Tải bản đầy đủ (.pdf) (221 trang)

(Luận án tiến sĩ) điển cố với các đặc trưng ngôn ngữ và nội hàm văn hoá của chúng luận án TS lý luận ngôn ngữ 5 04 08

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (39.13 MB, 221 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Nguyễn Văn Chiến

BIỂK CỐ VỚI CÁC DẶC TRƯNG NGƠN NGỮ VÀ
m

NỘI HÀN VĂN HĨA CỦA CHÚNG

,

(Trên cứ liệu điển cô Nga, Anh Việt)

C h u y ê n n g à n h : L ĩ lu ậ n n g ô n n g ữ

Mã số: ỹ.04.08

LUẬN Á N
T IẾ N S Ĩ N G Ữ VÃN

Người hướng dẫn khoa học:
GS. TS. NGUYỄN THIỆN GIÁP

Hà Nội - 2002


3

MỤC Lgc


Trang
TRANG PHỤ B ÌA ............................................................................................................. 1
LỊI CAM ĐOAN.............................................................................................................. 2
MỤC L Ụ C ............................................................................................................................3
MỞ Đ Ầ U ..............................................................................................................................5
0.1.
0.2.
0.3.
0.4.
0.5.
0.6.
0.7.
0.8.

Giới thiệu luận á n .................................................................................................. 5
Khái quát về hiện trạng nghiên cứu đề tài..........................................................5
Mục đích của Luận án......................................................................................... 10
ý nghĩa của đề tài.................................................................................................. 11
Phạm vi của Luận án......................................................................................... 11
Phương pháp của Luận án................................................................................ 11
Đóng góp của Luận án.........................................................................................12
Cấu trúc của Luận án.........................................................................................12

Chương I XÁC ĐỊNH KHÁI NIỆM ĐlỂN c ố ........................................................... 13
1.1.
1.2.
1.3.
1.4.
1.5.
1.6.


Định nghĩa điển c ố ............................................................................................... 13
Mối tương quan
giữa điển cố và thành ngữ....................................... 28
Mối tương quan
giữa điển cố và tục ngữ............................................35
Mối tương quan
giữa điển cố với cách ngôn và danh ngôn.............37
Điển cố trong tiếng Anh......................................................................................38
Điển cố trong tiếng Nga..................................................................................... 51

1.7. Bảng tổng kết thành ngữ, tục ngữ, điển cố tiếng Việt về ngữ nghĩa và
ngữ pháp.............................................................................................................................58
1.8. Bảng tổng kết thành ngữ, tục ngữ, điển cố tiếng Nga, tiếng Anh về ngữ
nghĩa và ngữ p h á p .................................................................................................................63
Tiểu kết..........................................................................................................................66
Chương II ĐẶC TRUNG NGỒN NGỬCỦA ĐlỂN c ố ................................................ 69
2.1. Cấu trúc cú pháp của điển cố..............................................................................70
2.1.1. Điển cố có thành phẩn từ đơn.................................................................... 70
2.1.2 Điển cố có thành phần từ ghép.................................................................... 78
2.1.3. Điển cố có thành phần từ đơn và từ phức trong tiếng Anh và tiếng
Nga................................................ *................................................................................ . .... 81
2.1.4. Điển cố có thành phần cụm t ừ ................................................................. 87
2.1.5. Điển cố có thành phần câu......................................................................110
2.1.5.1. Nhận xét khái qt về câu tiếng Việt..........................................110
2.1.5.2. Điển cơ' tiếng Việt có thành phần câu.........................................113
2.1.5.3. Điển cố tiếng Anh, tiếng Nga có thành phần câu..................... 115


4

2.2. Khái quát về cấu trúc ngữ nghĩa của điển cố.....................................................123
2.3.An dụ, phúng dụ và hoán dụ với tư cách các phương tiện tu từ ngữ nghía cua
điển c ố .......................................................................................................................................129
Tiểu kết........................................................................................................................ 138
Chương m NỘI DUNG VÃN HOÁ CỦA ĐlỂN c ố ..................................................... 141
3.1. Khái quát về nội dung văn hoá......................................................................... 141
3.2. Nguồn gốc của điển cố...................................................................................... 142
3.2.1. Nguồn gốc điển cố tiếng Việt xét về mặt ngữ nghĩa:.............................142
3.2.2. Nguồn gốc điển cố tiếng Anh, tiếng Nga xét về mặt ngữ nghĩa:........ 146
3.3. Điển cố nguyên gốc........................................................................................... 154
3.3.1. Xác định điển cố nguyên gốc.................................................................... 154
3.3.2. Nguồn sinh thành và một số đặc điểm của các điển cố nguyên gốc: 155
3.3.3. Việc khảo sát điển cố nguyên gốc............................................................ 164
3.4.Xác định khái niệm văn hoá.............................................................................. 164
3.5.
Điển cố với tư cách một đối tượng khảo sát của ngơn ngữ văn hố học. 168
3.6. Ngữ nghĩa của cấu trúc văn hoá khúc xạ qua điển cố...................................170
3.7. Vai trị của ngơn ngữ và ngơn ngữ điển cố trong văn hoá........................... 183
3.8. Điển cố và ý nghĩa hàm ẩn văn hoá của chúng.............................................. 188
Tiểu kết........................................................................................................................ 193
KẾT LUẬN....................................................................................................................... 197
DANH MỤC CƠNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ......................................................... 203
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................205
1. Tiếng Việt............................................................................................................ 205
2. Tiếng A nh............................................................................................................ 214
3. Tiếng N g a ............................................................................................................ 217


5


MỞ ĐÂCI
0.1. GIỚI THIỆU LUẬN ÁN

0.1.1. Điển cố được sử dụng không chỉ trong các vãn bản Hán văn cổ với tư cách
một biện pháp tu từ bên cạnh vần điệu, đối ngẫu mà cả trong các ngôn bản hiện đại.
Ngày nay điển cố khơng cịn là tài sản riêng của vãn học mà đã được dẫn ra trong các
tài liệu chính trị - xã hội, triết học, kinh tế, v.v... Ngôn ngữ hàng ngày cũng không xa lạ
với điển cố, chẳng hạn “Nỗi oan Thị Kính”, “chúa Chổm”, “Mạnh Thường Quân”,
“Maecenas”, “Harpagon”, “Sợi chỉ Ariadne”, v.v...
0.1.2.Trong khi thành ngữ, tục ngữ, cách ngôn được khảo sát nhiều ở mọi phương
diện cấu trúc, ngữ nghĩa, phong cách thì điển cố chỉ được bàn sơ sài, ngắn gọn trong
các chuyên khảo hay sách giáo khoa về từ vựng học. Nhu cầu dạy và học ngơn ngữ
hiện nay địi hỏi phải nghiên cứu các đơn vị điển cố ở các bình diện ngữ nghĩa, cấu trúc
nhằm phát hiện những đặc trưng ngổn ngữ cũng như nội dung văn hóa của chúng.
0.1.3. Đề tài “Điển cố với các đặc trưng ngôn ngữ nội hàm văn hóa cua chúng”
(trên cứ liệu điển cố Nga, Anh, Việt) được tiến hành nhằm thực hiện nghiên cứu bước
đầu về điển cố.
0.2. KHÁI QUÁT VẾ HIỆN TRẠNG NGHIÊN

cứu ĐÊ TÀI.

0.2.1. Do điển cố có một số đặc điểm chung với thành ngữ về mặt cấu trúc và ngữ
nghĩa nên khi khảo sát thành ngữ, nhiều nhà nghiên cứu đã coi điển cố là một trong
những kiểu thành ngữ. Tuy nhiên, một số thành tựu nhất định đã đạt được trong phân
tích và tổng hợp những đặc điểm của điển cố cả ở Việt Nam lẫn ở Nga và Anh. Mĩ.
điều đó đã góp phần nhận diện các đặc trưng riêng biệt của điển cố.
0.2.2. Do tính hàm súc, cơ đọng ở mức độ rất cao, khả nâng kích thích liên tưởng
mạnh nên điển cố khơng chỉ được các nhà vãn, nhà thơ, nhà chính luận mà cả các
chính khách, nhà hoạt động xã hội, thậm chí nhà kinh tế sử dụng trong các tác phẩm
của mình.

