Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Lê Quý Đôn – Nhà bác học Việt Nam thế kỉ XVIII

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.83 KB, 7 trang )

JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE
Social Sci., 2017, Vol. 62, Iss. 7, pp. 150-156
This paper is available online at

DOI: 10.18173/2354-1067.2017-0075

LÊ QUÝ ĐÔN – NHÀ BÁC HỌC VIỆT NAM THẾ KỈ XVIII
Nguyễn Thị Thoa

Trường Trung học Phổ thơng Chun Thái Bình
Tóm tắt. Lê Q Đơn (1726-1784) sinh tại Thái Bình. Ơng vốn ham học, thông minh, mẫn
tiệp, được coi là thần đồng. Thi đỗ được bổ làm quan, giữ nhiều chức vụ quan trọng của
triều Lê –Trịnh. Ơng ln là viên quan thanh liêm và tài năng. Cuộc đời và sự nghiệp làm
quan, nghiên cứu khoa học, sáng tác của ông đã đạt nhiều thành tựu và đóng góp rất to lớn
trên nhiều lĩnh vực trong lịch sử dân tộc: chính trị, ngoại giao, quân sự, kinh tế - xã hội,
văn hóa, giáo dục, triết học, lịch sử, địa lí. . . Ơng rất xứng đáng được tơn vinh là nhà Bác
học, nhà Văn hóa lớn Việt Nam thế kỉ XVIII.
Từ khóa: Lê Q Đơn, nhà bác học, nhà văn hóa.

1.

Mở đầu

Lê Quý Đôn (1726 - 1784) tên thủa nhỏ là Lê Danh Phương, tự Dỗn Hậu, hiệu Quế Đường.
Ơng sinh ngày 5 tháng 7 năm Bính Ngọ (2/8/1726) trong một gia đình khoa bảng, ở làng Diên Hà,
huyện Diên Hà, trấn Sơn Nam Hạ, nay là thôn Phú Hiếu, xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái
Bình. Thuở nhỏ, Lê Quý Đôn nổi tiếng ham học, thông minh được người đương thời coi là thần
đồng. Năm 18 tuổi thi Hương đỗ Giải nguyên; năm 27 tuổi đỗ Hội nguyên; tiếp đó đỗ Đình ngun
Bảng nhãn - Tam ngun Bảng nhãn [1-4].
Lê Quý Đôn là một hiện tượng đặc biệt trong lịch sử dân tộc. Những thành tựu và đóng góp
của ông về tư tưởng chính trị và nghiên cứu, sáng tác trong nhiều lĩnh vực khoa học ở thế kỉ XVIII


là vơ cùng to lớn.

2.
2.1.

Nội dung nghiên cứu
Về chính trị

Mặc dù trong bối cảnh thế kỉ XVIII, chế độ phong kiến Việt Nam lâm vào tình trạng khủng
hoảng nghiêm trọng, nhưng Lê Quý Đôn vẫn cố gắng học tập thành tài mong muốn tham gia quan
trường mang tài năng và hồi bão của mình để góp phần hưng quốc, an dân. Ông đã được bổ làm
quan, giữ nhiều chức vụ quan trọng của triều Lê - Trịnh như: Hàn lâm thừa chỉ sung Toàn tu Quốc
sử quán (năm1754), Hàn lâm viện thị giảng (1757) năm 1760 và 1762 đươc cử đi sứ sang nhà
Thanh, Đốc đông xứ Kinh Bắc (1764), Thị thư kiêm Tư nghiệp Quốc tử giám (1767), Tán lí qn
vụ, Thị phó đơ ngự sử (1768), Cơng bộ hữu thị lang (1769), Bồi tụng (1773), lại bộ tả thị lang
Ngày nhận bài: 15/12/2016. Ngày nhận đăng: 20/7/2017
Liên hệ: Nguyễn Thị Thoa, e-mail:

150


Lê Quý Đôn – nhà bác học Việt Nam thế kỉ XVIII

kiêm Tổng tài Quốc sử quán (1775), Hiệp trấn tham tán quân cơ Trấn phủ Thuận Hóa (1776), Hiệp
trấn Nghệ An (1783),Công bộ thượng thư (1784)... Mặc dù được làm quan, nhưng Lê Quý Đôn
luôn là một viên quan thanh liêm [1].
Lê Quý Đôn là một vị đại quan của chế độ phong kiến cho nên ơng có hồi bão kinh bang
tế thế. Trong hoàn cảnh đất nước rối ren khủng hoảng Ông mong muốn lập lại trật tự xã hội, đất
nước ổn định, thống nhất để dân chúng bớt nghèo khổ. Năm 1752, trong bài thi văn sách bàn về
phép trị nước, dù mới 27 tuổi nhưng Lê Quý Đôn đã tỏ ra là một người am tường chính trị, xã hội

