học việt nam trung đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.69 MB, 179 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

PHẠM VĂN HƢNG

NHÂN VẬT LIỆT NỮ
TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM TRUNG ĐẠI

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

Hà Nội - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

PHẠM VĂN HƢNG

NHÂN VẬT LIỆT NỮ
TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM TRUNG ĐẠI
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số:

62 22 34 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS TRẦN NHO THÌN

Hà Nội - 2016




LỜI CẢM ƠN
Tơi muốn qua đây bày tỏ lịng tri ân đối với PGS. TS Trần Nho Thìn
(Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học
Quốc gia Hà Nội), người đã tận tình hướng dẫn tôi trong việc thực hiện luận
án này.
Tôi cũng gửi lời cảm ơn tới các thành viên trong các Hội đồng đánh giá
luận án bởi những góp ý của Hội đồng sẽ giúp tơi có những tiến bộ nhanh hơn
trên con đường học tập và nghiên cứu.
NGHIÊN CỨU SINH

Phạm Văn Hƣng


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan rằng:
- Luận án Tiến sĩ này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng
dẫn của người hướng dẫn khoa học, chưa từng được cơng bố trong các cơng
trình nghiên cứu của ai khác.
- Luận án đã được tiến hành nghiên cứu một cách nghiêm túc, cầu thị.
- Kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu khác đã được tiếp thu một
cách trung thực, cẩn trọng trong luận án.
NGHIÊN CỨU SINH

Phạm Văn Hƣng



MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

4

1. Lí do lựa chọn đề tài

4

2. Mục tiêu khoa học

5

3. Đối tượng và phạm vi tư liệu

5

4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn

6

5. Phương pháp nghiên cứu

6

6. Cấu trúc của luận án

7

Chƣơng 1: TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU


8

1.1. Giới thuyết một số khái niệm sử dụng trong luận án

8

1.2. Một số vấn đề về phụ nữ dưới ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo trong

10

lịch sử Trung Quốc và Việt Nam
1.2.1. Một số vấn đề về phụ nữ dưới ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo

10

trong lịch sử Trung Quốc
1.2.2. Một số vấn đề về phụ nữ dưới ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo

15

trong lịch sử Việt Nam
1.3. Lịch sử nghiên cứu nhân vật liệt nữ trong văn học Việt Nam trung

28

đại
1.3.1. Những nghiên cứu tại nước ngoài về nhân vật liệt nữ trong văn học

28


Việt Nam trung đại
1.3.2. Những nghiên cứu tại Việt Nam về nhân vật liệt nữ trong văn học

32

Việt Nam trung đại
Tiểu kết Chương 1

37

Chƣơng 2: NHÂN VẬT LIỆT NỮ TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM

38

TRUNG ĐẠI THẾ KỈ X - XV
2.1. Liệt nữ “khai khoa” trong văn chương Đại Việt và sự gán ghép của

38

nhà nho: Trường hợp nhân vật Mị Ê (Việt điện u linh)
2.1.1. Sự ngẫu nhiên của lịch sử trong lựa chọn Mị Ê làm nhân vật liệt nữ
1

38


đầu tiên của văn chương Đại Việt
2.1.2. Sự gán ghép của nhà nho Đại Việt và sự di chuyển giữa Văn - Sử,

41


Trung - Trinh của liệt nữ Mị Ê
2.2. Liệt nữ bản địa đầu tiên và sự khẳng định kết quả q trình Nho giáo

48

hóa xã hội Đại Việt cuối thế kỉ XIV - đầu thế kỉ XV: Trường hợp Lê thái
hậu và Nguyễn thị (Nam Ông mộng lục)
2.2.1. Sự lấn át của phương diện Trinh so với Trung trong việc thể hiện

48

nhân vật Lê thái hậu và Nguyễn thị
2.2.2. Sự khẳng định kết quả quá trình Nho giáo hóa xã hội Đại Việt cuối

53

thế kỉ XIV - đầu thế kỉ XV nhìn từ nhân vật Lê thái hậu và Nguyễn thị
Tiểu kết Chương 2

61

Chƣơng 3: NHÂN VẬT LIỆT NỮ TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM

62

TRUNG ĐẠI THẾ KỈ XVI - XVIII
3.1. Liệt nữ mang dáng dấp giai nhân và sự thắng thế nửa vời của đạo lí

62


Nho gia: Trường hợp nhân vật liệt nữ trong Truyền kì mạn lục
3.1.1. Nhân vật liệt nữ là sản phẩm của bất bình đẳng giới và bối cảnh

62

loạn lạc còn nặng gánh nhân sinh
3.1.2. Sự chiến thắng của Văn so với Sử trong việc thể hiện người liệt nữ

70

mang dáng dấp giai nhân của thể truyền kì
3.2. Nhân vật liệt nữ có đời sống nội tâm phong phú trong bối cảnh vãn

75

hồi đạo đức Nho giáo đầu thế kỉ XVIII: Trường hợp liệt nữ An Ấp
(Truyền kì tân phả)
3.2.1. Nhân vật liệt nữ có đời sống nội tâm phong phú trong mơ hình liệt

75

truyện mở rộng
3.2.2. Sự chuyển đổi từ Tình sang Tính của nhân vật liệt nữ trong mắt nữ

82

sĩ, mở đường cho mẫu người tài tử - giai nhân
3.3. Liệt nữ tà dâm và vưu vật trinh liệt hay là sự phân hóa lí tưởng Nho
gia cuối thế kỉ XVIII: Trường hợp Thúy Kiều (Truyện Kiều) và Đặng Thị

2

90


Huệ (Hồng Lê nhất thống chí)
3.3.1. Nhân vật liệt nữ giữa hai nẻo Trinh liệt và Tà dâm: Trường hợp

90

Thúy Kiều trong "Truyện Kiều"
3.3.2. Vưu vật khuynh quốc với kết cục tiết liệt ngoài dự kiến của nhà

102

nho: Trường hợp Đặng Thị Huệ trong "Hồng Lê nhất thống chí"
Tiểu kết Chương 3

107

Chƣơng 4: NHÂN VẬT LIỆT NỮ TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM

108

TRUNG ĐẠI THẾ KỈ XIX
4.1. Sự lên ngôi của nhân vật liệt nữ chính thống trong nỗ lực phục hưng

108

Nho giáo thế kỉ XIX: Trường hợp nhân vật liệt nữ trong Đại Nam liệt

truyện và Truyện Nôm
4.1.1. Sự quy phạm hóa một mơ hình nhân cách trong thời kì phục hưng

108

Nho giáo dưới triều Nguyễn qua “Đại Nam liệt truyện”
4.1.2. Sự mơ hình hóa một kiểu tự sự về liệt nữ trong “Đại Nam liệt

116

truyện” và làn sóng kế tiếp của nó trong Truyện Nơm
4.2. Sự tái sinh những cốt truyện cũ và tính thời sự, tính duy lí của nhân

129

vật liệt nữ thế kỉ XIX: Trường hợp nhân vật liệt nữ trong Nam Xương liệt
nữ Vũ thị tân truyện và Vân nang tiểu sử
4.2.1. Sự tái sinh những cốt truyện cũ hay phục sinh những hóa thạch văn

129

chương: Trường hợp Vũ Thị Thiết (“Nam Xương liệt nữ Vũ thị tân
truyện”) và Trinh phụ hai chồng (“Vân nang tiểu sử”)
4.2.2 Tính thời sự và tính duy lí của nhân vật liệt nữ nửa sau thế kỉ XIX:

137

Trường hợp nhân vật mẹ Nguyễn Cao ("Vân nang tiểu sử")
Tiểu kết Chương 4


146

KẾT LUẬN

147

DANH MỤC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN

151

QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
152

TÀI LIỆU THAM KHẢO
3


MỞ ĐẦU
1. Lí do lựa chọn đề tài
a. Nho giáo là một học thuyết đạo đức - chính trị mang màu sắc tơn giáo,
hướng tới xây dựng những mẫu hình nhân cách (cho nam giới và nữ giới) để phục
vụ mục đích giáo hóa (bao gồm giáo dục và cai trị). Trong truyền thống “triết học
thực hành đạo đức” dung hợp tơn giáo - chính trị - ln lí đó, kiểu nhân cách liệt nữ
là một trong những mơ hình nhân cách quan trọng trong quan niệm của nhà nho, có
ảnh hưởng lớn trong lịch sử khu vực Đơng Á1. Không chỉ là một minh chứng cho sự
ảnh hưởng của văn hóa, văn học Trung Quốc ở Đơng Á, kiểu nhân cách này cịn có
ảnh hưởng to lớn và lâu dài lên những vấn đề của xã hội hiện đại.
b. Trong lịch sử văn học Việt Nam trung đại, kiểu nhân vật liệt nữ có một
tiến trình vận động song hành với vận mệnh của văn học nhà nho, thậm chí kéo dài
thành vệt sang những năm đầu thế kỉ XX, ám ảnh cả trong văn học Việt Nam hiện

đại những năm 1932 - 1945 khi công cuộc hiện đại hóa văn học đã diễn ra ồ ạt và
mạnh mẽ. Cùng với các thành tố nội tại của bản thân văn học như: lực lượng sáng
tác, quan điểm thẩm mĩ, ngôn ngữ, thể loại, chủ đề - đề tài, việc nghiên cứu nhân
vật liệt nữ giúp chúng ta nhìn ra sự vận động của bản thân văn học qua một trong
những kiểu nhân vật quan trọng nhất của văn học nhà nho. Do những “điển phạm”
trong nghiên cứu và phê bình, có những định đề được đem ra áp dụng cho mỗi giai
đoạn văn học như: Giai đoạn văn học khẳng định quốc gia, dân tộc; Giai đoạn văn
học khẳng định nhà nước phong kiến; Giai đoạn văn học khẳng định con người. Nói
một cách khách quan, mỗi định đề đó khơng thể bao qt được hết mọi đặc điểm,
hiện tượng của từng giai đoạn văn học. Ngay trong “Giai đoạn văn học khẳng định
con người” ở Việt Nam thế kỉ XVIII - nửa trước thế kỉ XIX thì nhân vật liệt nữ (một
mơ hình nhân cách tn thủ những tín điều khắt khe nhất của đạo đức Nho giáo) lại
xuất hiện nhiều hơn bao giờ hết. Qua nghiên cứu trường hợp nhân vật liệt nữ, ta có
thể hiểu thêm về tiến trình văn học Việt Nam trung đại và sự vận động của văn học
1

Về mặt văn hóa, văn học, chúng tôi quan niệm Việt Nam thuộc về khối Đơng Á dựa trên sự tương
đồng về văn hóa và ngôn ngữ (tiếng Hán) trong quá khứ.

4


Việt Nam hiện đại trong những ngày đầu tìm cách thoát khỏi ảnh hưởng của truyền
thống văn học nhà nho đầu thế kỉ XX.
c. Trong nghiên cứu văn học nói chung, nghiên cứu văn học Việt Nam trung
đại nói riêng, việc nhìn người phụ nữ, nhân vật phụ nữ trong văn học từ quan điểm
giới khơng cịn là một chuyện xa lạ nhưng vẫn là một hướng đi khá mới mẻ. Hướng
nghiên cứu này của luận án bổ sung một góc nhìn về con người nói chung, về người
phụ nữ nói riêng từ góc nhìn giới, quan tâm đến nữ tính của họ, bên cạnh những góc
nhìn truyền thống đặt họ trong vai trị cơng dân, vai trị xã hội quen thuộc. Nghiên

cứu diễn trình của kiểu nhân vật liệt nữ trong văn học Việt Nam trung đại giúp
người nghiên cứu có thêm tiêu chí đánh giá q trình Nho giáo hóa bản thân đời
sống văn học, cảm quan nhân đạo của các nhà văn, q trình nhân đạo hóa - dân chủ
hóa nền văn học Việt Nam.
2. Mục tiêu khoa học
- Mục tiêu thực tiễn: Thống kê, khảo sát trên cơ sở những tư liệu đã được
công bố, dịch thuật để tìm ra những tác phẩm tiêu biểu trong văn học Việt Nam
trung đại có sự xuất hiện của nhân vật liệt nữ. Trên cơ sở đó, xác định diện mạo,
đặc điểm, sự vận động của loại hình nhân vật này qua các tác phẩm, các nhóm tác
phẩm, các thể loại, các giai đoạn văn học.
- Mục tiêu lí luận: Từ những kết quả nghiên cứu mang tính thực tiễn, luận
án muốn thơng qua đó để nhìn ra những vấn đề mang tính lí luận trong sự vận động,
việc phân kì của văn học Việt Nam trung đại. Cũng qua đó, luận án hướng tới việc
đưa ra hoặc khẳng định thêm một số kết luận về văn học nhà nho, góp phần khẳng
định tính khả thi của một hướng nghiên cứu chuyên sâu mang tính liên ngành trong
nghiên cứu văn học nói chung và văn học Việt Nam trung đại nói riêng.
3. Đối tƣợng và phạm vi tƣ liệu
Luận án nghiên cứu nhân vật liệt nữ trong văn học Việt Nam trung đại qua
các văn bản tự sự bao gồm: truyện kí, tiểu thuyết, truyện thơ Nơm, sử truyện...
Trong các văn bản tuồng, nhân vật nữ thường không được nhấn mạnh phương diện
Trinh như phương diện Trung: Điêu Thuyền trong Phụng Nghi đình (khơng rõ thời
5


điểm sáng tác) chấp nhận làm vật hi sinh cho mĩ nhân kế để diệt Đổng Trác. Xuân
Hương trong Ngoại tổ dâng đầu (đầu thế kỉ XX) đã nghe lời cha dùng mĩ nhân kế
để giúp nghĩa quân diệt Võ Hùng Vương, tơn Bình Vương lên ngơi... Do vậy, các
nhân vật nữ trong tuồng không thuộc diện khảo sát của luận án này. Những tác
phẩm thơ đề vịnh nhân vật liệt nữ viết bằng chữ Hán, chữ Nôm chỉ được nhắc đến
như một kênh thông tin để tham khảo chứ khơng phải là đối tượng khảo sát chính

của Luận án. Nhân vật liệt nữ trong các ghi chép chính sử và dã sử, nếu như có liên
quan và tiêu biểu, cũng sẽ được khảo sát để mở rộng phạm vi nghiên cứu và giúp
cho kết luận khoa học của luận án thêm phần tin cậy.
Chúng tôi bắt đầu với mốc thế kỉ X vì đó là thời điểm khởi đầu của văn học
Việt Nam trung đại. Việc thiết kế các chương theo sự phân kì các giai đoạn văn học
sử giúp người đọc dễ theo dõi tiến trình vận động của đối tượng. Việc chia các
chương thành các ba chặng: Thế kỉ X - XV, Thế kỉ XVI - XVIII, Thế kỉ XIX, là nhìn
theo sự vận động của bản thân đối tượng được khảo sát bên cạnh việc tham chiếu
với sự vận động của lịch sử văn hóa, xã hội đương thời, sự thịnh suy đắp đổi của
những triều đại lớn.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Luận án có ý nghĩa lí luận về tư duy nghệ thuật, tâm lí học sáng tạo văn học
nghệ thuật, lí giải q trình Nho giáo hố và giải Nho giáo của văn học Việt Nam
trung đại, đồng thời có giá trị thực tiễn nhất định trong việc đưa ra một bình diện
tiếp cận di sản văn học trung đại Việt Nam. Nghiên cứu vấn đề này, có ý nghĩa
khơng chỉ với lịch sử văn học nói riêng mà cịn góp phần điều chỉnh một số nhận
thức trong quản lí văn hóa và xã hội.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp tiếp cận liên ngành: Trong nghiên cứu khoa học xã hội và
nhân văn, tiếp cận liên ngành là một phương pháp có nhiều ưu điểm so với các
phương pháp nghiên cứu khác. Đối với văn học Việt Nam trung đại, nghệ thuật
ngơn từ nằm trong điểm giao thoa của tính ngun hợp Văn - Sử - Triết bất phân,
phương pháp tiếp cận liên ngành tỏ rõ được những ưu thế cũng như hiệu quả mà nó
6