0.2.3. Nếu chiết tự thuật ngữ điển cố (sự kiện trong sách kinh điển được người đời
dùng bám theo và câu chuyện, sự việc đời xưa) so với thuật ngữ Nga “ KpbưiaTbie


6
cjiOBa” (những cách diễn đạt sắc sảo, những trích đoạn, những từ ngữ ngắn gọn được

người ta sử dụng rộng rãi; dịch đúng theo cách nói của Homer: Lời nói có cánh), thuật
ngữ Anh “Allusions” (lời bóng gió ám chỉ); hoặc định nghĩa khoa học cho thuật ngữ
này là hàm chỉ gián tiếp bằng từ hay ngữ tới sự kiện lịch sử, văn học, thần thoại, Kinh
Thánh, hay tới sự kiện trong đời sống con người khi nói hay viết [140, 187], thì thấy có
sự khác biệt trong nhìn nhận điển cố: tiếng Việt nhấn mạnh tới sự cổ kính của cổ nhân
trong sáng tạo nên các tác phẩm hay trong đời sống vốn được rút trích ra làm thành
điển cố. Tiếng Anh và tiếng Nga không xét tới việc đó mà chỉ nói tới tính hàm chỉ của
những đơn vị điển cố vốn có nguồn gốc từ văn chương, lịch sử hoặc từ các cấu trúc văn
hóa khác.
0.2.4. Ở phương Tây, nhà ngôn ngữ học người Đức George Buchmann đã biên
soạn và cho ấn hành cuốn Từ điển điển cố đầu tiên vào năm 1864 với tiêu đề
“Geflugelte Worte” (Thuật ngữ tiếng Đức này là sao phỏng cụm từ tiếng c ổ Hi Lạp
“epea pteroenta” có nghĩa là những lời có cánh). Cơng trình này đã được tái bản hàng
chục lần và mở đầu một truyền thống nghiên cứu mới trong từ điển học ở nhiều nước.
0.2.5. Năm 1894, nhà văn, nhà nhân chủng học Nga MaKCHMOB c . B. xuất bản
cuốn “Kpbinarae cjiOBa” trong đó sưu tập những cụm từ ổn định được cơ định hóa có
nguồn gốc khác nhau.
Vào năm 1902, MHxejibcoH M. H. xuất bản cuốn sách “PyccKaH Mbicjib H peHB.
OribiT pyccKOH ộpa3eojioniH. Cboể H ny>Koe” (Tư tưởng và lời nói Nga. Thí nghiêm về
thành ngữ học tiếng Nga. Thuần Nga và ngoại lai). Trong sách này có mặt nhiều đơn vị
điển cố tiếng Nga và nước ngoài.
Nhưng cuốn sách đầy đủ hơn cả trong sưu tập điển cố và mang tính khoa học rõ
rệt nhất là cuốn “KpbiJiaTfeie cjiOBa” của AuiyKHH H. c . và AmyKHHa M. T. Lời dẫn in

trong cuốn này ngắn nhưng khá đầy đủ và chân xác về bản chất của các đơn vị điển cố
tiếng Nga và vay mượn từ các ngơn ngữ khác.
Bên cạnh đó, cần phải kể đến một số cuốn sách khác có giá trị lớn về nghiên cứu
điển cố:
“KpMJiaTLie cn o B a , HX npHCX0>KíieHHe H 3HaneHHe” (Đ iển cố, nguồn gốc và V
nghĩa của chúng) của HlHUiKHHa H. n . và 0HHKejibLUTeHH in năm 1972.


7
“CjiOBapb JiaTHHCKHX KptiJiaTBix

cjtob”

(Từ điển điển cố La tinh) của BaÕHHeB H.

T. và EopoBCKHÍi JI. M. in năm 1982.
“ C nO B apt HH05Ĩ3BIHHBIX Bbipa>K6HHH H CJIOB, ynOTpeỐJIHK)m.HXCH B pyCCKOM

5I3LIKC Ốe3 nepeBO^a” (Từ điển các thành ngữ và từ tiếng nước ngoài được sử dụng

nguyên gốc trong tiếng Nga) của EaÕHHeB A. M và IUeH/ỊenoB B. B. in năm 1966.
Có hai cuốn từ điển đã phát huy được truyền thống nghiên cứu và sử dụng được
kết quả khảo sát từ nhiều nguồn và thu thập được nhiều đơn vị điển cố thơng dụng và
đầy đủ, đồng thời mỗi cuốn đều có một bài dẫn nhập viết rất khoa học và công phu về
điển cố về nhiều phương diện. Đó là “Russian - English Dictionary of Winged Words”
của Walshe I. A. và Berkov K. p in năm 1984 và “Russisch - Deutsches Worterbuch
der Gefliigelte Worte” (Từ điển điển cố Nga - Đức) của Afonkin Iu.N.
0.2.6. Các tác giả Nga đã dành nhiều tâm sức nghiên cứu các đơn vị điển cố. Họ
đều thừa nhận đây là một trong những phương tiện tạo ra ngơn ngữ văn học có hình
ảnh và mang tính biểu cảm cao. Người Đức và người Nga đều dùng cách diễn đạt của

Homer trong “Odyssey” và “Iliad” “Lời có cánh” để truyền diễn khái niệm điển cố.
Trong hai tác phẩm này thường có những câu như “Chàng cất tiếng nói lời có cánh sau
đây”, “Họ khẽ khàng trao đổi với nhau những lời có cánh...” Homer và các nhà thơ c ổ
Hi Lạp thường tin rằng lời nói dường như bay từ miệng người này tới tai người khác.
Nhiều nhà nghiên cứu ở Nga và ở các nước khác ở châu Âu cũng đồng ý VỚI định
nghĩa của ArnyKHH H. c . và AuiyKHHa M. r . về điển cố: “Những trích đoạn ngắn gọn,
những ngữ mang hình ảnh, những câu nói súc tích của các nhân vật lịch sử, tên tuổi các
nhân vật huyền thoại và văn chương vốn đã trở thành danh từ chung, những đặc trưng
cô đọng mang tính hình tượng của các nhân vật lịch sử (như “Cha đẻ ngành hàng
không Nga”, “Vầng thái dương của thi ca Nga” vốn có nguồn gốc văn học và được sử
dụng trong ngôn ngữ” [183, 3].
Tuy nhiên, khái niệm “KpfeiJiaTLie cjioBa” đôi khi được hiểu ở nghĩa khá rộng.
Chẳng hạn có nhiều người coi thuật ngữ này ứng với ngạn ngữ hay bất cứ ngữ mang
hình tượng nào có nguồn gốc khơng chỉ từ văn học và cả trong đời sống hàng ngày như
phong tục, tín ngưỡng, thuật ngữ, từ nghề nghiệp, v.v...


8
Tuy có những dị biệt nhỏ nhưng do có những nét đồng nhất căn bản nên có thể
dùng thuật ngữ “điển cố” cho cả các thuật ngữ “KptmaTtie cji0Ba” và “Allusions” để
tạo được tiền đề nghiên cứu thuận lợi.
0.2.7. Trong ngơn ngữ học Anh, Mĩ, thì có lẽ cuốn sách đầu tiên thu thập một
cách có hệ thống và khoa học về điển cố là quyển “Dictionary of Phrase and Fable”
(Từ điển điển cố và điển tích) của E. Cobham Brewer ấn hành lần đầu tiên năm 1870.
Theo cách lí giải của tác giả thì cuốn sách này “cung cấp biến thể, nguồn gốc hay
nguyên bản của những điển cố phổ biến, những từ ngữ có tích truyện để kể” [131, V],
Tuy nhiên, bên cạnh những điển cố đích thực, trong từ điển này còn dẫn ra nhiều thành
ngữ, nhiều từ khó, từ cổ hay thuật ngữ chun mơn. Đây là cuốn từ điển được đánh giá
rất cao không chỉ trong giới khoa học mà cả đông đảo công chúng độc giả ở trên thế
giới.

Vấn đề điển cố tiếng Anh được bàn tới trong một số cơng trình vể từ vựng học và
ngữ nghĩa học như “Toward a Semantic Description of English” (Tiến tới một phép mô
tả tiếng Anh về ngữ nghĩa) của Leech G. N. in năm 1969, “A History of Foreign
Words in English” (Lịch sử các từ nước ngoài trong tiếng Anh) của Sergeantson M. in
nãm 1935, “Semantic: An Introduction to the Science of Meaning” (Ngữ nghĩa học:
Nhập môn khoa học về ý nghĩa) của Wilmann St. in năm 1962.
0.2.8. Không chỉ các nhà nghiên cứu Anh, MT mà cịn có nhiều nhà Anh ngữ học
ở Nga rất thành công trong việc khảo sát các đơn vị điển cố Anh như Arnold I. V. trong
cuốn “The English Word” (Từ tiếng Anh) in năm 1986, Galperin I. R. trong cuốn
“Stylistics” (Phong cách học) in năm 1977.
0.2.9. Việc nghiên cứu điển cố ở bình diện tu từ cũng đạt nhiều tiến bộ như trong
cuốn “Linguistic Stylistics” (Phong cách học ngôn ngữ học) của Enkvist K. in năm
1973, “Linguistics and Literature” (Ngôn ngữ học và văn học) của Chapman R. in nãm
1971, “Analogies, Icons and Images in Relation to Semantic Content of Discourses”
(Phép loại suy, các hình tượng, hình ảnh liên quan tới nội dung ngữ nghĩa của các diễn
ngôn) của Hill A. A. đãng trong tạp chí “Phong cách” tập 2 số 3 năm 1968.
Các tác giả Cowie A. p., Mackin R. và McCaig I. R. trong cuốn “Oxford
Dictionary of Englishh Idioms” cùng đưa ra những kiến giải lí thú, chính xác về điển
cố. Tuy nhiên, cũng như tác giả Kunin A. V. trong “English - Russian Phraseological


9
Dictionary”; Binowitsch L. E. và Grischin N. N. trong cuốn “Deutsch - Russisches
Phraseologisches Worterbuch” (Từ điển thành ngữ Đức - Nga), các tác giả này đều đưa
điển cố vào cùng phạm trù thành ngữ. Một nét tích cực và ưu việt của tất cả các tác giả
này là sự phân tích và khái quát khoa học về cấu trúc và ngữ nghĩa của điển cố thông
qua các khảo sát chung về thành ngữ.
Ngoài ra, ở Anh, đặc biệt là ở Mĩ đều ấn hành nhiều loại từ điển câu văn trích. Ví
dụ như “The Oxford Dictionary of Quotations” do Partington A. chủ biên. Cuốn này
trình bày các đơn vị trích dẫn theo tác giả (Anh, Mĩ và nước ngoài), cuốn “The Home