sâu sắc. Sách lược trị nước của Lê Quý Đôn được ông khái quát thành ba việc lớn:
1. Phải làm sao thấu suốt được đời sống nhân dân, thế nước luôn mạnh, làm cho xã tắc
muôn đời giữ được nghiệp đế. Muốn đất nước bền vững phải đồn kết tồn dân tộc thành một khối
vững chắc thì chẳng dễ gì lung lay được.
2. Đất nước rộng bao la, sinh dân như muôn cây hợp lại thành rừng, mn họ đơng đúc,
người cai trị phải có kỉ cương, pháp độ khiến ai nấy phải tuân theo lẽ phải, khơng sinh ra thói ngỗ
ngược chống đối. Như vậy Lê Quý Đôn đề cao tư tưởng pháp trị, tuy nhiên ông cũng chủ trương
cả đức trị. Ông viết: khi mà nhân nghĩa là cơ sở để lãnh đạo dân chúng thì đó là đầu mối của ơng
vua mở ra cái công đức của một thời.
3. Coi việc sửa sang nền trị giáo, chăm lo đến quân đội, tìm kẻ sĩ tài năng làm trọng. Có thể
nói cơng việc đấy là hàng đầu, đặc biệt khẩn cấp. Ông nhấn mạnh: những quan lại tài giỏi, mưu
trí, những người tài giỏi về văn chương, học thuật, các bậc vương giả các thời đều quý trọng họ.
Trong Vân đài loại ngữ và Quần thư khảo biện, Lê Quý Đôn không chỉ đưa ra những lí
thuyết trị nước ơng liên hệ vơi thực tế lịch sử, để luận giải những nguyên nhân dẫn đến sự thành
bại của các triều đại. Ông rút ra được bài học về đường lối trị nước từ các triều đại trước
Từ tình hình xã hội lúc bấy giờ, Lê Q Đơn đã trình bày kế sách: Đạo trị nước là công sức
chung của mọi người, phải lấy đạo trung chính làm trung tâm, lấy sự cơng bằng làm phép tắc, ngăn
chặn cửa ngõ của sự cong queo, mở ra con đường thẳng ngay cho mọi người. Coi trọng việc tuyển
chọn quan lại, đảm bảo sự công bằng, chọn đúng người có tài, có trách nhiệm với cơng việc, đình
chỉ việc tuyển chọn những kẻ tham lam tiền của, ngăn chặn việc chạy chọt, bơn xu. . . từ đó, xã hội
sẽ ổn định, luật pháp sẽ thịnh trị.
Việc trị nước từ xưa, kỉ cương luôn phải được nêu cao, luật pháp phải được ban bố rõ ràng
được chấp hành nghiêm chỉnh, thi hành hình luật phải đúng tội, khơng theo ý cá nhân mà bẻ queo
sự thật. Làm chính trị phải lấy lòng khoan dung làm gốc, phải chăm lo sức dân.
Trong quan điểm trị nước của Lê Quý Đơn, ơng khơng hồn tồn tán thành nhân trị nhưng
ơng cũng không đề cao tuyệt đối pháp trị. Xuất phát từ thực tế xã hội của nước ta, ông đã đưa ra
đường lối trị nước trên cơ sở sự kết hợp hài hòa giữa đức trị và pháp trị trong đó tư tưởng Pháp trị
được đề cao. Theo ơng cần phải linh hoạt, mềm dẻo: “Cứng quá thì gẫy, mềm quá thì hỏng, phải
vừa mềm, vừa cứng mới hay. Khoan thì dân lờn, dữ thì dân khổ, phải vừa khoan, vừa dữ mới hay”.
Lê Quý Đôn cho rằng, pháp luật là rường cột của xã tắc, là gốc của nước, là một trong những công

cụ quan trọng để thống nhất thiên hạ.
Lê Quý Đôn đưa ra đường lối trị nước kết hợp giữa Nhân trị với Pháp trị trên cơ sở đề cao
Pháp trị, đó là hướng giải quyết tiến bộ trong hoàn cảnh xã hội đương thời.
Về ngoại giao, Lê Quý Đôn đã luôn thể hiện rõ tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc,
kiên quyết đấu tranh bảo vệ nền văn hóa dân tộc và độc lập chủ quyền thống nhất toàn vẹn lãnh thổ
của Tổ quốc. Những năm 1760 và 1762, ông đã được vua Lê, chúa Trịnh tin tưởng trao cho nhiệm
vụ đi sứ Trung Quốc. Mặc dù chỉ là Phó sứ nhưng ơng đã góp phần quan trọng để đồn sứ giả Đại
Việt hồn thành xuất sắc sứ mệnh của mình: làm nâng cao thế nước, tất cả đều nhờ vào khả năng
151