mang lại. Trong luận án này, khi vận dụng phương pháp tiếp cận liên ngành, chúng
tôi đặc biệt nhấn mạnh mối liên hệ giữa Văn và Sử, do hầu hết các nhân vật liệt nữ
đều là các nhân vật lịch sử và đi từ chính sử, dã sử vào sáng tác văn chương. Qua
đây, luận án khôi phục lại phần nào bối cảnh văn hóa - xã hội, các quan niệm về mặt

văn hóa thời trung đại cũng như đặt tác phẩm và nhân vật trong dòng mạch của thời
đại sản sinh ra nó nhằm giúp người nghiên cứu có một cái nhìn sâu sắc hơn về đối
tượng của mình, tránh được phần nào sự phiến diện, chủ quan hoặc áp đặt cái nhìn
của người thời hiện đại vào một sản phẩm văn hóa của thời trung đại.
- Do đối tượng nghiên cứu có những đặc thù như đã trình bày nên chúng tôi
ưu tiên sử dụng phương pháp nghiên cứu trên. Ngồi ra, chúng tơi vẫn sử dụng một
số phương pháp nghiên cứu thường gặp như phương pháp lịch sử - xã hội, phương
pháp tiếp cận thi pháp học, phương pháp loại hình học,… cùng các thao tác khoa
học như giải thích, phân tích, chứng minh, so sánh, hệ thống hóa, mơ hình hóa,…
bên cạnh việc tham khảo góc nhìn của một số luận thuyết như nữ quyền luận, phân
tâm học, trong đó mệnh đề nổi tiếng của Simone de Beauvoir: “Người ta không phải
sinh ra là phụ nữ: Người ta trở thành phụ nữ” [11, tr.245] là một điểm tựa khá vững
chắc. Do phạm vi tư liệu khá bề bộn và có những tư liệu nằm ngồi khả năng tiếp
cận của chúng tôi nên Luận án chọn lối nghiên cứu trường hợp, thông qua các tác
phẩm tiêu biểu đã được dịch thuật và công bố. Chúng tôi cũng ý thức rằng giữa các
phương pháp và thao tác luôn có sự phát triển và kế thừa, mọi sự ứng dụng đều chỉ
là tương đối và nhằm mục đích cao nhất là phục vụ việc nhận diện đối tượng trong
giới hạn và điều kiện hiện có của người nghiên cứu.
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận án có cấu trúc gồm 4
chương:
Chƣơng 1: Tổng quan về đề tài nghiên cứu
Chƣơng 2: Nhân vật liệt nữ trong văn học Việt Nam trung đại thế kỉ X - XV
Chƣơng 3: Nhân vật liệt nữ trong văn học Việt Nam trung đại thế kỉ XVI - XVIII
Chƣơng 4: Nhân vật liệt nữ trong văn học Việt Nam trung đại thế kỉ XIX
7


Chƣơng 1:
TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

1.1. Giới thuyết một số khái niệm sử dụng trong luận án
- Nhân vật: Trong nghiên cứu văn học, “nhân vật” hay còn gọi là “nhân vật
văn học” được hiểu là “hình tượng nghệ thuật về con người, một trong những dấu
hiệu về sự tồn tại toàn vẹn của con người trong nghệ thuật ngôn từ” [8, tr.249]. Với
quan niệm như vậy, nhân vật văn học thể hiện các thuộc tính người trong các thể
loại thuộc loại thể tự sự và kịch, với những số phận, nhân cách riêng. Là một hình
tượng nghệ thuật, nhân vật văn học được thể hiện qua các yếu tố như ngoại hình,
tâm lí, hành động, các mối quan hệ với tự nhiên, với xã hội và quan hệ với chính
bản thân mình; giúp nhà văn thể hiện quan niệm, chính kiến, cách nhìn của mình
đối với thế giới tự nhiên và xã hội.
- Liệt nữ 烈女: Theo Hán Việt tự điển của Thiều Chửu, “liệt 烈” có nghĩa là
“cứng cỏi, chính đính”, “liệt nữ” là con gái cứng cỏi chết vì tiết nghĩa khơng chịu
nhục thân” [26, tr.332]. Trong Hán Việt từ điển, Đào Duy Anh định nghĩa “liệt nữ”
là “người đàn bà kiên trinh không chịu khuất tiết” [3, tr.506]. Theo Hán ngữ đại từ
điển: “Liệt nữ: Xưa chỉ người phụ nữ trọng nghĩa khinh sinh (…). Đặc chỉ người
phụ nữ tuẫn tiết” [237, tr.62]. Từ hải thì định nghĩa: “Liệt nữ: Chỉ người phụ nữ
trọng nghĩa khinh sinh. (…) Xét ra, “liệt 烈” còn viết là “liệt 列” (…)” [240,
tr.1825]. Theo Từ nguyên, “Liệt nữ: Người phụ nữ cương chính, có tiết tháo. Sử kí Thích khách truyện: Chị của Nhiếp Chính ở ấp đau buồn mà chết bên xác Chính.
Người nước Tấn, Sở, Tề, Vệ nghe được đều nói: “Khơng chỉ một mình Nhiếp Chính
có thể [được gọi là anh hùng], mà chị của Chính cũng là liệt nữ”. Xã hội phong kiến
cũng gọi người phụ nữ không chịu cải giá, hoặc không chịu bị làm nhục mà tuẫn
thân là liệt nữ” [238, tr.1920]. Ở Trung Quốc, khơng phải khơng có lúc người dùng
bị nhầm lẫn hai chữ đồng âm này. Trong Liệt nữ truyện kim chú kim dịch, Trương
Kính viết: “Trong sách vở thường co giãn hiểu “liệt nữ 列女” thành “liệt nữ 烈女”,
cho nên trong dân gian khi răn dạy người phụ nữ khơng kiểm sốt được hành vi của
8


mình thường nói: “Bất độc Liệt nữ truyện 列女傳, bất hiểu phụ đức”, tức là đã hiểu
“liệt 列” thành “liệt 烈” rồi” [243, tr.4]. Nhà văn Lỗ Tấn từng giải thích: “Căn cứ