Book of Quotations” do Stevenson B. chọn và sắp xếp tỏ ra rất đặc biệt vì có thể tìm
thấy ở đây rất nhiều đơn vị mang đầy đủ các tiêu chuẩn về cấu trúc và ngữ nghĩa của
điển cố. Với 2817 trang trình bày các đon vị trích dẫn theo chủ đề, người đọc có thể
cập nhật được một khối lượng lớn và đa dạng các đơn vị rút ra từ văn học cổ điển và
văn học cận, hiện đại.
0.2.10. ở Việt Nam, cuốn “Hán Việt thành ngữ” của tác giả Bửu Cân xuất bản
năm 1932 đã sưu tập một số đơn vị điển cố. Năm 1942, Long Điển Nguyễn Văn Minh
đã cho xuất bản cuốn “Từ điển văn liệu”. Theo Nguyễn Văn Ngọc thì văn liệu ở đây
bao gồm “những thành ngữ từ hai đến bốn tiếng. Hạng hai tiếng nhiều hơn cả. Hầu hết
những thành ngữ ấy thuộc về phạm vi thơ phú, văn chương, hoặc toàn là Hán văn, hoặc
nửa Hán, nửa Nôm, hoặc Hán đã biến ra Nơm... Hoặc khi chép rộng thêm những điển
tích, nhiều nhất thuộc về sử liệu” [76, 5].
Như vậy, Nguyễn Văn Ngọc coi điển cố là thành ngữ.
Còn Trúc Hiên Triệu Hữu Lập, người hiệu đính sách này cho rằng khi viết văn
thơ thì phải có văn liệu, tức là phải dùng chữ, dùng điển ở trong Ngũ kinh, Tứ thư. Chư
sử, các chuyện nhằm phụ diễn ra thành vãn, thành thơ [76, 7], Có thể xác nhận đây là
một cơng trình rất nghiêm túc, có giá trị giúp người đọc hiểu được kho tàng điển cô'
hay dùng trong văn thơ cổ.
0.2.11. Năm 1977, cơng trình khá cơng phu và khoa học “Điển cố văn học” do
Đinh Gia Khánh chủ biên được ấn hành. Tiếp thu và phát triển thành tựu nghiên cứu
của các học giả đi trước, cuốn sách này tập trung khá đầy đủ các đơn vị điển cơ và có
tường giải, ví dụ chân xác và đầy đủ.


10
Những năm cuối thế kỷ 20, bạn đọc Việt Nam liên tục được tiếp nhận những
cuốn từ điển thu thập điển cố như “Ngữ liệu văn học” của Đặng Đức Siêu in nãm 1998,
“Từ điển điển cố văn học trong nhà trường” của Nguyễn Ngọc San và Đinh Văn Thiện
ấn hành năm 1998, “Từ điển từ ngữ tầm nguyên, c ổ vãn học. Từ ngữ và điển tích” của
Bửu Kế in năm 2000, trong số đó đáng kể hơn cả là cuốn “Từ ngữ điển cố văn học” của

Nguyễn Thạch Giang và Lữ Huy Nguyên xuất bản năm 1999.
0.2.12. Bên cạnh đó cịn có những cuốn sách khảo cứu và chú thích các điển cố,
điển tích trong Truyện Kiều như “Điển tích trong Truyện Kiều” của Trần Phương Hồ in
năm 1996, “Điển tích Truyện Kiều” của Nguyễn Tử Quang in năm 1998, “Từ điển
Truyện Kiều” của Đào Duy Anh xuất bản năm 1974. Tác giả Mộng Bình Sơn biên soạn
cuốn “Điển tích chọn lọc” và cho in năm 1989, đây là một tài liệu tham khảo về điển
cố, điển tích khá lí thú.
Ngồi ra, cịn có nhiều cuốn sách khác đặng giúp người đọc tìm biết nhiều kiến
thức về ngữ nghĩa và nội dung văn hóa của điển cố như “Từ điển giải thích thành ngữ
gốc Hán” của Viện Ngơn ngữ học in năm 1997, hoặc một số sách lịch sử Trung Hoa
được biên soạn gần đây như “Nhân vật Đơng Châu” của Nguyễn Tử Quana in năm
1996.
Những cơng trình nêu trên đều là từ điển, tuy vậy. một số bài dẫn luận viết rất
công phu và đã phác thảo ra nhiều mạt về nguồn gốc, ngữ nghĩa và đặc điểm phong
cách học của điển cố.
Song cho tới nay vẫn chưa có cơng trình nào nghiên cứu về điển cố với tư cách
một đơn vị sử dụng với mọi đặc trưng ngơn ngữ và nội dung văn hóa. Trong tình hình
như thế, nhu cầu khảo sát và tổng kết một số vấn đề cơ bản về điển cố tiếng Việt, tiếng
Nga, tiếng Anh là rất cần thiết cho việc học và dạy ngoại ngữ nói riêng và cho nghiên
cứu ngơn ngữ học nói chung.
0.3. MỤC ĐÍCH CỦA LUẬN ÁN.

Luận án này tập trung phân tích các đặc trưng ngơn ngữ của điển cố. Bèn cạnh
đó, nội dung văn hóa của điển cố được khảo sát trong mối quan hệ tương hỗ giữa ngơn
ngữ và văn hóa.


11
0.4. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI.


0.4.1. Ý nghĩa thực tiễn.
- Giúp cho người nghiên cứu ngôn ngữ và văn học nhận rõ bản chất của điển cố ở
bình diện ngơn ngữ và văn hóa.
- Cung cấp cho người Việt một định hướng cụ thể về điển cố có nguồn gốc nước
ngoài cũng như về điển cố Việt để hiểu và sử dụng đúng và hay.
- Làm cơ sở lí luận để biên soạn từ điển tường giải điển cô' hoặc từđiển điển

cơ'

song ngữ.
- Góp phần giảng dạy tốt hơn phần điển cố trong chương trình ngơn ngữ, phong
cách, và văn học ở phổ thơng và đại học.
0.4.2. Ý nghĩa lí luận.
- Đóng góp cho cơng tác nghiên cứu điển cố từ bình diện lí luận ngơn ngữ học và
văn hóa học.
- Nghiên cứu quan hệ kế cận giữa các khía cạnh ngơn ngữ, văn học, văn hóa của
điển cố với tư cách đơn vị sử dụng của ngôn ngữ.
- Phân tích và khái quát các đậc điểm cấu trúc, ngữ nghĩa và nguồn gốc của điển

0.5. PHẠM VI CỦA LUẬN ÁN.

Ngữ liệu điển cố được khảo sát thuộc ba nguồn: tiếng Việt, tiếng Anh. tiếng Nga.
Một số đơn vị điển cố nguyên gốc từ các tiếng khác cũng được dẫn ra để minh họa cho
các luận cứ. Luận án chỉ khn lại trong phán tích các đặc trưng ngơn ngữ cùng nội
dung văn hóa của điển cố Nga, Anh, Việt.
0.6. PHƯƠNG PH ÁP CỦA LUẬN ÁN.

Phương pháp mô tả là cơ bản nhằm mơ tả và phân tích các yếu tô cùng các bộ
phận trong cấu trúc ngôn ngữ cua điển cố. Mỗi yếu tố này sẽ được nghiên cứu ở cấp độ
hình thức và cấp độ ngữ nghĩa.



12
Phương pháp qui nạp, diễn dịch được sử dụng nhằm làm sáng tỏ các vấn đề lí
luận, với những đơn vị cụ thể chứng minh cho các luận điểm lí thuyết.
Một sô' yếu tô' của phương pháp định lượng, định tính được ứng dụng để góp phần
phân tích cấu trúc ngôn ngữ của các đơn vị điển cố về mặt ngữ nghĩa, ngữ pháp.
0.7. ĐỐNG GÓP CỦA LUẬN ÁN.

0.7.1. Luận án thực hiện nghiên cứu điển cố về mặt lí luận nhằm phát hiện ra
những đặc trưng ngôn ngữ của điển cố ở các bình diện ngữ nghĩa và ngữ pháp. Những
tiền đề lí thuyết của các nhà ngơn ngữ học Việt Nam, Nga, Anh và Mĩ được áp dụng
nhằm phân tích cấu trúc ngữ nghĩa, cấu trúc cú pháp của các đơn vị điển cố Việt, Anh
và Nga.
0.7.2. Lần đầu tiên, mối quan hệ giữa ngôn ngữ và nội dung văn hóa của điển cố
được tiếp cận và khảo sát từ góc độ ngữ nghĩa học và vãn hóa học.
0.7.3. Những đặc điểm cấu tạo điển cố ở cấp độ từ, ngữ và câu được phát hiện để
chứng minh điển cố là đơn vị sử dụng trong ngôn ngữ. Điển cố không phải là thành
ngữ, tục ngữ, ngạn ngữ.
0.7.4. Luận án góp phần làm rõ các yếu tố trong cấu trúc văn hóa được khúc xạ
trong ngữ nghĩa điển cố.
0.7.5. Những cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu điển cố được xác lập. Kết
quả luận án sẽ được ứng dụng trong công tác biên soạn chuyên khảo về điển cố, từ điển
điển cố ở hai bình diện: tường giải và đối chiếu song ngữ, đa ngữ.
0.8. CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN.