Nguyễn Thị Thoa

đấu tranh ứng xử kiên quyết, thông thái và tầm văn hóa cao của Lê Q Đơn.
Trước hết, ngày 9 tháng 10 năm Canh Thìn - 1760, quan phủ Quế Lâm xuống khám thuyền.
Quan lại Quảng Tây dùng chữ di quan có ý miệt thị Sứ thần nước ta. Lê Quý Đôn đã viết công văn
yêu cầu buộc quan lại nhà Thanh phải bỏ hai chữ “di quan” để chỉ sứ thần An Nam, trong văn thư
bang giao hai nước, phải đổi gọi là An Nam cống sứ. Cũng để giữ quốc thể, Lê Quý Đôn từ chối
trả lời câu hỏi của một quan chức nhà Thành về tên vua nước Nam. Trong quan niệm của xã hội
phương Đông truyền thống việc hỏi tên vua là điều tối kị vì vua của một nước là thiên tử nên hỏi
tên vua và nói tên vua trong giao tiếp là việc đại bất kính. Để giữ hịa khí cho cuộc nói chuyện và
sự tơn kính cho vua nước ta, Lê Quý Đôn đáp: Từ xưa tới nay chưa bao giờ thấy trong việc tiếp đãi
sứ thần lại hỏi tên vua cả. Đại nhân không nên hỏi mà sứ thần không nên trả lời, có như vậy mới
đúng phép làm tơi.
Để nâng cao thế nước, Lê Q Đơn cịn thẳng thắn bác bỏ sự nhận xét sai lạc của Cao Hùng
Trưng về sự học của nước ta. Ông đã đưa ra cuốn Trích diễm thi tập (chọn lọc thơ văn của các tác
giả thời Trần, Lê sơ) của Hoàng Đức Lương cho Chu Bội Liên, một nho thần có tiếng đồng thời
là Tổng trấn Quảng Tây xem, để biết An Nam từ thời Trần đã có nhiều văn học thi chương, chứ
không phải từ thời Giải Tấn (thời thuộc Minh) mới biết đến văn học. . .


2.2.

Về kinh tế

Lê Quý Đôn là một nho sĩ nhưng ơng cũng đã có đóng góp quan trọng về khoa học nơng
học, tiểu thủ cơng nghiệp, quan tâm chăm lo cải thiện đời sống nông dân. Ông nhấn mạnh sự tồn
tại tất yếu của các thành phần dân cư sĩ, nông, công, thương đồng thời ông chỉ ra vai trò trụ cột của
các thành phần này bằng tư tưởng tứ bất: Phi nông bất ổn, phi cơng bất phú, phi thương bất hoạt,
phi trí bất hưng.
Lê Quý Đôn sinh ra lớn lên và làm quan ở một quốc gia lấy nền kinh tế nông nghiệp là chủ
yếu, bản thân Lê Quý Đôn là một vị quan hết lịng vì dân, mong mỏi nhân dân có một cuộc sống
ấm no. Một trong những vấn đề mà Lê Q Đơn quan tâm đó là phát triển kinh tế, ổn định đời
sống cho nhân dân, chính vì thế ông đã hình thành được tư duy kinh tế và cấu trúc của nền kinh tế.
Đặc điểm cơ bản nhất trong tư duy kinh tế của Lê Quý Đôn là tư tưởng tam nông bao gồm nông
nghiệp, nông dân và nông thôn.
Nông nghiệp nước ta chủ yếu là nghề trồng lúa nước, phụ thuộc vào thiên nhiên cho nên
công tác thủy lợi là biện pháp hàng đầu để phát triển nông nghiệp, và phải thực hiện những kinh
nghiệm canh tác như: nhất thì nhì thục, nhất nước nhì phân, tam cần tứ giống. Ông cũng chủ trương
đẩy mạnh khai hoang lập đồn điền thực hiện biện pháp kết hơp phát triển kinh tế với quốc phịng.
Ơng đã đề xuất tư duy kinh tế, tìm hiểu cặn kẽ về nơng nghiệp, nông dân và nông thôn Việt
Nam để vạch ra con đường xây dựng nền kinh tế xã hội phát triển theo hướng bền vững.
Cống hiến của Ơng được cịn thể hiện qua số lượng lớn các tác phẩm thuộc nhiều lĩnh vực
khoa học khác nhau để lại cho hậu thế. Các tác phẩm Lê Q Đơn viết có tới hàng trăm cuốn, tuy
tác phẩm của ơng đã thất lạc ít nhiều nhưng những tác phẩm còn lại cũng là một kho tài liệu quý
giá để người đời sau khảo cứu về các lĩnh vực triết học, lịch sử, địa lí, thơ văn. . . của nước ta.
Lê Q Đơn cịn tiếp xúc, giao lưu, trao đổi văn hóa, học thuật với các quan chức, học giả
nhà Thanh, với sứ thần Triều Tiên và học giả Riukiu (Nhật Bản). Lê Quý Đôn tỏ ra rất xuất sắc
khi đối đáp với quan chức và học giả Trung Hoa.
Là một học giả uyên bác, với tinh thần tự tôn dân tộc cao, Lê Q Đơn có ý thức giới thiệu
văn hóa Việt Nam với các học giả các nước mà ơng gặp. Ngồi cuốn Trích diễm thi tập của Hồng