vào ý kiến của các nhà đạo đức bấy giờ thì đại khái “tiết” là chồng chết thì không
được tái giá, cũng không được chằng bậy với ai, chồng chết càng sớm, nhà nghèo
thì “tiết” càng cao. Nhưng “liệt” thì có hai loại: chết theo chồng hoặc chết khi có
cường hào đến hiếp, chết càng thảm, càng đau khổ thì “liệt” càng cao” [169, tr.35].
Sang đến Việt Nam, hệ thống nhân vật văn hóa - văn học này cũng gần như
chưa bao giờ được định nghĩa một cách hồn chỉnh trong các văn bản hành chính
chính thống thời trung đại. Các nhân vật đó, đến thời Nguyễn thường được gọi
chung là “tiết phụ” và dường như chỉ có danh hiệu “tiết phụ quyên sinh” và “trinh
nữ” là được quy định cụ thể trong Lệ nêu thưởng thọ dân, thọ quan, nghĩa phu, tiết
phụ, trinh nữ, hiếu tử, thuận tôn... sửa đổi năm 1866: “Tiết phụ quyên sinh, từ sau
có người nào sau khi chồng chết, (khơng kể có con hay không) mà quyên sinh (như
thắt cổ, tự vẫn, nhảy xuống sơng, xuống giếng), cho vẹn tiết, có đủ người nhà chồng
và hương lí bảo chứng khai rõ, do quan địa phương xét hỏi kĩ càng sự trạng đích
xác, để tâu rõ, thưởng cấp cho một tấm biển, Nhà nước làm nhà riêng cho. Trinh nữ,
từ sau phàm con gái vẫn chưa đi lấy chồng, mà biết kiên trinh giữ tiết, không chịu
để cho kẻ cường bạo làm nhơ nhuốc được, sự trạng đích xác, có thương tích làm
bằng chứng, khơng kể có chết hay khơng, thưởng cấp cho một tấm biển như lệ tiết
phụ, nhà nước làm nhà riêng cho, (2 khoản ấy trước đều đặc cách ban ơn, chưa có
định lệ, đến nay mới vâng lệnh chước nghị)” [152, tr.1019]. Tuy nhiên, một phần vì
sự lẫn lộn của hai chữ đồng âm, khái niệm “liệt nữ” được sử dụng không hẳn nhất
quán tại Việt Nam. Trong luận án này, chúng tôi quan niệm: “Liệt nữ 烈女 là người
phụ nữ hi sinh tính mạng của mình để bảo toàn trinh tiết, chứng minh sự trinh tiết,
hoặc để thể hiện lòng chung thủy đối với chồng” dù cho người đó có được triều
đình phong kiến nêu khen hay khơng. Những trường hợp được gọi là “trinh nữ”,

9


“tiết phụ”… cũng được luận án xem xét để hiểu rõ hơn tính hệ thống của kiểu nhân
vật này trong văn học Việt Nam trung đại.2

- Văn học Việt Nam trung đại: “Văn học Việt Nam trung đại”, hay còn gọi
là “văn học cổ Việt Nam”, “văn học Việt Nam thời kì sử dụng chữ Hán và chữ
Nơm”, “văn học viết Việt Nam thế kỉ X - XIX”,… có một số đặc trưng cơ bản như:
Là sản phẩm của thời kì nguyên hợp Văn - Sử - Triết bất phân thể hiện ở việc khái
niệm “văn” được hiểu một cách khá rộng rãi, “Tư tưởng kinh điển và tôn giáo đã
cung cấp cảm hứng, đề tài, chủ đề và gợi ý các thể loại cho văn học trung đại” [168,
tr.66], tính chất ước lệ gắn với việc sùng cổ, sử dụng điển tích điển cố, đội ngũ sáng
tác chủ yếu là tăng lữ, quý tộc và nhà nho, sáng tác bằng chữ Hán và chữ Nôm, kéo
dài từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của văn học cổ Trung
Quốc và có mối quan hệ qua lại với văn học dân gian Việt Nam.
1.2. Một số vấn đề về phụ nữ dƣới ảnh hƣởng của đạo đức Nho giáo trong lịch
sử Trung Quốc và Việt Nam
1.2.1. Một số vấn đề về phụ nữ dưới ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo trong lịch
sử Trung Quốc
Trong lịch sử Trung Quốc, vấn đề khắc phục bản năng tình dục, khẳng định
sự vượt trội và thống trị của nam giới với nữ giới, ý nghĩa của mối quan hệ giữa
Trung, Hiếu, Trinh là một mối quan tâm kéo dài qua nhiều thời đại. Hàn Phi Tử
(281 TCN - 233 TCN), đại diện tiêu biểu của Pháp gia từng viết trong Thiên Trung
hiếu: “Thần nghe nói: “Tơi thờ vua, con thờ cha, vợ thờ chồng, ba việc đó thuận thì
thiên hạ trị n. Đó là cái đạo bất biến của thiên hạ. Vị vua sáng, bầy tôi hiền khơng
thể thay đổi được nó” [133, tr.574]. Trong thời Chiến quốc, Khổng Tử (551 TCN 479 TCN) tuy chưa nói nhiều đến việc ngăn ngừa người phụ nữ tái giá hay cổ vũ họ
tự tận theo chồng nhưng ơng có khá nhiều lần phát ngôn xem thường phụ nữ như:
“Duy nữ tử dữ tiểu nhân nan vi dưỡng dã, cận chi tắc bất tốn, viễn chi tắc oán (Chỉ

2

Trong Luận án của chúng tơi, “liệt nữ 烈女” khơng phải có chú chữ Hán đi kèm như “liệt nữ 列

女”.


10


có đàn bà và tiểu nhân là khó ni thơi. Gần thì chúng nhờn, xa thì chúng ốn )”3.
Kinh Lễ có ghi lại chuyện Tử Tư khóc vì khơng được tổ chức lễ tang cho người mẹ
của mình do bà đã tái giá. Cũng trong Kinh Lễ, những ngăn ngừa, giới hạn trong
ứng xử, giao tiếp, quan hệ nam nữ đã được ghi lại, trở thành khn mẫu cho mấy
nghìn năm sau: “Người nam và người nữ, không được phép ngồi chung hỗn độn,
quần áo không được treo chung trên cùng một giá treo áo; từng mỗi người tự có
khăn lược của riêng mình, khơng được phép dùng lẫn lộn; đưa đồ vật cũng khơng
được phép chính tay chuyền cho. (…) Giữa người con trai và con gái, nếu như chưa
có thơng qua mai mối của người trung gian, khơng được phép tự ý riêng tư trao đổi
tên tuổi cho nhau” [127, tr.337 - 338]. “Lễ kí - Giao đặc sinh nói: “Tín là đức hạnh
của phụ nữ. Một khi đã sánh đơi với người thì trọn đời khơng thay đổi, nên chồng
chết thì khơng lấy chồng khác” [138, tr.184 - 185]. Thực ra, những quan niệm này
có nguồn gốc sâu xa từ tác phẩm triết học lâu đời bậc nhất của Trung Quốc - Kinh
Dịch. Kinh Dịch quan niệm “Nhất âm nhất dương chi vị đạo (Một âm một dương
gọi là đạo)” [98, tr.451] và cũng trong Kinh Dịch, quan niệm “Phụ nhân trinh cát,
tùng nhất nhi chung dã” (Người đàn bà mà chính chuyên, ấy tốt: Theo một chồng
cho trọn đời)” [Dẫn theo: 229, tr.156 - 157] đã được nhấn mạnh. Theo kinh điển
Nho gia, “Quân tử chi đạo, tạo đoan hồ phu phụ; cập kì chí dã, sát hồ thiên địa (…)
Đạo người quân tử khởi đầu mối từ vợ chồng; đến chỗ cùng cực của đạo ấy thì thấu
triệt trời đất” (Tử Tư) [215, tr.1254 - 1255]. Sự “tu thân” mà Nho giáo quy định “từ
thiên tử cho tới thứ dân” là nhằm phục vụ cho mục đích chính trị (Đức trị - Nhân trị)
và nhuốm màu sắc tôn giáo (Thiên nhân cảm ứng). Việc tu thân được nhà nho đề
cao bởi nó có ý nghĩa to lớn về mặt chính trị. Trong Luận ngữ, Hữu tử nói: “Kì vi
nhân dã hiếu đễ nhi hiếu phạm thượng giả tiển hĩ. Bất hiếu phạm thượng nhi hiếu
tác loạn giả vị chi hữu dã (…)” (Là người hiếu đễ mà thích phạm thượng thì thật ít
thấy. Đã là người khơng thích phạm thượng mà thích làm loạn thực chưa từng có
(…)”4. Nhân vật liệt nữ ra đời trong bối cảnh văn hóa Nho giáo đó và có một ý


3
4

Phạm Văn Khoái (2004), Khổng phu tử và "Luận ngữ", NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.370.
Phạm Văn Khối (2004), Khổng phu tử và "Luận ngữ", TLĐD, tr.184.