Luận án gồm phần Mở đầu, phần Kết luận và ba chương với cấu trúc như sau:
Mở đầu.
Chương Một: Xác định khái niệm điển cố.
Chương Hai: Đặc trưng ngôn ngữ của điển cố.

Chương Ba: Nội dung văn hóa của điển cố.
Kết luận.


13
Chương I

XÁC Đ|NH KHÁI NIỆM ĐIỂN cố
1.1. ĐỊNH NGHĨA ĐIỂN c ố

1.1.1. Sau khi không thắng nổi nước Âu Lạc trong cuộc tấn công năm 210 trước
Công nguyên, Triệu Đà rắp tâm xâm lược một lần nữa. Năm 207 trước CN, y bất ngờ
đem binh lính tập kích An Dương Vương và chiếm Âu Lạc rồi sáp nhập vào quận Nam
Hải của mình. Bắt đầu thời Bắc thuộc, một thời kv lịch sử nước ta bị các thế lực phong
kiến Trung Quốc đơ hộ. Cũng từ thời điểm đó, Nho giáo được truyền bá vào nước ta.
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Thuần [106, 39] có ba lí do khiến Nho giáo có thể
được tiếp nhận ở Việt Nam:
a) Việc truyền bá này mang tính chất lợi dung, đồng thời bộc lộ tính áp đặt từ
phía chính quyền đơ hộ của phong kiến Trung Quốc.
b) Nho giáo vào nước ta cũng do các hoạt động mang tính tự phát của nhiều Nho
gia thất thế từ Trung quốc bị đày ải hay di cư lánh nạn sang Việt Nam.
c) Bản thân Nho giáo, cũng như các hệ tư tưởng khác, luôn luôn vận động ảnh
hưởng tới các xứ sở lân cận.
1.1.2. Nho giáo vào Việt Nam thông qua tiếng Hán. Tuy nhiên hệ thống văn hóa
Việt Nam được truyền bá bằng Hán văn cổ và chữ Nôm. Hán văn cổ ở Việt Nam phần
nào thể hiện Hán ngữ cổ của các đời Đường, Tống, và có liên hệ chặt chẽ với Hán ngữ
trước Tần - Hán, Lê Trí Viễn nhận xét: “Trong tay sử dụng của người Việt Nam. nó
(Hán ngữ) không thể không tăng cường từ vựng, linh hoạt cú pháp, sáng tạo thêm
những cách diễn đạt mới, trở thành một thể Hán văn Việt Nam rất gần gũi tiếng Việt”
(120, 3]

1.1.3. Từ thế kỷ 10 vãn hóa Việt Nam có những bước tiến mới, thành tưu lớn nhất
lúc đó là sự xuất hiện chữ Nôm trên cơ sở vay mượn văn tự Hán. Chữ Nôm là một hệ
thống văn tự tiếng Việt có quy luật chắc chắn, chật chẽ, điều này được khảo cứu tỉ mi
trong các cơng trình của Dương Quảng Hàm, Trần Văn Giáp, Đào Duy Anh, Hoàng
Xuân Hãn, Bửu Cân, Lê Văn Quán, Nguyễn Tài cẩn, N. Xtankevits, Paul Schneider,
Yamamoto Tatsuro, v.v...


14
Tuy thời gian chính xác của sự xuất hiện chữ Nơm vẫn cịn là đề tài tranh luận,
song có một điều chắc chắn là chữ Nôm phải trải qua nhiều năm tháng để khẳng định
được sự tồn tại của mình. Theo nhiều nguồn sử liệu thì Hàn Thuyên là nhà thơ đầu tiên
viết bằng chữ Nôm vào thế kỷ 13. Nhiều nhà thơ, nhà văn khác đã sáng tác bằng chữ
Nôm như Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn
Du, v.v...
Từ các thế kỉ 12, 13, chữ Nôm là một loại văn tự được người Việt sử dụng. Chữ
Nơm được các trí thức phong kiến và bình dân sáng tạo trên cơ sở kiểu văn tự hình khối
Hán. Chữ Nơm đã có phần đóng góp rất tích cực vào viêc hình thành ngơn ngữ vãn hố
dân tộc. Các cơng trình nghiên cứu ngữ âm lịch sử đã cho rằng chữ Nôm thật sự trớ
thành hệ thống vãn tự chỉ sau thế kỉ 10.
1.1.4.

Các văn bản xưa đều được viết bằng chữ Hán hay chữ Nôm. Cũng theo Lê

Trí Viễn thì cả Hán văn cổ với tiếng Việt đều là những ngôn ngữ không biến dạng,
quan hệ ngữ pháp được biểu thị bằng trật tự từ và hư từ, đổng thời phương thức tư duy
có nhiều nét tương tự. Nhiều đơn vị từ vựng tiếng Hán đã được gia nhập vào tiếng Việt,
trở thành các yếu tố gốc (tức là yếu tố Hán Việt) để cấu tạo thêm những từ mới. Chính
những đặc điểm nói trên suốt hàng ngàn năm được tiến triển theo hướng càng khiến
Hán văn cổ được Việt hóa mạnh mẽ và sâu sắc hơn lên [120, 4].

Điểm nổi bật của các vãn bản Hán văn cổ thể hiện ở các tính ngắn gọn. súc tích
về ý nghĩa, hài hịa về âm thanh và cân đối ở câu chữ [120, 78], Các tác giả thường sử
dụng biện pháp tu từ cơ bản là vần điệu, đối ngẫu và điển cố. Vần điệu là phương cách
cấu thành văn bản dựa vào việc lặp lại các tiếng tại những vị trí xác định của dịng thơ
để tạo nên sự hài hòa nhịp nhàng và liên kết của các dịng thơ đó [51, 362]
Ví dụ. Thiên địa na dung tội ác nhân / Thị hà xá tội hữu hương thần /(Trời đất nào
dung tha kẻ ác / Thế thì tại sao lại có ngày lành tha tội) [62, 287],
Nói chung các bài thơ viết bằng Hán vãn ở nước ta trước đâv đều gieo vần ở cuối
dòng thơ, tức là vần chân, trừ các bài thơ theo thể lục bát và song thất lục bát mang vần

lưng[120, 79],
Đối ngẫu là sóng đơi và cân xứng, tương xứng với nhau có hai loại: Đối thanh và
đối ý.


15
Ví dụ: Lom khom dưới núi tiều vài chú / Lác đác bên sông chợ mấy nhà / Nhớ
nước đau lòng con quốc quốc / Thương nhà mỏi miệng cái gia gia (Bà huyện Thanh
Quan).
Như trên đã nói, khi sáng tác, các tác giả của các tác phẩm Hán văn cổ rất coi
trọng tính chất cơ đọng, súc tích, chặt chẽ, lời ít ý nhiều. Ngồi vần điệu và đối ngẫu
biện pháp tu từ thứ ba là điển cổ được áp dụng rất phổ biến.

1.1.5.

Điển là sự việc, sự kiện trong sách kinh điển mà người ta dùng bám theo

khi sáng tác văn thơ. Còn cố là sự kiện, là câu chuyện ngày xưa.
Ví dụ: Điển “Nếm


mật nằm gai” hay “Việt Vương nằm củi” hàm nghĩa can

trường chịu gian khổ để mưu tính việc lớn. Tích truyện kể vua Việt là Câu Tiễn bị quân
Ngô đánh bại ở Phù Tiên và phải cầu hòa. Khi về nước Việt Vương Câu Tiễn tự cày
bừa, vợ dệt vải, ăn uống kham khổ, chịu khó nhọc với trăm họ. Ngày đêm ơng lao tâm
khổ tứ cùng đồng đội nghĩ mưu đánh Ngô. Cuối cùng ông đã đánh được quân Ngô, trả
được mối thù chiến bại.
Tích về Chúa Chổm kể: Con vua Lê Chiêu Tông là Duy Ninh tục gọi là Chúa
Chổm phải phiêu bạt, vay nợ để lần hồi qua ngày sau khi nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê.
Sau này nhờ Nguyễn Kim lập nên làm vua (Lê Trang Tông), khi ấy người đến gặp vua
địi nợ rất đơng.
Theo Đặng Đức Siêu thì điển cố là chuyện cũ người xưa được rút gọn lại thành
đôi ba chữ nhằm dẫn lại trong vãn thơ để biến những chuyện xưa người cũ ấy phục vụ
cho mục đích, ý đồ của sáng tác [120, 88],
Trong bài thơ “Hàn Tín giảng binh xứ” của Nguyễn Du dẫn nhiều chuyện cũ
người xưa:
“Bách vạn tinh huy bắc độ hà / Yên giao địa hạ hữu trần qua / Du du sự hậu nhị
thiên tải / Đãng đãng thanh biên nhất phiến xa. / Khoái ngũ vị thành cam lục lục. /
Quân tiền do tự thiện đa đa / Khả cận thập thế sơn hà tại / Hậu duệ đồ diên Giáng.
Quán gia.”
Bản dịch của Phạm Khắc Khoan và Lê Thước:
“Phất cờ trăm vạn lính qua sơng / Dưới đất n Giao có giáo đơng/ Việc trước hai
ngàn năm vắng vẻ/ Bên thành, một bãi cát mênh mông/ Bạn bè với Khối lịng cịn