Đức Lương, ơng cịn đưa ra các tác phẩm Quần thư khảo biện, Thánh mô hiền lục phạm, Tiêu
152


Lê Quý Đôn – nhà bác học Việt Nam thế kỉ XVIII

tương bách vịnh của mình cho các nho thần danh tiếng nhà Thanh cùng các sứ thần Triều Tiên
xem và đề tựa. Họ đều khâm phục và coi ông là bậc “Thạc học của phương Nam”. Trạng nguyên
Hồng Khải Hy của Triều Tiên đánh giá Lê Quý Đôn là người “dám lật lại những luận án đã thành
nếp”, “dám phá toang những điểm sai lầm đã duyên tập lâu ngày”. Cuối cùng Hồng Khải Hy khẳng
định: “Thật là kiến thức rất mực vượt lên nghìn đời”. Lê Q Đơn là một vị quan thanh liêm, ln
nghĩ đến lợi ích của quốc gia, lợi ích của nhân dân, bên cạnh đó, ơng cịn là một nhà bác học lớn
của Việt Nam thời phong kiến.
Nhiều nhà nghiên cứu đã đánh giá Lê Quý Đôn là người học rộng, hiểu nhiều, tài năng
khơng có mơn nào là khơng hiểu biết sâu sắc. Giáo sư Văn Tân trong bài Kỉ niệm 250 năm ngày
sinh Lê Quý Đôn đã nhận xét: “Lê Quý Đôn đã nắm được tất cả các tri thức mà con người Việt
Nam hồi thế kỉ XVIII có thể có được” [2;26]. Có thể nói Lê Q Đơn là cái tủ sách tổng hợp biết
nói của nước Việt Nam hồi đầu thế kỉ XVIII, trên thì thiên văn, dưới thì địa lí, giữa là con người,
khơng gì Lê Q Đơn khơng biết, “hiểu biết của ông rất rộng lại rất sâu”. Tiến sĩ Trần Danh Lâm
đã viết: “Lê Quế Đường người Diên Hà, khơng sách gì khơng đọc, khơng việc gì khơng suy xét
đến cùng. Ngày thường ngẫm nghĩ việc gì đều viết ngay thành sách. Sách đầy bàn, đầy tủ, kể ra
khơng xiết”. Tham tụng Bùi Huy Bích là học trị của Lê Q Đơn, trong bài văn khấn khi ông mất
có nhận xét: “Thông minh nhất đời, đọc rộng các sách, trước thuật văn chương đủ dạy đời và lưu
truyền về sau. Nước ta trong vài trăm năm nay mới có một người như thầy” [2;262].

2.3.

Về văn hóa

Triết học: Trước hết Lê Quý Đôn là một nhà triết học của Việt Nam. Trong quá trình phát