11


nghĩa nhất định trong việc khẳng định sự tồn tại của Hoàng quyền, Phụ quyền và
Nam quyền. Người phụ nữ giữ trinh tiết, thủy chung như nhất với chồng là nền tảng
cơ bản cho sự hiếu đễ của người con đối với cha và trên nữa là lòng trung thành của
bề tôi đối với vua trong mối quan hệ vua tôi, cha con, vợ chồng theo đạo Tam
cương. Nhà nho đề cao người liệt nữ là vì mục đích chính trị, đạo đức và tơn giáo
đó. Theo Vi Chính Thơng, việc coi con hiếu sẽ là tôi trung là biểu hiện của “phiếm
hiếu chủ nghĩa”, coi hiếu và trung là một và bề tôi đối với vua cũng như con đối với
cha, là sự phóng đại mơ hình gia đình thành mơ hình xã hội [Xem thêm: 191, tr. 101
- 106].
Đến Mạnh Tử (372 TCN - 289 TCN), học trò của Tử Tư (Khổng Cấp), vấn
đề hôn nhân nam nữ trở thành câu chuyện thừa tự, nối tông, coi chuyện khơng có
con trai nối dõi là tội lớn nhất trong ba tội bất hiếu. Do đó, Phùng Hữu Lan cho rằng
“[Theo nhà nho] mục đích chân chính của việc nam nữ giao hợp tức là sinh con (…),
ái tình và khối cảm khơng phải là hệ quả quan trọng, cho nên Nho gia cũng không
xem trọng” [90, tr.488]. Đến Đổng Trọng Thư (179 TCN - 104 TCN), kiến nghị
“bãi truất bách gia, độc tôn Nho học” cùng với sự phổ biến quan niệm “thiên nhân
tương ứng”, “âm ti dương tôn”, thuyết tam cương ngũ kỉ, thuyết tam tịng… do ơng
đề xướng đã một lần nữa hạ thấp vai trò của người phụ nữ. Theo Phùng Hữu Lan,
“Trong luân lí xã hội Trung Quốc, tam cương có ảnh hưởng rất mạnh. Theo kiến
giải truyền thống, khi đánh giá một kẻ nào, người ta chú trọng ba mặt trung - hiếu đại tiết của người đó (…). Một khi người đàn bà đã thất tiết (không trung thành với

chồng), thế là xong, khơng cịn gì để bàn luận nữa” [91, tr.41 - 43]. Lưu Hướng (77
TCN - 6 TCN) đời Hán viết Liệt nữ truyện 列女傳 để làm khuôn thước cho phụ nữ
theo chuẩn mực của đạo đức Nho giáo gồm 7 mục (“Mẫu nghi”, “Hiền minh”,
“Nhân trí”, “Trinh thuận”, “Tiết nghĩa”, “Biện thơng”, “Nghiệt bế”) với mục đích
ban đầu là “để răn thiên tử” [233, tr.36]. Thạch Phương cho rằng chính Liệt nữ
truyện của Lưu Hướng và Nữ giới của Ban Chiêu đã hình thành một thứ cương
thường ln lí trói buộc phụ nữ. Dù sao, theo Hoàng Anh, vấn đề “nam nữ có phân
biệt” ở đời Hán mới là một tín điều, tục lệ nhiều nơi vẫn cịn tương phản với tín
12


điều này; sang thời Ngụy - Tấn quan niệm “nam nữ cách biệt” mới thành phong tục
nhưng “phụ nữ thời Ngụy - Tấn vẫn có sự tự do nhất định, li hơn hay cải giá cịn
khá phổ biến, sự đề cao của triều đình với chuyện “trinh”, “liệt” cũng chưa đến mức
như sau này (…)” [234, tr.20]. Theo Thạch Phương, “sau thời Ngụy Tấn, người đề
xuất lí luận về trinh tiết của phụ nữ một cách khá hệ thống là Trương Hoa và Bùi Di,
cả hai người đều viết sách và đặt tên là Nữ sử châm (…) đại diện cho thái độ về việc
phụ nữ thủ tiết của sĩ đại phu suốt cả một thời đại phong kiến, có ảnh hưởng rất lớn
đến đời sau” [239, tr.189]. Khảo sát Thể lệ của Nhị thập ngũ sử do sử quan chính
thống Trung Quốc biên soạn, Thạch Phương nhận thấy Sử kí, Hán thư, Lương thư,
Nam sử, Ngũ đại sử khơng có đề mục Liệt nữ truyện. Thạch Phương lí giải: Sử kí,
Hán thư khơng có Liệt nữ truyện 列女傳 có thể là do tác giả “trong lúc biên soạn đã
không nghĩ đến điều này, mà đem truyện của mấy người phụ nữ xen cài vào các
truyện kí khác”, cịn sự vắng mặt của Liệt nữ truyện trong Lương thư, Nam sử, Ngũ
đại sử có thể do đây “đều là những thời kì động loạn và khơng ổn định” [239, tr.258
- 259], cịn lại khơng bộ sử nào thiếu vắng mảng ghi chép này. Đến Sơ Đường,
phong trào cải giá của phụ nữ vẫn khá thịnh hành. Hai mươi hoàng đế nhà Đường
có 211 cơng chúa thì trong đó “22 cơng chúa cải giá, số công chúa lấy chồng đến 3
lần là 4 người” [239, tr.245].
Trong bài viết “Luận Tống đại liệt nữ đích đặc chất”, Lí Hiểu Yên cho biết

“Liệt nữ 列女 đời Tống cũng giống như những người phụ nữ từng được đưa vào
chính sử, phải giữ đạo làm vợ, đầy đủ các nết tốt như hiếu thuận và trinh tiết” [236,
tr.13], “đặc điểm quan trọng trước hết của liệt nữ 列女 là “tòng phu” một cách mù
quáng” [236, tr.14]. Chính vì thế mà trong đời Hán có những phụ nữ khơng cần
phải có trinh hiếu mới được ghi vào chính sử thì “Trong Tống sử khơng những
khơng có người phụ nữ nào lấy chồng nhiều lần được ghi lại mà ngay những người
được ghi lại cũng “thủ tiết tuẫn phu” một cách mù quáng hơn so với phụ nữ các
triều đại trước, do đó mà cũng trở thành mẫu mực của đạo đức chính thống” [236,
tr.14]. Đi tìm lí do cho hiện tượng này, khơng hẹn mà gặp, các nhà nghiên cứu đều
13