16
thẹn/ Thao lược so Vua khí vẫn hùng/ Sơng núi mười đời thề thốt hận/ Riêng nhà
Giáng, Quán hưởng vinh phong/ [3, 298].”
Ở đây có thể nêu ra các điển cố. Trước hết là “Hàn Tín”. Đây là tên một danh
tướng nhà Hán. Có nhiều giai thoại về ơng thuở hàn vi của ông. Chẳng hạn bà lão đập

vải cho Tín ăn cơm suốt nhiều ngày, hoặc chuyện một gã hàng thịt làm nhục Tín khi
u cầu ơng hoặc đâm gã chết hoặc luồn dưới háng gã, Tín đã bị qua háng gã. Song
sau này Hàn Tín giúp Hán Vương lập nghiệp và được lập làm Tề Vương, rồi Sở Vương.
Điển cố “Hàn Tín” chỉ cái chí lập thân của một người tài. Đồng thời cịn có hai
điển cố khác phái, sinh từ đó là “ Cơm Phiếu vàng Hàn” (Cơm của bà Phiếu mẫu, tức
bà lão đập vải, đem ni Hàn Tín, vàng do Hàn Tín biếu đền đáp tạ ơn bà. Hàm ý ơn
không cần báo đáp, việc đáp trả nghĩa không được quên) và “Tàng cung phanh cẩu”
(Cất cung mổ chó), điển cố này chỉ việc các nhà vua dựng nghiệp xong thường giết hại
công thần. Hàn Tín tuy có cơng lớn với triều đình nhưng Hán Cao tổ vẫn lo ngại và
ghét tài Hàn Tín, vì vậy khi có kẻ tố Hàn Tín mưu phản thì Hán Cao tổ cùng Lữ Hậu
lừa Tín vào cung Trường Lạc, sai võ sĩ trói chém ơng và tru di tam tộc. Điển cố “Tàng
cung phanh cẩu” có gốc từ câu của Phạm Lãi “Phi điểu tận, lương cung tàng; giảo thố
tử, tẩu cẩu thanh” (Chim bay hết thì cung tốt bị giấu đi; thỏ nhanh chết thì chó săn bị
giết thịt).
Điển cố “Phàn Khoái” chỉ một trong các tướng giỏi của Hán Cao tổ.
Câu thơ “Quân tiền do tự thiện đa đa” có từ điển tích kể Hán Cao tổ đàm đạo với
Hàn Tín. Đáp câu của Hán Cao tổ hỏi vua có thể chỉ huy bao nhiêu quân, Tín trả lời,
bất quá vài vạn là cùng. Cao tổ hỏi về Tín thì Tín đáp càng nhiều càng tốt. Cao tổ hỏi
càng nhiều càng hay thì sao Tín lại để vua bắt được, Tín trả lời rằng Vua khơng có tài
chỉ huy quân nhưng lại có tài chỉ huy các tướng lĩnh.
Câu thơ “ Hậu thê đồ diên Giáng, Quán gia” phản ánh việc trong số các công thần
phụng sự Hán Cao tổ thì Trương Lương đi tu tiên, Tiêu Hà bị tống ngục, Hàn Tín bị
giêt hại chỉ có Giáng Hầu (Chu Bột) và Quán Anh được hưởng phú quý trọng đãi mà
thôi.
Như vậy, chỉ một bài thơ ngắn mà có thể khai thác được một sơ điển cố vốn có
tích truyện liên quan tới số phận một danh tướng từng chịu bao cảnh thăng trầm là Hàn


17
Tín. Điển cố hàm chứa những câu truyện dài mà nếu kể ra thì phải tốn khá nhiều giấy

mực, thì giờ, song sự cơ đọng, súc tích của điển c ố đã khiến sự liên tưởng và kí ức của

người đọc, người nghe hoạt động và thấu hiểu được nhiều lẽ mang ý nghĩa văn chương
và triết lí.

1.1.6.

Điển cố có mặt trong rất nhiều thể loại vãn học của Hán văn cổ và văn học

dân gian. Có thể tìm thấy điển cố ở chiếu, biểu, hịch, cáo, kí, tự, bi, minh, ở thơ phú,
văn tế; ở kinh nghĩa, văn sách vốn là thể loại của các trường thi thời trước. Ngồi
những thể loại mang tính văn học rõ ràng ở trên, các thể loại khác khơng có liên quan
tới văn chương cũng sử dụng điển cố như sớ, tấu, dụ, chỉ, hay chúc thư, bức trướng, bức
hoành, bia, câu đối, chữ thờ, hương ước, văn cúng, bản kinh,

V .V ..

Trong các văn bản Hán Nơm thì luận giữ một vai trò quan trọng. Luận tức là nghị
luận bao quát một vấn đề, một sự việc, một bài học nhất định cùng những ý kiến, bình
luận, bình giải, của tác giả. Trong luận trình bày nhiều luận cứ, tuân theo một lơ gích
xác đáng nhằm chứng minh hay thuyết phục, do đó nội dung cần sắc sảo, súc tích
mang tính biểu cảm cao. Luận bao gồm các thể loại như tự, bạt, bi, minh, hịch, chiếu,
cáo, biểu, v.v...
Trong tác phẩm “Thời vụ sách” viết theo thể luận của Nguyễn Lộ Trạch có câu
“thử Triều Thố tước địa chi nghị sở dĩ chuyết ư thân mưu giả” (Ây lời bàn tước bớt đất
của Triều Thố, sở dĩ vụng về ở chỗ lo toan cho mình là vậy). Trong câu này có điển
tích về Triều Thố đời Hán, người tâu vua xin cắt bớt đất phong của các chư hầu. Kết
cục là bẩy nước chư hầu nổi giận làm phản, tấn công với cớ diệt triều Thố bởi vậy vua
phải vỗ về chư hầu bằng cách giết Triều Thố.
Trong bài “ Khai Nghiêm tự bi” (Bia chùa Khai Nghiêm) của Trương Hán Siêu có

câu “ Y! Khứ thánh du viễn đạo chi bất minh, nhân sư tướng giả, kí vơ Chu, Thiệu dĩ
thủ phong hóa...” (Ơi! Cách thánh nhân cáng xa đạo khơng sáng rõ, kẻ giữ trách nhiêm
làm thần, làm quan đã không như ông Chu ông Thiệu để đi đầu phong hóa...) ở đâv có
hai điển tích: Ơng Chu, ơng Thiệu. Chu là Chu công, em của Chu Văn Vương giúp Vũ
Vương diệt được nhà Trụ. Do kẻ nôi ngôi của Vũ Vương cịn bé nên Chu cơng giữ
cương vị cai quản lễ nhạc giúp thiên hạ thái bình. Cịn Thiệu là Thiệu Công con thứ
của Văn vương từng cùng Chu Công giúp Thành Vương.


18
Trong “Dụ chư tì tướng hịch vãn” (Bài hịch dụ các tì tướng của Trần Quốc Tuấn
có câu “Dư thường văn chí: Kỉ Tín dị thân đại tử nhi thốt Cao đế, Do Vu dĩ bối thụ
qua nhi tế Chiêu vương” (Ta thường nghe: Kỉ Tín lấy mình chết thay mà cứu thoát Cao
Đế, Do Vu dùng lưng chịu giáo mà che chở Chiêu vương), ở câu này có hai điển tích
về Kỉ Tín và Do Vu. Khi Lưu Bang bị quân Hạng Vũ đánh vây, Kỉ Tín ngồi xe của Lưu
Bang chạy ra trá hàng và bị giết nên Lun Bang (về sau là Cao đế hoặc Hán Cao tổ)
thốt hiểm. Cịn Do Vu là tướng của Sở Chiêu vương, Ơng đã giơ lưng đỡ mũi giáo của
qn Ngơ đâm Sở Chiêu vương nên đã cứu Vua thoát chết.
Tác phẩm “Lương Ngọc danh sơn phú” (Bài phú Lương Ngọc danh sơn) do
Huỳnh Thúc Kháng, Phan Chu Trinh và Trần Quí Cáp cùng làm khi giả một thí sinh đi
thi ở Bình Định. Trong đó có câu: “Khởi yến đường chi khả lạc? Phủ lộc động hể yêu
cầu?” (Phải chăng nhà én là đáng vui ? Việc vỗ về động Lộc, sao lại đi tìm?). Ớ đây có
hai điển cố: Yến đường và Lộc động. Yến đường nghĩa là nhà có chim én tới làm tổ,
ngụ ý nhà cháy mà mẹ con chim én khơng biết gì, hiểm nguy cận kề mà không hề hay
biết. Lộc động là động Bạch Lộc nguồn gốc ở tích kể Chu Hi đời Tống dựng lớp ở
động Bạch Lộc để dạy học, hàm ý cứ chăm chăm để học để thi cử trong lúc lầm than
cảnh nước mất nhà tan.
1.1.7 Tác giả Đặng Chí Huyền nhận xét rằng ở các văn bia di tích dù chỉ có giá trị
ở một địa phương nhỏ cũng thường gặp ít nhiều ngơn ngữ văn học [122, 9], Chẳng hạn,
trong “Kim Chung tự thạch bi kí” có câu “Sương thanh điện tử” (Sương xanh chớp tía)

chỉ cảnh oai vệ nơi cảnh chùa. Câu này là nói chệch đi của điển cố “Thanh sương, tử
điện” với “Thanh sương” là lưỡi gươm, gốc từ sách Tây kinh tạp kí có câu “Gươm của
Cao Đế chém rắn trắng cứ mười hai năm mài lại một lần, nên lưỡi sáng lạnh như sương
tuyết”. “Tử điện” là tên loại gươm quí của nước Ngơ do nó sáng rực như chớp.
1.1.8.