triển của tư tưởng Việt Nam, rất ít người quan tâm đến vấn đề triết học, chỉ một vài nho sĩ như Chu
Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Hữu Trác, Lê Quý Đơn. Trong số ít người quan
tâm đến triết học thì duy chỉ có Lê Q Đơn là trình bày tư tưởng triết học rõ nét trên giấy trắng,
mực đen.
Trong tác phẩm Vân Đài loại ngữ, Lê Quý Đôn đã giành cho cả phần lí và khí gồm 53 điều
chỉ nói về triết học. Trong giới tư tưởng Việt Nam, Lê Quý Đôn là người viết nhiều về triết học
nhất. GS Văn Tân đã đánh giá: “Ơng đã giành cho mình chỗ ngồi cao nhất trong giới triết gia Việt
Nam thời phong kiến”.
Khi nghiên cứu một số tác phẩm của Lê Quý Đôn, chúng ta thấy ông chịu ảnh hưởng của
tư tưởng duy tâm, nhưng trong Vân Đài loại ngữ ông lại viết: “Đầy rẫy trong trời đất đều là khí cả.
Cịn chữ lí thì chỉ để mà nói rằng đó là cái gì thực hữu chứ khơng phải hư vơ. Lí khơng có hình
tích, nhân khí mà ra [4;25]. Vậy Lí tức là khơng khí. Âm dương cơ ngẫu, tri và hành, thể và dung
có thể đối nhau mà nói được”. Ơng khẳng định: Lí nhân khí mà ra, lí là ở trong khí, có khí rồi mới
có lí, lí là thuộc tính của khí, khơng có khí thì lí khơng dựa và đâu mà có được. Như vậy cơ sở tư
tưởng triết học của Lê Quý Đôn bước đầu đã hướng tới duy vật.
Lê Quý Đôn được đánh giá là nhà thư mục học đầu tiên của Việt Nam. Trong phần Văn
nghệ chí của tác phẩm Lê triều thơng sử, ông đã sưu tập được 150 bộ sách và sắp xếp thành 4 loại:
Hiến chương, thi văn, truyện ký, phương kĩ. Trong bộ thư mục này, Ông ghi đầy đủ những yếu tố
cơ bản của mỗi tài liệu cần phản ánh trong mỗi thư mục từ tên họ, học vị, chức tước của người
biên soạn, họ tên những người có liên quan đến sách, thời gian biên soạn và tên sách. Đối với từng
bộ sách, Lê Q Đơn cịn ghi tổng số quyển, số quyển còn lại hoặc đã mất hẳn. Ngồi ra, một số
trường hợp, Lê Q Đơn còn dẫn giải nội dung từng quyển và ghi chép ý kiến phê bình và nhận
xét vắn tắt của mình về bộ sách ấy. Phương pháp miêu tả thư mục của Lê Quý Đôn là phương pháp
miêu tả mà ngày nay chúng ta vẫn thường sử dụng.
Sử học: Lê Quý Đơn là một nhà bách khoa tồn thư, các cơng trình nghiên cứu của Lê Quý
153


Nguyễn Thị Thoa


Đôn là không kể xiết với hàng trăm tác phẩm trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Chỉ tính riêng trong
lĩnh vực sử học, ơng có các cơng trình nghiên cứu như: Đại Việt thông sử, Quốc triều tục biên, Phủ
biên tạp lục, Kiến văn tiểu lục và Lịch đại danh thần ngôn hành tục. . . những tác phẩm sử học của
ông thể hiện kiến thức lịch sử đồ sộ, uyên bác đồng thời cho thấy được quan điểm viết sử của Lê
Quý Đôn.
Năm 1775, Lê Quý Đôn được Trịnh Sâm bổ dụng vào chức tổng tài, quản lí cơng việc ghi
chép quốc sử. Tiêu chí để lựa chọn một người vào cơ quan biên soạn sử của nhà nước dưới thời
phong kiến rất chặt chẽ. Người làm cơng tác biên soạn lịch sử phải là người có trình độ học vấn
cao, có năng lực và tài giỏi. Hơn nữa, người viết sử phải là người có tâm hồn, có tấm lịng với sử
học, phải có phẩm chất, đạo đức sử học. Đạo đức sử học chính là tính trung thực khơng dối trá
trong khi viết sử. Ngồi ra người viết sử phải sát sao với thực tế, thường xun cập nhật thơng tin,
nắm chắc sử liệu thì mới làm tốt chức trách của một sử quan. Khi Lê Quý Đôn được bổ nhiệm chức
tổng tài quốc sử, ngồi u cầu có tố chất của một người viết sử cịn phải là người có khả năng điều
hành bộ máy biên soạn Quốc sử đồng thời là người có năng lực sửa chữa, biên tập được bộ Quốc
sử có tính tư tưởng nhất qn, tránh sai sót, nhầm lẫn. Qua việc Lê Quý Đôn được chúa Trịnh tin
tưởng và bổ nhiệm vào chức Tổng tài Quốc sử và thành tựu của ông cùng với các sử quan đương
thời trong việc biên soạn Quốc triều Bản kỉ tục biên thì Lê Q Đơn hồn tồn xứng đáng được
tơn vinh là nhà sử học lớn tài ba, một sử thần trung thực, thẳng thắn, một tổng tài nhiệt huyết, có
trách nhiệm.
Lê Quý Đôn coi trọng các sử quan và việc chép sử. Ông quan niệm rằng: “Chức trách của
sử quan: về thiên văn phải tường hiểu độ số trời đất, mặt trời, mặt trăng, về địa lí phải biết rõ khu
vực núi sơng bờ cõi, về dịng họ phải biết thứ tự tổ tiên, tổ mục, về chính trị phải biết lễ nhạc và
quân sự. . . ” [4;25]. Lê Quý Đôn cho rằng: “Đại để phép làm sử là: mỗi sự kiện phải nhặt đủ khơng
bỏ sót, để cho người ta sau khi mở ra xem rõ được manh mối, biết được đầu đuôi, tuy không được
mắt thấy tai nghe mà rõ ràng như chính mình được thấy” [4;21]. Với quan điểm viết sử như trên
nên các triều đại phong kiến của Việt Nam được trình bày trong các tác phẩm của Lê Q Đơn rất
tồn diện và đủ các mặt.
Trong khi ghi chép lịch sử ông luôn tôn trọng thực tế khách quan. Là một nho sĩ trung thành
với nhà Lê - Trịnh lại là người mang ý thức hệ Nho giáo chính thống nên Lê Q Đơn phải luôn
coi nhà Mạc là “ngụy triều”, thế nhưng khi ghi chép, trình bày các sự kiện lịch sử từ khi Mạc Đăng