cho rằng nó chịu ảnh hưởng từ câu nói của Trình Di được thuật lại trong Hà Nam
Trình thị di thư: “Cải giá là thất tiết, nếu như cưới người thất tiết về làm vợ, thì
chính ta cũng thất tiết. (…) Chỉ vì đời sau sợ chết đói chết rét, nên mới có thuyết ấy.
Nhưng chết đói là việc rất nhỏ mà thất tiết là việc rất lớn” [239, tr.274], đồng thời
không quên lưu ý rằng đây là một “tiêu chuẩn kép”. Lí giải ham muốn xử nữ của
nam giới Trung Quốc thời cổ, Từ Quân - Dương Hải cho rằng đó là do ảnh hưởng
của thuyết dưỡng sinh phịng trung thuật của Đạo giáo và do quan niệm về trinh tiết
của Nho gia (Xem thêm: [138, tr.184 - 185]). Lí giải vấn đề này trong bối cảnh xã
hội đời Tống, Thạch Phương cho rằng còn một nguyên nhân nữa là do tác động của
các loại tiểu thuyết bút kí ngơn tình (Xem: [239, tr.278 - 281]). Sau những biến
động chính trị lớn, triều Ngun Mơng thống trị tồn Trung Quốc, nhưng với nền
tảng tinh thần là văn hóa du mục, lãnh đạo cấp cao của chính quyền khi ấy khơng
q coi trọng vấn đề này. Về mặt văn hóa, họ vẫn tiếp nhận tư tưởng Nho gia, lí học
Trình Chu nhưng “giữ lại một số tập tục vốn có của người Mông Cổ, như coi
thường quan niệm trinh tiết của người phụ nữ” [163, tr.234]. Sang đời Minh, hoàng
đế và hoàng hậu tự tay biên soạn sách Nữ giới để biểu dương sự trinh thuận của phụ
nữ. Theo ghi chép của Minh sử, lúc đó số phụ nữ chết để giữ tiết được ghi trong
thực lục và địa phương chí “có hơn vạn người” [163, tr.502], thậm chí, cũng trong

đời Minh, đã “dần xuất hiện các phương pháp chẩn đoán để kiểm tra xử nữ” [239,
tr.392]. Sách Cổ kim liệt nữ truyện 古今列女傳 của Giải Tấn (1369 - 1415) ra đời
trong thời kì này. Sự xuất hiện của phái tả Vương học giữa đời Minh với một số đại
diện như Vương Cấn, Lí Chí chủ trương cơng kích lí học Trình Chu, phủ nhận uy
quyền thánh hiền, cổ động nam nữ bình quyền, tự do hơn nhân... đến mức bị hãm
hại đến chết (Lí Chí) chỉ là những tiếng nói nhỏ nhoi và yếu ớt. Đến đời Thanh,
trong Thanh sử cảo, số lượng trinh nữ liệt phụ kể ra có tới cả vạn người, trong đó số
được đưa vào sử cũng tới 616 người. Cũng trong đời Thanh, việc sùng bái trinh tiết
lại đạt đến đỉnh cao, quan lại vì muốn lập thành tích về lễ giáo nên “tại các địa
phương nối nhau mọc lên các cơ sở từ thiện mang tên Toàn tiết đường, Thanh tiết
đường, Trinh tiết đường, Lập trinh đường, Sùng tiết đường, Bảo tiết cục… chuyên
14


dùng vào việc thu nhận và an trí những trinh nữ tiết phụ lập chí thủ tiết” [239, tr.421]
và chỉ những phụ nữ trên 30 tuổi mới được thu nhận vào đó, trong khi đời sống
cung đình của vua chúa lại cực kì hoang dâm, trụy lạc. Chính vì thế, Vi Chính
Thơng cho rằng, đặc điểm của đạo đức Nho gia là “không coi trọng số phận con
người trong cuộc sống đời thường (…), hiểu rất ít về cuộc sống con người” vì “một
trong những nguyên nhân chủ yếu là coi thường bản năng” [191, tr.153]. Nhà
nghiên cứu Dịch Trung Thiên, qua cơng trình Trung Quốc đích nam nhân dữ nữ
nhân, đã thẳng thắn chỉ ra rằng: “Trong xã hội truyền thống Trung Quốc, có người
phụ nữ nào mang đầy đủ những đặc trưng của nữ giới, xuất hiện trước mắt đàn ông
như một người phụ nữ thực thụ không? Xin thưa: Có. Nhưng đáng tiếc họ thường bị
gọi là “dâm phụ”. (…) Đương nhiên, có một kiểu nữ nhân xinh đẹp mà khơng sợ bị
chỉ trích, đó là “trinh liệt nữ”. (…) Cho nên những quả phụ muốn lập chí thủ tiết chỉ
có hai con đường: Làm sao thật sớm tự sát là tốt nhất hoặc phải cố gắng làm cho
mình trở nên xấu xí, tốt nhất hãy qn rằng mình là phụ nữ. Bởi vì đối với một quả
phụ, nhất là quả phụ cịn trẻ, cám dỗ khó chế ngự nhất là cám dỗ về mặt tình dục, sự
thử thách gian nan nhất là thử thách về mặt tình dục mà vấn đề tình u, tình dục lại

có liên quan đến nhan sắc, dung mạo, nghi biểu (…). Quả phụ khơng có đàn ơng
che chở, rất dễ bị lừa phỉnh; quả phụ đã từng có kinh nghiệm tình dục, rất dễ bị dụ
dỗ” [241, tr.62 - 65]. Đây là một phát hiện thú vị về “trinh liệt nữ”, những người lâu
nay vẫn được coi là cứng cỏi, khí phách. Luận điểm này có ý nghĩa gợi dẫn rất quan
trọng khi đánh giá hành vi của các liệt nữ trong lịch sử cũng như trong sáng tác văn
học.
1.2.2. Một số vấn đề về phụ nữ dưới ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo trong lịch
sử Việt Nam
Du nhập từ Trung Quốc vào nước ta từ thời Bắc thuộc, Nho giáo có một
q trình hịa nhập khá gian trn để trở thành một bộ phận quan trọng của văn hóa
truyền thống Việt Nam. Sự thâm nhập của Nho giáo vào cuộc sống thường ngày, trở
thành phong tục, tập quán có lẽ chưa trở nên phổ biến trong những năm tháng Bắc
thuộc. Chính vì thế, khi viết về giai đoạn lịch sử này, các nhà nho Đại Việt đã cất
15


cơng lục tìm cho ra câu chuyện năm 767 “vua nhà Đường hạ chiếu nêu khen người
đàn bà tiết nghĩa ở Giao Châu là Kim thị” [155, tr.180] trong Liệt nữ truyện [列 女
傳] của Đường thư. Cho tới khi Nho giáo đã thâm nhập đến một mức độ nhất định,
đời sống văn hóa Đại Việt vẫn lưu hành những câu chuyện mang màu sắc “phi
Nho” như việc “Long Quân cướp người vợ yêu của Đế Lai là Âu Cơ” được ghi
trong Đại Việt sử kí Tiền biên (Xem: [160, tr.46]). Mãi tới năm 1040 trong sử sách
mới xuất hiện Mị Ê như là liệt nữ đầu tiên, trong hình dung của nhà nho, nhưng Mị
Ê lại có nguồn gốc Chiêm Thành. Do vậy, trong đời sống thường ngày, thời Lí Trần vẫn bị các sử thần đời sau coi là cịn tồn tại một cách vững chãi “những thói
q kệch” [155, tr.825]. Sau sự kiện Mị Ê gần một thế kỉ, đến năm 1113, phu nhân
của Thành Khánh hầu là Hà thị uống thuốc độc chết theo chồng mới là trường hợp
hiếm hoi tiếp theo. Những chuyện thể hiện sự lệch chuẩn so với các quy định về
trinh tiết theo quan điểm Nho giáo vẫn xuất hiện khá nhiều dưới thời Trần: Trần Thị
Dung lấy Trần Thủ Độ, Trần Thái Tơng đem Lí Chiêu hồng “thưởng” cho Lê Phụ
Trần, Trần Quốc Tuấn “cướp” Thiên Thành công chúa của Trung Thành vương,…