Trong các thần tích có sử dụng nhiều điển cố. Ví dụ: ở Ngọc phả của Chử

Đổng Tử và hai vị tiên nữ Tiên Dung và Tây Cung sử dụng một sỏ' điển cố. như “Đồng
sàng” (Giường phía đơng) chỉ con rể. Tích kể nhà họ Tạ đời Tấn sang họ Vương kén rể
cho con gái, tất cả các con trai họ Vương đều trang trọng, duy có Vương Hi Chi cứ
nằm kềnh trên giường phía đơng mà ăn uống chẳng để ý gì hết, ơng ta biết vâv liền
khen “Đó chính là chàng rể hay” và gả con gái cho anh ta.


19
Các bộ luật cũng dùng điển cố. Như trong “Quốc triểu hành luật” có điển cố “Xã
tắc”. Xưa kia người ta cúng thần đất (xã) và thần lúa (tắc), dần dà hai vị thần này trở
thành tượng trưng cho một nước. Xã tắc nghĩa là Quốc gia.
Thậm chí trong văn cúng cũng thấy điển cố. Chẳng hạn, trong “văn cúng ông Tơ
Hồng, Nguyệt lão trong lễ cưới” có điển “Uyên ương”. Vì đây là tên một loại chim
nước ở Trung hoa luôn luôn sống từng đôi nên trở thành biểu tượng cho đôi lứa vợ
chồng.
1.1.9. Các điển cố vừa nêu trên đa phần có xuất xứ từ văn liệu Trung Hoa vì mối
ảnh hưởng mạnh mẽ của văn hóa Trung Quốc tới văn hóa Việt Nam. Tuy nhiên, các tác
giả người Việt đã vận dụng sáng tạo các đom vị điển cố đó ở nhiều phương diện, từ ngữ
âm, từ vựng tới tu từ để làm phong phú, sâu sắc cho cách diễn đạt phù hợp với sự tri
nhận thẩm mỹ của người Việt.
Bên cạnh các đơn vị điển cố Việt Hán cịn có những điển cố Việt, tuy số lượng
khó có thể so sánh được với khối lượng đổ sộ của điển cố Việt Hán, song chúng đã có

đóng góp khơng nhỏ vào sự phát triển của văn học Việt Nam, về mặt từ vựng, phong
cách và góp cơng ghi lại những đặc trưng mang tính bản sắc của vãn hóa Việt Nam.
Chẳng hạn, điển cố “Tú Uyên - Giáng Kiều” mang ý nghĩa cuộc sống hạnh phúc lứa
đôi phải vượt qua gian nan trắc trở để đạt được sự viên mãn. Điển cố này bắt nguồn từ
cốt truyện trong tác phẩm “Bích Câu kì ngộ” của một tác giả vơ danh. Tên tác phẩm vố
danh “Lưu Bình - Dương Lễ” cũng trở thành một điển cố ca ngợi tình bạn keo sơn giúp
đỡ nhau thành đạt trong cuộc đời. Tích truyện kể hai người bạn Lưu Bình và Dương Lễ.
Dương Lễ đỗ đạt trước và làm quan. Lưu Bình đến nhờ cậy. Song để kích thích chí tiến
thủ của bạn, Dương Lễ vờ hắt hủi bạn mình. Sau đó, Dương Lễ sai một nàng thiếp tên
Châu Long mang tiền đi giúp Lưu Bình. Đến khi Lưu Bình hiển đạt về quê báo tin
mừng thì Châu Long, người mà chàng từng muốn tỏ tình, khơng thấy ở nhà. Lưu Bình
tới Dương Lễ để mỉa mai bạn, song tới nơi thì hay rằng Dương Lễ là người dụng cơns
giúp chàng, còn Châu Long là thiếp thứ ba của Dương Lễ.
1.1.10. Như vậy, trong văn học quá khứ của dân tộc, không chỉ các tác phẩm viết
bằng Hán văn của cả các tác phẩm Nôm đều dùng nhiều điển cố. Một ví dụ rất điển
hình là “Đoạn trường tân thanh” tức Truyện Thúy Kiều của đại thi hào Nguyễn Du.
Trong một bài tựa Truyện Kiều do Phong Tuyết Chủ Nhân Thập Thanh Thị viết có dẫn


20
lời Mạnh Tử: “Ai khéo đọc kinh thì khơng nên nệ câu văn mà làm hại lời, không nệ lời
mà làm hại ý, cứ lấy ý đón lấy cái chí của cổ nhân mà hiểu được, thế là được”. Cũng
như các tác giả vĩ đại khác, Nguyễn Du tuân theo ngun tắc làm văn làm thơ là “ngơn
chí, thuật hồi” (Tỏ rõ chí hướng, bộc bạch tấm lịng, nếm trải). Thơ ơng lời ít ý nhiều,
ấy là nhờ tác dụng ngơn từ, trong đó điển cố giúp ơng thực hành ý tại ngơn ngoại (ý ở

ngồi lời), cơ đọng hàm súc. Dịng thơ của ơng: “Trải qua một cuộc bể dâu/ Những
điều trơng thấy mà đau đớn lịng” . Điển cố “Bể dâu” có xuất xứ từ sách Thần tiên
truyện của người Trung Hoa “Tam thập niên vi nhất, thượng hải biến vi tang điền” (Cứ
ba mươi năm một lần; biển xanh lại hóa thành ruộng dâu), nhiều khi người ta nói vắn

tắt “Thương hải tang điền” (Biển xanh nương dâu). “Bể dâu” hàm ý việc vật đổi sao dời
trong thiên nhiên và những biến đổi là khôn lường trong đời người. Mối liên tưởng giữa
điển cố ấy với câu sau tạo nên một cảm giác bùi ngùi nơi độc giả về thân phận con
người, về những bước biến chuyển không tiên liệu trước được nơi sự đời người ta. Điển
cố “Bể dâu” còn gặp ở những câu khác như:
Cơ trời dâu bể đa đoan. / Một nhà để chị riêng oan một mình. (Kiều)
Sợ khi dương bể mà dâu. / Hiếu tình lại dở dang nhau mặc lịng. (Truyện hoa tiên)
Đầu ngàn cờ mở mấy lần lau, / Hồ Hán duyên xưa bể biến dâu. (Hồng đức quốc
âm thi tập)
Điển cố “Bể dâu” được giải thích rõ hơn nếu tham khảo thêm tích truvện trong
sách “Tần Nguyên” kể về ông lão, thọ trăm tuổi nói với con cháu: “Ta đã sống đủ một
trăm tuổi. Trong đời ta, ta đã thấy biết bao lần có sự đổi thay trong vũ trụ, như biển cả
sóng vỗ mn trùng rồi biến thành nơi đất bổi để người ta đem dâu ra trồng. Rồi có nơi
ruộng dâu lại biến thành biển cả, nước xanh sóng vỗ” [57, 26],
1.1.11.

Khơng chỉ trong các tác phẩm Hán văn hay Nôm mà cả sáng tác dân gian

cũng tìm gặp được nhiều điển cố.
Chẳng hạn trong câu ca dao:
Con sắt vật ngã ông Đùng
Đắp mười chiếc chiếu không bằng bàn tay
Tích truyện xưa ơng Đùng bà Đà là cặp vợ chổng người khổng lồ vào thời sáng
thế, tuy nhiên ơng Đùng đã bị ngã khi giật mình do bị con cá săn sắt bé xíu cán vào


21
chân. Cịn vế sau mơ tả việc chiếu đắp lổng cồng, thậm chí mười cái chiếu cũng khơng
làm cho bàn tay hết rét mà phải ủ tay vào áo mới ngủ được. Điển cổ “Ông Đùng” diễn
đạt ý lấy yếu thắng thắng mạnh, lấy ít đánh nhiều, vì thậm chí kẻ mạnh cũng vẫn có

chỗ hiểm yếu để chịu địn đánh gục.
Điển cố là thuật ngữ dùng rộng rãi trong nghiên cứu. Điển cố có mặt khơng chỉ
trong các tác phẩm văn học được xuất bản mà cả trong văn học dân gian, vì vậy khái
niệm điển cố được xét tới ở đây bao hàm điển cố nói chung.
1.1.12. Nhiều nhà nghiên cứu văn học, nghiên cứu ngôn ngữ học đã đưa ra các
định nghĩa của mình nhằm xác định khái niệm thuật ngữ điển cố.
Lê Huy Tiêu không tách biệt điển cố ra mà gọi đó là thành ngữ điển cố khi coi đó
là loại thành ngữ có cốt truyện thường có xuất xứ từ truyện lịch sử, cổ tích, ngụ ngơn