Dung giết Cung hồng cướp ngơi và những việc làm sau đó của nhà Mạc, ơng viết một cách trung
thực như vốn có. Khi viết về Mạc Đăng Dung, Lê Quý Đôn tỏ ra hết sức khách quan. Qua những
ghi chép của Lê Quý Đôn, chúng ta thấy được cách ứng xử khôn khéo của Mạc Đăng Dung để đưa
ơng từ một võ quan cấp thấp đến vị trí một người nắm giữ mọi quyền bính trong tay. Mặc dù Mạc
Đăng Dung được Lê Quý Đôn xếp vào hạng “nghịch thần truyện” nhưng khi viết về giai đoạn cuối
triều Lê, Lê Quý Đôn vẫn cho ta thấy được sự bất lực của các vua Lê từ Lê Uy Mục đến Lê Cung
Hoàng, các quyền thần chém giết lẫn nhau. . . từ đó ơng cũng thừa nhận: “lúc này thần dân phần
nhiều xu hướng về Đăng Dung”. Khi viết về chính sách xây dựng đất nước của triều Mạc, Lê Q
Đơn có ghi: “Đăng Doanh thấy trong nước cịn nhiều trộm cướp, bèn ra lệnh cấm nhân dân các xứ,
không được mang gươm giáo, dao nhọn và các đồ binh khí đi ra ngồi đường. Nếu kẻ nào trái lệnh
cho pháp ty bắt trị tội. Từ đấy những người đi buôn bán chỉ đi tay không, không phải đem khí giới
tự vệ, trong khoảng mấy năm, trộm cướp biệt tăm, súc vật chăn nuôi, tối đến không phải dồn vào
chuồng, cứ mỗi tháng một lần kiểm điểm thôi. Mấy năm liền đều được mùa, nhân dân bốn trấn
đều được yên ấm” [4;276].
Khi đánh giá mối quan hệ ngoại giao giữa nhà Mạc với nhà Minh, Lê Q Đơn có những
ghi chép cụ thể. Khi nhà Minh phao tin sẽ tấn công nhà Mạc: “cha con Dăng Doanh rất sợ không
biết làm thế nào. Sai Nguyễn Văn Thái đem tờ biểu đến Quảng Tây xin hàng, tình nguyện theo
154


Lê Quý Đôn – nhà bác học Việt Nam thế kỉ XVIII

lệnh triều Minh phân xử. . . lại hối lộ rất hậu quan ba ty thuộc Lưỡng Quảng và các tướng dưới
quyền họ, các quan trấn thủ Châu Khâm, Châu Liêm. Các viên này nhận hối lộ, hứa sẽ chuyển
tâu về triều đình xin tha cho. Bởi thế thời kì tiến qn được tạm hỗn” [4;278]. Bằng những dịng
ghi chép này, chúng ta thấy được phần nào chính sách ngoại giao mềm dẻo của nhà Mạc đối với
nhà Minh trong buổi đầu thiết lập vương triều. Trong Đại Việt thông sử, Lê Quý Đôn cũng hé lộ
nguyên cớ việc nhà Minh đem quân đánh nhà Mạc là những cựu thần nhà Lê ln tìm mọi cách để
xin viện binh của nhà Minh.
Trong lĩnh vực giáo dục khoa cử và văn học, Lê Q Đơn cũng khẳng định những đóng góp