Sự lên ngôi của nhà Hồ (1400) đánh dấu một bước sự xác lập vị thế vững chắc của
Nho giáo tại Đại Việt nhưng triều đại này quá đoản mệnh.
Đến triều Hậu Lê, theo những ghi chép của chính sử, việc nêu khen những
người tiết nghĩa, trinh liệt đã trở thành một việc làm khá phổ biến và thường xuyên.
Tháng 3 năm 1437, “nêu biển biểu dương liệt nữ Lê thị (...) tên là Liễn, người làng
Phúc Lâm, lộ Quốc Oai trung, là vợ của Túc vệ Lương Thiên Tích đời Hồ, có nhan
sắc, gố chồng sớm, khơng có con, thờ phụng nhà chồng, cúng lễ chồng đến khi
chết” [101, tr.337] 5. Đến năm 1441, triều đình làm theo kế của Nguyễn Thị Lộ
(thiếp của Nguyễn Trãi) “bắt giam hạng đàn bà ngỗ nghịch” [101, tr.350]. Cùng
năm đó, triều đình bức Thái phi Phạm Thị Nghiêu phải tự tử vì tội mưu dụ dỗ bọn
gian ác để tính việc phế lập (sau đó được tha nhưng lại đem lịng oán giận) và sử
sách không quên ghi thêm một tội rất quan trọng của người đàn bà này là “trước kia
5

Dưới triều Lê, đơn giản thế này đã được coi là “liệt nữ”.

16


bị viên nội quan nhà Minh là Mã Kì bắt đi. Đến khi trở về, không chịu giữ tiết” [101,
tr.351]. Bên cạnh đó là các sự kiện thể hiện sự Nho giáo hóa mạnh mẽ trên phương
diện chính lệnh, như việc cấm hát rí ren (lí liên) trước xa giá năm 1447; biểu dương
nghĩa phu, tiết phụ năm 1453; biểu dương tiết phụ vợ của Nguyễn Văn Điều năm
1456; ban phát Huấn dân đại cáo cho cả nước, từ phủ đến châu, huyện, mỗi nơi một
bản vào năm 1461; ban biển ngạch cho tiết phụ Nguyễn Thị Bồ ở xã Đại Hữu Lệ,
huyện Thanh Trì vào năm 1463; đơn đốc sửa đổi phong tục ở dân gian vào năm
1465; bắt đầu quy định nghi lễ hôn nhân giá thú vào ngày 23 tháng 12 năm 1478;
“sai sứ thần chia nhau đi đến các quận huyện trong nước biểu dương người tiết
nghĩa” [155, tr.1152] vào năm 1498; ban hành Huấn điều gồm 24 điều vào năm
14996… Thậm chí, đến tháng 8 năm 1499 vua Lê Hiến Tơng cịn xuống chiếu u

cầu từ thân vương đến dân chúng “không được lấy đàn bà con gái Chiêm Thành làm
vợ, để cho phong tục được thuần hậu” [102, tr.17]. Trên con đường Nho giáo hóa,
nhà Hậu Lê đã tiến những bước khá dài so với các triều đại Ngô - Đinh - Tiền Lê Lí - Trần - Hồ trước đó dù trên thực tế, những người đứng đầu chính quyền thời Lê
sơ cũng hiếm khi “gương mẫu” trong việc thực hành các chuẩn mực đạo lí do mình
đề ra và u cầu thần dân tuân thủ. Cổ tâm bách vịnh của Lê Thánh Tơng khơng nói
nhiều đến các tiết phụ, liệt nữ mà chê Thạch Sùng “bng thả phóng túng tham dục
đến cùng cực” (cùng lạc dục) trong bài Tử Trạch; chê Tùy Dạng Đế “bng thả
lịng tham dục” (túng dục) trong bài Giang Đơ; gọi Dương Q Phi là “u khí”
(u khí tẩy nan tiêu) trong bài Hoa Thanh trì…7. Trong Hồng Đức quốc âm thi tập,
ông làm thơ đề vịnh Mị Ê (Vịnh Mị Ê), Vũ Thị Thiết (Hoàng giang điếu Vũ nương,
Lại bài viếng Vũ thị) với cảm hứng ngợi ca, cảm thơng rất rõ, thậm chí bài Vịnh
nàng Điêu Thuyền của ông cũng rất trung hậu. Đến Đặng Minh Khiêm (1456 6

Trong 24 điều đó: "16. Khi chèo hát, lúc hội hè, trai gái đến chơi xem, không được đứng ngồi lẫn
lộn để ngăn ngừa thói dâm ơ. 17. Nhà cửa, hàng quán ở dọc đường, nếu có phụ nữ đi xa vào ngủ trọ,
thì cửa ngõ phải đề phòng cẩn mật; nếu người nào dám lấy sức khỏe làm việc ơ nhục, khi việc phát
giác, thì người can phạm và chủ nhà đều phải trị tội. 18. Các viên phủ, huyện đều chiểu theo địa
phận sở tại, cắm thẻ bài răn chặn trai gái không được tắm cùng một bến, để tỏ rõ sự phận biệt về lễ
phép” [155, tr.1161 - 1164].
7
Xem thêm: Lê Thánh Tông (2000), Cổ tâm bách vịnh, Mai Xuân Hải biên khảo, dịch thuật, chú
giải, NXB Văn học - Trung tâm Văn hóa Ngơn ngữ Đông Tây, Hà Nội.

17


1522), tác giả Thốt Hiên vịnh sử thi tập, ơng chê bai việc Lí Chiêu hồng “khơng
giữ gìn khí tiết ở Trường Mơn, Lại vì Văn hồng mà thưởng cho Phụ Trần” (bất thủ
Trường Mơn tiết, Cánh vị Văn hồng thưởng Phụ Trần) [207, tr.562], khuyến cáo
Huyền Trân trên đường từ Chiêm Thành trở về Đại Việt “Xin đừng có đi qua dưới

đền Mị Ê” (Mị Ê từ hạ mạc kinh qua) [207, tr.565]. Trong thực tế, những cố gắng
đó tuy không phải là đơn độc nhưng cũng rất nhỏ nhoi của người đứng đầu chính
quyền và đám văn thần trong một xã hội mà cho đến năm 1501, khi vua Lê Hiến
Tông ngự về Tây Kinh đã phải ban lệnh “cấm các quan theo hầu không được sai
quân cơ chở đem vợ con hoặc kĩ nữ đi theo, bừa bãi tình dục” [102, tr.25].
Trong lịch sử nhà Hậu Lê, một trong những đợt “thử lửa” khốc liệt nhất đối
với nho phong, sĩ khí chính là việc Mạc Đăng Dung từ chỗ bức hiếp vua Lê Chiêu
Tông đem về kinh đô (1525) để giết (1526) rồi đến bắt vua Lê Cung Hồng nhường
ngơi cho mình vào năm 1527. Quanh sự kiện này, sử sách ghi lại “có đến hơn mười
người tử tiết” [156, tr.94 - 95] như Nguyễn Thái Bạt, Lê Tuấn Mậu, Đàm Thận
Huy… Tuy sự tử tiết của họ cùng sự khẳng khái của những người như Lại bộ
Thượng thư Trương Phu Duyệt không thấm vào đâu so với số đơng tùy thời cịn lại
và khơng cứu vãn nổi một nhà Lê đã dần tàn lụi cũng như không cản được bước tiến
mạnh mẽ của Mạc Đăng Dung nhưng đã thể hiện phần nào phong khí của một
vương triều. Khơng phải khơng có căn do khi Mạc Đăng Dung mới lên ngơi làm
việc gì cũng noi theo chế độ của triều Lê, “vỗ về một cách giả tạo để trấn áp lòng
người; nào sửa chữa đền miếu nhà Lê cũ, cúng tế theo tuần tiết bốn mùa, nào truy
phong thêm cho các bầy tôi tiết nghĩa nhà Lê như bọn Vũ Duệ và Đàm Thận
Huy...” [156, tr.99]. Cùng giai đoạn này, bắt đầu với mạch quan niệm địa linh nhân
kiệt, Dương Văn An (1514 - 1591) đã viết Ô châu cận lục (1553 - 1555) để nói về
phong tục của đất Ơ châu (phía nam Quảng Trị và toàn bộ tỉnh Thừa Thiên - Huế
ngày nay). Trong tác phẩm mang tính tự hào vùng miền như để “khoe” với đất kinh
kì, Dương Văn An quan niệm “chép truyện một người con gái trinh khiết mà cũng
chép cả chuyện bạc tục dâm phong là để treo tấm gương tốt xấu” [1, tr.22] và dành
riêng một mục “Tiết phụ” để viết về Thị Lễ, Đỗ Thị Tổng, Trần Thị Hồng, Phạm thị.
18