hay vãn thơ của các tác giả nổi tiếng. Ơng cho rằng vì vậy đọc điển cơ' trở nên lí thú và
hấp dẫn. Lời tựa nhà xuất bản trong cuốn “Từ điển thành ngữ điển cố Trung Quốc” của
ông là xác đáng khi nhận xét: “Khi đọc một văn bản Hán vãn, ta thường gặp khơng ít
thành ngữ, thành ngữ vốn đã súc tích mà thành ngữ điển cố lại càng súc tích hơn và
được viết bằng cổ văn rất khó hiểu” [108, 5]. Định nghĩa của Lê Huy Tiêu coi điển cố
là thành ngữ có lẽ do hầu hết các đơn vị điển cố Trung Quốc của ơng sưu tập và tường
giải đều có hình thức của một đơn vị thành ngữ.
Ví dụ: “Khơ mộc phùng xn” (Cây khơ gặp mùa xn); “Bạch bích vi hà” (ngọc
trắng có tì vết) “ Lạc thiên tại mệnh” (Vui với mệnh trời cho). Quả thực những điển cố
này không khác những thành ngữ gốc Hán khác về mặt hình thức “ Dương chất hổ bì”
(Mình dê da cọp); “Thủy trích thạch xuyên” (Nước nhỏ đá mòn) “Nhĩ vãn mục đỗ”
(Tai nghe mắt thấy):
1.1.13. Mộng Bình Sơn khơng phân biệt điển cố và điển tích mà gọi gộp chung
hai khái niệm này là điển tích. Ơng viết “Điển tích là những câu nói ngắn hoặc những
câu chuyện trong sách đời trước chứa đựng một nội dung xã hội và văn học sâu sắc
được lun truyền qua sử sách và được các học giả của mọi thời kỳ thừa nhận giá trị điển
tích của nó...[98, 7] Ơng cho rằng do trải qua nhiều giai đoạn phát triển, cách tân mà
văn học đã dần loại bỏ nhiều điển tích (theo cách hiểu của Mộng Bình Sơn). Ơng lun ý
bạn đọc rằng ngày nay ít thấy điển tích được vận dụng trong các tác phẩm văn chương
hiện đại để thể hiện, diễn đạt ý tưởng, tình cảm. Tuy nhiên khi ơng cho “Điển tích cũng



22
dần dần biến dạng trong văn chương”, thì ý kiến này khá lờ mờ trong nhận xét vì “biến

dạng” có thể hiểu là được nói bằng ngơn ngữ hiện đại hoặc có một cách truyền diễn nội
dung mới. Song nhận xét tiếp theo của ông là đúng “Văn thơ cổ là một bộ phận của
lịch sử văn học dân tộc mà chúng ta không thể tách rời khi nghiên cứu văn học sử... vì
vậy, việc tìm hiểu điển tích trong thi văn cổ là chuyện cần thiết...[98, 7]. ý kiến này
chính xác vì xưa kia các bậc cự nho thường rất tinh thơng điển tích và họ dùng rất
thường xun và thâm thúy trong tác phẩm của mình để tạo nên những hiệu quả thẩm
mỹ, tình cảm mạnh mẽ và sâu sắc. Hai tập cuốn sách “Điển tích chọn lọc” của ơng tập
trung nhiều điển cố và điển tích căn bản của Hán văn cổ như “ Kết cỏ ngậm vành” , “
Nằm gai nếm mật” “ Đằng Vương các”, “ Mạnh Thường Quân”, “ Chức cẩm hồi văn”.
“Khổng Minh tọa lầu” , “ Khúc nhạc chiêu quân”, “Mạt cưa mướp đắng”.v.v.... Bên
cạnh những ưu điểm, sách này vẫn chưa đưa ra một điển cố, điển tích thuần Việt nào
trong văn học cổ Việt Nam.
1.1.14. Trác Hiên Triệu Hữu Lập viết “Mấy lời của người hiệu đính” in trong
sách “Từ điển văn liệu” của Long Điền Nguyễn Văn Minh có đề cập đến định nghĩa
điển cố “ Người ta làm văn, tất cũng phải có văn liệu, nghĩa là phải dùng chữ, dùng
điển ở trong ngũ kinh, tứ thư, chư sử, các chuyện, để phụ diễn ra thành văn, thì lời văn
mới hay mới đẹp, lời nói châu ngọc, hàng hàng gấm thêu.” [76, 7] khi làm sách nàv,
tác giả và những người phụ giúp ấn loát đều nhận thấy một tình trạng Hán học suy sút
khi Quốc ngữ phát triển, song vốn học của cha ơng cần được gìn giữ và phát huy nên
cần có những sách kê biên, khảo cứu như từ điển, chuyên luận về điển cố, điển tích.
Trong cách hiểu về văn liệu ở đây có hai yếu tố là chữ và điển tức là điển cố và điển
tích. Đặc trưng của chữ và điển là sẵn có vì được trích diễn từ các sách xưa, từ truyện,
từ sử để dùng trong thơ văn.
1.1.15. Cũng là một loại từ điển văn liệu, nhưng cuốn “Ngữ liệu văn học” của
Đặng Đức Siêu có lời giải thích cụ thể hơn. Khi tác giả coi ngữ liệu ở đây bao gồm từ
điển cố, từ ngữ, thành ngữ, nhân danh, tên chức quan, danh ngôn vốn mang ý nghĩa

biểu trưng cho tới các từ ngữ, từ cổ rút ra từ ca dao ngạn ngữ được các tác giả thơ văn
Việt Nam xưa kia dẫn trong tác phẩm dưới hình thức điển cố từ viện dẫn. Đổng thời,
trong sách cịn có một số từ ngữ, điển cố Phật giáo nữa. Một ý kiến trong lời nói đầu
có thể coi là một phần trong định nghĩa về điển cố “ Nhiều từ ngữ trong các tác phẩm
văn học nổi tiẽng đã trở thành những ngữ liệu quan trọng, góp phần làm phong phú


23
thêm hệ thống ngôn ngữ văn học của tiếng Việt thời trung đại, được vận dụng linh hoạt
và định hình trong các tác phẩm văn thơ Hán Nôm tiêu biểu; một phần không nhỏ cũng
đã trở nên thông dụng trong lời nói thường ngày... [120, 3]. Như vậy, một tính chất
quan trọng của điển cố, điển tích là nguồn gốc từ các tác phẩm nổi tiếng của văn và thơ
và các từ ngữ đó đã được định hình, có tính cố định trong sử dụng ở trong sáng tác của
các tác giả Việt Nam.Tuy nhiên, định nghĩa này chưa đề cập tới những xuất xứ khác
của điển như lịch sử, các nhân vật nổi tiếng, cuộc sống xã hội, v.v...
1.1.16.

Nguyễn Ngọc San trong cuốn “Từ điển điển cố vãn học trong nhà trường”

[95, 3] đã đưa ra một định nghĩa khá bao quát về điển cố “Điển cố là viết gọn truyện cũ
lời xưa thành đôi ba chữ để đưa vào văn chương, làm cho câu vãn hàm súc, ngắn gọn,
lời ít ý nhiều”, thực ra định nghĩa này cũng tương tự ý kiến của Đặng Đức Siêu về điển
cô' trình bày năm 1984 [120, 88]. Nguyễn Ngọc San cho rằng các tác giả xưa hay dùng
điển cố vì hai nguyên nhân, một là, xuất phát từ quan niệm thẩm mĩ trong quá khứ mà
các tác giả chuộng tập cổ nên hay dẫn nhiều câu văn cổ, truvện cổ, câu trích dẫn cổ của
Thánh Hiền. Hai là, do văn đối ngẫu bị gò ép về số lượng âm tiết nên hạn chế đó được
khắc phục bằng việc áp dụng điển cố. Từ đó ơng kết luận đó là ngun do khiến lượng
điển cố giữ tỉ lệ rất cao trong phú đời Hán chẳng hạn, đồng thời tác giả cũng đưa kiến
giải của mình về quá trình hình thành điển cố. Theo ơng, điển cố khác với các từ ngữ
khó khác ở khả năng làm cho câu văn có hàm ý súc tích, ý tại ngơn ngoại. Thoạt kỳ

thủy, điển cố chưa phải là điển cố khi chúng là các từ ngữ xuất hiện trong thơ ca cổ vì
chúng chỉ có ý nghĩa biểu đạt bình thường như mọi từ ngữ khác, nghĩa là biểu đạt
những gì hàm ẩn ngay bên trong các từ ngữ ấy. Nói một cách khác, chúng biểu đạt cái
nằm trong từ ngữ. Sau đó dần dần các từ ngữ ấy gắn bó với các sự tích vốn được coi là
mẫu mực, điển hình buộc với các câu trích dẫn, câu vãn, câu thơ hay, nổi tiếng được
lặp lại trong sử dụng ở các cảnh huống khác với tình huống ban đầu. Lúc này các đơn
vị từ ngữ đó được nhập thêm ý nghĩa mới do “tư duy trừu tượng dẫn xuất ra, tức là
ngoài ý nghĩa hiện thực chúng có thêm một ý nghĩa biểu trưng, ý nghĩa có giá trị phong
cách học” Ơng cho rằng ý nghĩa đó nằm bên ngồi từ ngữ và sinh thành bởi sự cài xen
giữa “dòng biểu đạt với sự liên tưởng tới một dòng biểu đạt cũ mà từ ngữ mượn điển cố
này tạo ra. Từ lúc này, từ ngữ mượn trở thành điển cố” [95, 4],
Định nghĩa nêu trên tuy chưa chuẩn theo cách xác định ý nghĩa về phương diện
ngôn ngữ học, song đã nêu khá xác đáng những khía cạnh của điển cơ' và các bước


24
hình thành điển cố. Có một điểm chú ý trong nhận xét của ơng là sự phân tích hai cấp
độ nghĩa của điển cố là ý nghĩa từ nguyên và ý nghĩa biểu trưng vốn mang giá trị
phong cách.
Tiếp theo, ông cũng cho biết điển cố trong văn thơ Hán Nôm ở ta thường được
khai thác chủ yếu từ các tích thời Xuân Thu - Chiến Quốc được chép trong các trước
tác Tiên Tần và văn thơ đời Đường - Tống. Ngồi ra cịn có các kinh sử và thư tịch biên
soạn ở các đời khác nữa.
Từ các phân tích và khái quát như trên, các tác giả của cuốn từ điển này đã chọn
các đơn vị từ ngữ đáp ứng hai cấp độ nghĩa: a) ý nghĩa từ nguyên (tức là tính lịch sử cụ

thể); b) ý nghĩa biểu trưng (hay tính biểu trưng, hoặc mang giá trị phong cách học), để
đưa vào các mục từ của sách .
1.1.17. Mặc dù vậy, phần lí luận như trên khơng chính xác về mặt ngôn ngữ học
khi khảo sát ý nghĩa của điển cố, đổng thời trong từ điển có các đơn vị chỉ là điển tích.