của nhà Mạc đối với nền văn hóa của dân tộc.
Như vậy, dù là một sử thần trong chính quyền Lê – Trịnh nhưng Lê Quý Đôn đã vượt qua
giới hạn đương thời để có được cái nhìn khách quan về triều Mạc.
Địa lí: là đại quan trong triều đình vua Lê và phủ chúa, nhưng ông thường được phái đi cai
quản nhiều địa phương như ở vùng Kinh Bắc, Thuận Quảng. . . Dù đi đến đâu, Lê Quý Đơn cũng
xem xét kĩ càng những vùng đất đó về các mặt: địa hình, đất đai, khí hậu, sơng ngịi, ruộng đất
dân cư, kinh tế, xã hội, tín ngưỡng, phong tục tập quán. . . rồi viết thành sách. Vì vậy, Lê Quý Đôn
được biết đến như một nhà địa lí học. Trong số những tác phẩm của mình, Lê Q Đơn có một tác
phẩm nổi bật về địa phương chí là Phủ biên tạp lục. Trong tác phẩm này, Lê Quý Đôn đã ghi chép
đầy đủ về vùng miền lãnh thổ như núi sơng, khí hậu, phong tục, nghề nghiệp, sản vật, nhân tài. . .
của vùng đất Thuận Hóa – Quảng Nam. Cuốn Phủ biên tạp lục đã cung cấp những kiến thức tường
tận về từng ngọn núi, con sơng, phong thổ, thành lũy, nhà trạm. Ngồi ra Phủ biên tạp lục còn cho
biết cặn kẽ danh số các phủ, huyện, tổng, xã, thôn ở các xứ Thuận Quảng. Đây là nguồn sử liệu
quan trọng cho các nhà địa lí học nghiên cứu. Nội dung Phủ biên tạp lục có giá trị về nhiều mặt
trong đó đặc biệt quan trọng là những trang viết về chủ quyền của nước ta đối với hai quần đảo
Trường Sa và Hoàng Sa. Đây là thư tịch cổ có giá trị, ghi chép toàn diện, rõ ràng về hai quần đảo
này, là bằng chứng lịch sử có sức thuyết phục chứng minh hai quần đảo này thuộc chủ quyền của
Việt Nam.
Lê Quý Đôn là một trong những nhà thơ lớn của dân tộc. Lê Quý Đôn đã dùng nhiều công
sức để biên khảo, sưu tuyển thơ ca thời Lý, Trần, Lê và tạo nên tác phẩm Tồn việt thi lục. Ơng là
người đầu tiên tổng kết thơ ca Việt Nam một cách quy mô nhất. Việc Lê Quý Đôn sưu tầm một
cách rộng rãi các tác phẩm thơ ca của toàn cõi Việt đã thể hiện lịng mong muốn của ơng cho đời
sau có được cái nhìn rộng nhất về gia tài thơ ca của nước nhà, đồng thời đó cũng là một cách để
thể hiện sự tự hào về nền văn hóa, văn hiến của dân tộc.
Lê Q Đơn đã sáng tác rất nhiều thơ văn bằng chữ Hán và chữ Nôm. Riêng hệ thống thơ
chữ Hán của ông đã được Ông sắp xếp trong tác phẩm Quế Đường thi tập. Đây là tác phẩm vừa
thể hiện tài năng thơ ca lại vừa thể hiện ý chí, cốt cách, tinh thần tự hào dân tộc sẵn sàng cống hiến
cho sự vẻ vang, rạng danh của nước nhà.
Lê Q Đơn cịn có những đóng góp to lớn trong lĩnh vực bảo tồn văn hóa dân gian. Theo
thư tịch cổ thì Lê Q Đôn đã viết tới khoảng gần 50 bộ sách, nhưng ngày nay đã bị thất lạc nhiều.