Bên cạnh đó ơng cũng ghi lại khơng ít chuyện thể hiện sự li tâm so với ảnh hưởng
của văn hóa Nho giáo như “Đi gặt th thì lây thói trong dâu. Đi kiếm cá thì bày trị

trên Bộc. Dân An Lai huyện Khang Lộc vẫn còn giữ tục dâm phong. (…) Dân Hồi
Tài, Tân Nộn và Đan Lương thì quá nửa có thói mây mưa” [1, tr.42] hay những
chuyện “cưỡng dâm”, “loạn luân”, “dâm loạn”, “gian dâm”, “phố hoa ngang dọc”,
“lầu Tần quán Sở”… Dương Văn An ghi lại cả chuyện về Tứ vị thánh nương và xác
nhận đây là thần bảo hộ cho người đi biển, phàn nàn rằng “thổ dân vì khơng biết
nên đem những lễ vật không được tinh khiết đến cúng thần” [1, tr.97]. Đến khi nhà
Mạc bị dồn lên Cao Bằng (1592) và họ Trịnh tham gia vào chính quyền để hình
thành nên mơ hình vua Lê - chúa Trịnh sau sự kiện Trịnh Tùng được phong Đơ
ngun súy Tổng quốc chính Thượng phụ Bình An vương (1599) dưới triều Lê Thế
Tơng, lịch sử Đại Việt đã bước sang một giai đoạn mới mà ở đó vấn đề phong hóa
lại một lần nữa trở thành “điểm nóng”.
Trong thực tế lịch sử Việt Nam thời qn chủ chun chế, ln có một độ
vênh nhất định giữa phát ngôn và hành xử của giới cầm quyền về vấn đề phong hóa,
nhất là những giai đoạn mà xã hội vừa trải qua loạn lạc. Sau sự kiện Mạc Đăng
Dung cướp ngôi nhà Lê (1527) một thế kỉ và sau thời điểm Trịnh Tùng được phong
Bình An vương (1599) khoảng 30 năm, vào năm 1629, Trịnh Tráng gả Trịnh Thị
Ngọc Hành cho vua Lê Thần Tơng8. Nhìn vào lịch sử Việt Nam giai đoạn này, dễ
thấy một khoảng trống mênh mông của các sự kiện liên quan đến xiển dương phong
hóa, tinh biểu tiết nghĩa từ phía triều đình. Đến tháng 10 năm 1663, dưới thời Lê
Huyền Tơng, triều đình ra lệnh cấm đạo Hoa Lang một phần vì “trường giảng đạo
người ở hỗn tạp, trai gái khơng phân biệt” [102, tr.265] và trước đó 3 tháng, vào
tháng 7 năm 1663, đã chính thức nhắc lại 47 điều giáo hóa dạy đạo làm tơi, làm con,
đạo anh em, vợ chồng, thầy trị… trong đó “đàn bà chồng chết không con được
chuyển riêng của cải đi, (…) trai gái khơng được bừa bãi thói dâm” để ban ra khắp
chốn, “cứ đến ngày có việc làng thì hội họp đàn ông, đàn bà, người già, người trẻ
8

Lê Trụ (bác họ của Lê Thần Tông) mưu toan làm việc bạn nghịch nên bị bắt giam trong ngục.
Ngọc Hành (là vợ của Lê Trụ, con gái của Trịnh Tráng) khi đó đã có với Lê Trụ bốn mặt con
nhưng Trịnh Tráng vẫn bắt Thần Tơng phải lập làm hồng hậu.


19


đến giảng giải hiểu thị, để được tai mắt thấm nhuần, biết sự khuyên răn” [102,
tr.264 - 265]. Việc sử gia bình luận “Từ đây lịng người dần dần theo về tục thiện”
[102, tr. 265] không cho biết hiệu quả thực sự của chiếu lệnh kia nhưng lại thể hiện
một sự thực: Trước thời điểm dân chúng được “ôn tập” lại những điều răn này thì
phong hóa của xã hội, theo quan sát của nhà nho, thực sự có vấn đề. Sau đó vài năm,
đến năm 1666, triều Lê Trung Hưng tun dương 13 người bầy tơi tử tiết trong
chính biến Mạc Đăng Dung, một sự truy phong khá muộn màng nếu như so với
công lao của họ cũng như so với việc truy phong của nhà Mạc đối với các nhân vật
này ngay trong năm 1527. Đến năm 1674 triều đình ban lệnh chỉ răn dạy các chức ti
trong đó có việc “những người vợ tiết nghĩa, con hiếu thảo cũng nên chuyển đạt lên
để nêu khen cho phong tục thuần hậu” [102, tr.292 - 293]. Kể từ khi nhà Lê ban
biển biểu dương liệt nữ Lê Thị Liễn (1437), thì đến sự kiện nhà Lê trung hưng “biểu
dương tiết phụ đã mất là Lê thị (...) là thiếp của Triệu Nghĩa công” [221, tr.27] vào
năm 1684, lịch sử đã phải chờ đợi tới hơn 250 năm. Sau đó là sự kiện triều đình nêu
khen Phan thị vợ bé Đinh Nho Hoàn vào năm 1717. Nối tiếp các sự kiện trên là việc
triều đình ban bố giáo điều gồm 10 điều cho khắp trong kinh ngoài trấn vào năm
1720, phong Trinh tiết lệnh nhân và ban bảng vàng “Tiết phụ” cho Nguyễn thị vợ
Nguyễn Mậu Khôi vào năm 1772. Cho đến nửa trước thế kỉ XVIII, việc triều đình
biểu dương những người tiết nghĩa chống giặc đến cùng như Hồng Sĩ Châu,
Nguyễn Hưng Vượng,… (1740) có một ý nghĩa khá quan trọng. Khi ghi lại sự kiện
này, Cương mục khơng bình luận gì thêm nhưng dưới triều Lê, tác giả của Đại Việt
sử kí Tục biên đã nhận xét: “Do đó người ta đều biết coi tiết nghĩa là trọng” [221,
tr.164]. Cũng như sự kiện năm 1663, không rõ có phải do triều đình biểu dương
những người tiết nghĩa mà “người ta đều biết coi tiết nghĩa là trọng” hay khơng
nhưng bình luận này của sử quan đã ngầm ẩn một thông điệp: Sau chỉ lệnh tháng 7
năm 1633 đến cả thế kỉ, phong hóa vẫn khơng phải là vấn đề được quan tâm và

“ứng dụng sâu rộng” vào đời sống như mong muốn của giới cầm quyền. Trong
phong khí đó, tới tháng 9 năm 1754, triều đình lại ra lệnh cấm đạo Thiên Chúa. Sự
kiện Nguyễn Huệ triệu tập cựu thần văn võ nhà Lê ép bảo họ khuyên mời ông lên
20


×