Tuy nhiên, đây cũng là một đóng góp có g.a trị cho lí luận và thực tiễn của nghiên cứu
điển cố Hán Nôm ở nước ta hiện nay
1.1.18. Đinh gia Khánh cũng phần nào định nghĩa điển cố khi ơng giải thích cách
thức lựa chọn các đơn vị mục từ trong cuốn. “Điển cố văn học” xuất bản năm 1977.
Ồng cho biết các điển cố trong sách là thơng dụng để xây dựng hình tượng trong văn
học cổ , chúng bao gồm những sự tích (như Gác vàng; cây Hàn Bằng) những nhân vật
(như Di Tề; Tô Tần), những thành ngữ (như “Quạt nồng ấp lạnh”; “Sửa dép vườn dưa”).
Bên cạnh đó cịn có một số từ ngữ Hán học (như Ngũ giới, Lục cực, Hoa đàm). [61. 7],
Từ điển này thu thập các đơn vị điển cố Hán học sử dụng trong văn thơ Nôm, một số
được dùng trong văn học viết bằng chữ Hán thời xưa. cũng như trong văn học truyền
miệng dân gian. Tuy chưa có định nghĩa cơ đọng nhưng qua giải thích cũng thấy rõ
quan niệm về điển cố là gồm các điển tích (sự tích ), nhân danh, các đơn vị có hình
thức giống như thành ngữ. Do khn lại trên cơ sở cách hiểu như trên nên nhiều đơn vị
điển cố khác không được đưa vào từ điển (có lẽ do định hướng của các tác giả khi cho
từ điển này chưa phải là một cuốn từ điển văn liệu hoàn chỉnh.)
1.1.19. Hai tác giả Nguyễn Thạch Giang và Lữ Huy Nguyên khi đưa ra các nhận
xét về thư tịch Hán Nôm được dùng để biên soạn cuốn “Từ ngữ điển cơ văn học” xuất
bản năm 1999 có đề cập đẽn diện mạo của điển cố trong nhận xét rằng mọi mặt sinh


25
hoạt của dân chúng được bộc lộ “Bằng cách mượn những điển tích, những chữ sách và
những từ Hán lấy trong các thư tịch cổ Trung Quốc ...Nói chung, những điển, những
chữ sách này đều được rút ra từ truyện một số nhân vật, một sô' sự kiện lịch sử nhất
định được ghi lại trong nhiều sách khác nhau” [43, 9].
ở đầy dùng ba thuật ngữ “điển” và “chữ sách1', “từ Hán”; để bao quát khái niệm
điển cố. Trên thực tế, quyển từ điển này đã tường giải các “từ ngữ, thành ngữ, những
địa danh, nhân danh có ý nghĩa điển cố” [43, 31]. Đây thực sự là một từ điển văn liệu
quý giá tuy nhiều đơn vị điển cố thông dụng đã thiếu vắng (chẳng hạn, “Mạnh Thường
Quân” ).

1.1.20. Các tác giả biên soạn sách và từ điển điển cố đều cố gắng xác lập những
tiêu chí nhất định nhằm cô lập đơn vị điển cố khỏi trùng lặp với các đơn vị khác trong
khối từ vựng. Điển cố ln ln có tích truyện, tức là có cốt truyện được thu gọn , được
cô đọng lại ở một vài từ. Điển cố có xuất xứ từ các tác phẩm vãn học, các tác phẩn dàn
gian truyền miệng, từ truyện lịch sử.v.v...
Nguyễn Văn Tu cho biết một số không lớn thành ngữ tiếng Việt có tính chất điển
cố, điển tích. Ơng cho rằng những điển đó khơng được nhớ lại nữa, ngay cả người sử
dụng các thành ngữ mang tính điển cố cũng không cần biết gốc gác của chúng [111.
186],
1.1.21. “Từ điển tiếng Việt” do Hoàng Phê chủ biên coi điển cố là sự việc, càu
chữ trong sách đời trước được dẫn lại trong thơ văn [88, 138] và coi điển tích là câu
chuyện trong sách đời trước được dẫn lại cô đúc trong tác phẩm [88, 138], Hai định
nghĩa này phản ánh chính xác bản chất của điển cố và điển tích, Điển cố bao gồm các
sự kiện , vấn đề, từ ngữ, chữ câu từng được ghi trong các thể loại vãn học thời xưa (bao

gồm các thể loại đã nêu ví dụ ở trên) được dẫn trích nguyên hay thu gọn lại. Tích chính
là chuyện, là sự tích từng được kể trong sách xưa được tóm tắt thật ngắn gọn, trong một
vài từ. Tuy nhiên mối liên hệ giữa điển cố và điển tích chưa được làm rõ . Đào Duy
Anh [2, 276] xác nhận điển cố là những chuyện chép trong sách vở xưa, tuy vậv ông
chưa đưa ra những đặc điểm của điển cố khác chính những chuyện đó như thế nào.
1.1.22. Từ những định nghĩa, nhận xét đã dẫn của nhiều học giả, có thể tạm thời
đưa ra một định nghĩa mang tính làm việc về điển cố:


26
Điển cố là những câu chuyện từ ngữ trong sách , là những phát ngồn, hành động,
tên của các nhân vật văn chương và sự thực lịch sử, là những sự kiện chính trị, chiến
tranh, tơn giáo,v.v... trong tiến trình phát triển xã hội được viết gọn, cồ đọng hàm súc,
lời ít ý nhiều.
Điển tích là những cốt truyện, diễn trình của các sự kiện nổi bật trong văn

chương, trong lịch sử được dẫn lại cô đọng trong ngôn bản.
Như vậy, điển tích có thể được đặt tên, có thể là nội dung của điển cố. Do đó điển
cố bao hàm điển tích. Chẳng hạn điển cố “Tảo Tần” (hay Tần Tảo) có ý nghĩa: sự đảm
đang của người vợ trong gia đình. Tích truyện của điển cơ rút ra từ bài “Thái tần”
trong Kinh Thi: “Vu dĩ thái tần, nam giản chi tân. Vu dĩ thái tảo, vu bỉ hàng lạo” (Bèn
đi hái rau tần bên bờ lạch phía nam, bèn đi hái rau tảo bên khe nước đằng kia). Bài thơ
này khen ngợi người đàn bà hiền thục chăm chỉ đi hái rau , rau tần rau tảo về làm giỗ
cúng gia tiên nhà chổng.
Thực ra khái niệm điển cố gồm hai vế điển và cố. Điển là những gì mà trong định
nghĩa điển cố đã nêu, cịn cố chính là nội dung của điển tích. Điển cố nào cũng có xuất
xứ nguồn gốc hoặc trong sách xưa thuộc văn chương, kinh bổn, hoặc các sự kiện từng

diễn ra trong lịch sử con người.
1.1.23. Xét về mặt ngữ nghĩa, điển cố có những đặc điểm sau.
a)

Tính cụ thể. Điển cố ln ln gắn bó với một tích truyện nhất định, trong sách

hay ở ngoài đời thực. Trong điển cố có hình tượng. Tuy nhiên tính cụ thể đó thường
mang ý nghĩa ẩn dụ hay hoán dụ để truyền diễn một ý khái quát mang tính chất phổ
biến. Trong bài “Cơn sơn ca” của Nguyễn Trãi có câu: “Hữu bất kiến Bá Di dữ thúc Tề,
Thú Dương ngạ tử bất thực túc? (Lại kia trên núi Thái San / Di Tề nhịn đói chẳng màng
thóc Chu). Tích của điển cố “Di Tề” kể hai anh em Bá Di, Thúc Tề can ngăn Chu Vũ
Vương dấy binh đánh Trụ, nhà vua cuối cùng của nhà Thương, tuy vậy nhà Chu vẫn
diệt nhà Thương. Thấy vậy hai ông vào núi Thú San ở ẩn khơng ăn thóc nhà Chu, chỉ
ăn rau vi để sống. Sau có người bảo rằng rau vi ấy cũng mọc trên đất nhà Chu, thế là
hai ông nhịn đói và qua đời. Điển cố này ca ngợi các bậc ẩn sĩ sống thanh bạch.
Trong Kiều có câu “Sự lịng ngỏ vói băng nhân / Tin sương, đồn đại xa gần xôn
xao.” Điển cố “Bâng nhân” chỉ người làm mối. Truyện xưa kể Linh Hổ Sách mộng



×