Tuy nhiên dù chỉ với khoảng 10 bộ sách được biết đích xác là của Lê Quý Đôn cũng đủ cho chúng
ta thấy được những đóng góp của ơng đối với nền văn hóa dân tộc. Những tác phẩm về triết học,
thơ văn, sử học và địa lí học. . . của ơng là kho tàng văn hóa phong phú để lại cho đời sau. Ta có
thể kể ra một số tác phẩm tiêu biểu như:
Vân Đài loại ngữ là cuốn bách khoa toàn thư đồ sộ nhất Việt Nam thời trung đại. Cuốn
sách này đã tập hợp các tri thức về triết học, khoa học, văn học. . . đạt đến trình độ phân loại, hệ
thống và khái quát hóa khá cao.
Kiến văn tiểu lục là tập bút kí nói về lịch sử và văn hóa Việt Nam thời Lý Trần đến thời Lê
155


Nguyễn Thị Thoa

Sơ. Sách đề cập đến nhiều lĩnh vực thuộc vương triều Lý, Trần từ thành quách, sông núi đến đường
sá, thuế má, phong tục tập quán, sản vật cho đến các lĩnh vực thơ ca, sách vở.
Phủ biên tạp lục được viết trong thời gian Lê Quý Đôn làm hiệp trấn ở Thuận Hóa. Tác
phẩm giới thiệu về tình hình núi sơng, thành qch, phong thổ, nhân vật xứ Thuận Hóa, cho biết
danh số các phủ, huyện, tổng, xã thơn, trang trại hai xứ Thuận Quảng lúc đó đồng thời cung cấp
tài liệu về chế độ ruộng đất, thuế khóa, chế dộ trưng binh, binh chế của xã hội Đàng Trong.
Cơng trình biên soạn lớn nhất về văn hóa của Lê Q Đơn là bộ Tồn việt thi lục tuyển
chọn 3291 bài thơ của 175 tác giả từ thời Lý đến thời vua Lê Tương Dực. Nhờ bộ sách này mà giới
nghiên cứu văn học cổ Việt Nam nắm bắt được một cách hệ thống về văn thơ thời Lý - Trần. Tất cả
các tác phẩm của Lê Quý Đôn đều nổi lên nội dung chủ đạo là khẳng định và đề cao văn hóa dân
tộc. Lê Quý Đơn ln có ý thức đưa vào trong tác phẩm cuả mình những hình ảnh của non sơng
đất nước. Ơng tự hào về nền văn hiến của dân tộc.
Khi đi sứ sang Trung Quốc, ông đã chủ động mang các tác phẩm của mình theo để khi có
cơ hội là giới thiệu nền văn hiến của dân tộc mình ra bên ngồi. Khi đọc Quần thư khảo biện và
Thánh mơ hiền phạm lục của Lê Q Đơn thì vị trạng nguyên Hồng Khải Hy của Triều Tiên đã
chân thành cảm kích nói rằng: “Được đọc sách và chuyện trị với q nhân tơi mới biết thêm một
điều là ngồi nền văn minh Trung Hoa cịn có cả nền văn minh Đại Việt nữa”. . .


3.

Kết luận

Gần 300 năm qua, tên tuổi và những đóng góp về sự nghiệp nghiên cứu khoa học và sáng
tác (trong nhiều lĩnh vực: tư tưởng chính trị, ngoại giao, kinh tế - xã hội, văn hóa, giáo dục, triết
học, văn thơ, lịch sử, địa lí. . . ) của Lê Quý Đôn đã được nhiều nhà nghiên cứu, nhà khoa học trong
nước, quốc tế đã có nhiều cơng trình nghiên cứu ngày càng sâu sắc thêm, đánh giá cho rằng Lê
Quý Đôn là một nhà bác học, là một danh nhân văn hóa của Việt Nam và thế giới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Trần Duy Phương, 2000. Lê Quý Đôn cuộc đời và giai thoại. Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
[2] 1979. Lê Q Đơn nhà bác học Việt Nam thế kỉ XVIII. Nxb Ti văn hóa và Thơng tin Thái Bình.
[3] Lê Q Đơn, 1972. Vân Đài loại ngữ. Nxb Tủ sách cổ văn, Ủy ban Dịch thuật Phủ Quốc vụ
khanh Đặc trách văn hóa.
[4] 1978. Lê Q Đơn tồn tập, tập III, Đại Việt thông sử. Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
ABSTRACT
Le Quy Don - Savan Vietnamese in 18th century
Nguyen Thi Thoa
Thai Binh Gifted Hight School
Le Quy Don was born in Thai Binh province. Being intelligent, inquisitive and agile, he was
regarded as a prodigy. He passed all the exams and was appointed to be an important government
official in the reign of Le – Trinh’s Emperor. He was always incorruptible and talented. During
his life time, his compositions and scientific research achieved a variety of accomplishments and
greatly contributed to such fields as national history, politics, diplomacy, army, social economy,
culture, education, philosophy and geography. He deserved to be honored as a great prolific
Vietnamese savant and cultural celebrity in 18th century.
Keywords: Le Quy Don, Savan, cultural celebrity.
156




×