Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

SKKN Bộ chữ học vần trong một giờ dạy Học Vần cho học sinh lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.47 KB, 17 trang )

Mục lục
STT

Nội dung

trang

1

Mục lục

2

Phần mở đầu

2

3

Lí do chọn đề tài

1

4

Mục đích nghiên cứu

1

5


Thời gian - Địa điểm

2

6

Đóng góp mới về mặt lý luận, về mặt thực tiễn.

2

7

Phần nội dung

3

8

Chương 1: Tổng quan

3

9

Chương 2 : Nội dung vấn đề nghiên cứu

5

10


Chương 3: Các phương pháp nghiên cứu,biện pháp
thực hiện, kết quả đạt được.

16

11

Phần kết luận- kiến nghị

18

12

Tài liệu tham khảo

20

13

Nhận xét của Hội đồng khoa học cấp trường,

21

Phòng GD & ĐT

1


I. Phần mở đầu
I.1.Lí do chọn đề tài

Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã đi xa nhưng câu nói của Bác năm xưa
vẫn còn vang vọng mãi trong tâm hồn mỗi người dân Việt Nam: “Non sơng
Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc việt Nam có bước tới đài
vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay khơng, chính
là nhờ một phần lớn ở cơng học tập của các cháu…”.
Câu nói như một lời nhắn nhủ, một lời khuyên chân thành đối với ngành
giáo dục, hãy vun đắp, ươm trồng mầm xanh thế hệ trẻ hôm nay để họ sớm
thực sự trở thành những chủ nhân tương lai của đất nước. Chính vì thế Đảng
và Nhà nước ta rất coi trọng nhân tố “trồng người”, và coi giáo dục là quốc
sách hàng đầu, bởi giáo dục là nền tảng, là thước đo sự vững chắc sự phồn
vinh của đất nước.
Cùng với sự phát triển của xã hội, giáo dục cũng đang từng ngày, từng giờ
vận động, đổi mới và hoàn thiện hơn. Đổi mới giáo dục là đổi mới về nội dung
chương trình, phương pháp dạy học phù hợp với nhận thức học sinh. Qua năm
năm thực hiện chương trình thay sách giáo khoa mới, việc vận dụng đổi mới
phương pháp trong dạy học đã được chú trọng. Tuy nhiên không phải ai cũng
sử dụng thành thạo, linh hoạt và hài hoà các phương pháp mới để mang lại
hiệu quả cao trong dạy học. Đặc biệt là việc sử dụng thiết bị dạy học trong một
giờ dạy. Nếu giáo viên không biết cách sử dụng sẽ dẫn đến không phát huy tác
dụng của đồ dùng mà còn làm ảnh hưởng đến chất lượng học tập của học sinh.
Như chúng ta đã biết, thiết bị dạy học là những công cụ lao động của giáo
viên và học sinh. Chúng là những yếu tố khơng thể thiếu được trong q trình
dạy-học. Với tư cách là công cụ lao động của giáo viên và học sinh, trong
những trường hợp được sử dụng đúng quy trình, phù hợp với đặc trưng bộ
mơn. Thiết bị dạy học đóng vai trị cung cấp nguồn thơng tin học tập, tạo ra
nhiều khả năng để giáo viên trình bày nội dung bài học một cách sâu sắc,
thuận lợi, hình thành được ở học sinh những phương pháp học tập tích cực,
chủ động.
Với học sinh lớp Một, ý thức tư duy của các em còn chưa được bộc lộ rõ
nét. Các kiến thức phải được hình thành qua trực quan là chủ yếu bởi từ đồ vật

sự vật hiện tượng để rút ra kiến thức bài học. Do vậy việc sử dụng thiết bị dạy
học trong một giờ dạy càng được coi trọng.
Qua thực tế giảng dạy cũng như công tác dự giờ thăm lớp, tôi thấy nhiều
giáo viên đã thực sự chủ động vận dụng phương pháp mới trong dạy học nhằm
giúp học sinh tiếp thu bài một cách tốt nhất. Nhưng hầu hết giáo viên chỉ dẫn
dắt, gợi ý bằng diễn thuyết, việc sử dụng thiết bị, đồ dùng dạy học đã có nhưng
chưa triệt để. Chính vì thế học sinh nắm kiến thức nhanh nhưng lại chóng
quên.
2


Làm thế nào để giúp học sinh nắm được bài, lưu giữ kiến thức được lâu
hơn tạo cho giờ học một khơng khí thoải mái, nhẹ nhàng, sử dụng triệt để đồ
dùng dạy học có hiệu quả đó là điều tôi thấy cần được quan tâm . Năm học
2015-2016 tôi được phân công dạy lớp Một tại cơ sở Lang Cang – trường Tiểu
Học Đồn Đạc, nhận thức được điều đó và để vận dụng có hiệu quả đồ dùng
dạy học, tôi rất tâm đắc và đi sâu nghiên cứu việc sử dụng “Bộ chữ học vần
trong một giờ dạy Học Vần cho học sinh lớp 1”.
I.2.Mục đích nghiên cứu
Khi thực hiện đề tài này tôi mong muốn thông qua việc khảo sát tình hình
thực tế việc sử dụng thiết bị dạy học trong một giờ học vần của giáo viên – học
sinh. Từ đó có những ý kiến đề xuất, những giải pháp khắc phục tồn tại, khó
khăn, nhằm nâng cao hiệu quả việc sử dụng thiết bị dạy học trong mơn Tiếng
Việt nói chung và phân mơn Học Vần nói riêng.
I.3.Thời gian - địa điểm
I.3.1. Thời gian
Do điều kiện thời gian có hạn, đề tài chỉ đi sâu tìm hiểu cơ sở khoa học của
việc sử dụng thiết bị dạy học trong phân mơn Học Vần. Tìm hiểu các phương
pháp, cách thức sử dụng bộ chữ học vần biểu diễn của giáo viên và bộ chữ học
vần thực hành của học sinh đã được vận dụng trong nhiều năm qua (từ khi thay

sách giáo khoa mới). Từ đó rút ra những nhận xét, đánh giá và kiến nghị cụ thể
để nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng bộ chữ học vần trong các giờ dạy Học Vần
lớp Một.
I.3.2. Địa điểm
Nghiên cứu việc sử dụng thiết bị dạy học-Bộ chữ học vần trong phân môn
Học Vần của giáo viên khối Một trong toàn trường và học sinh lớp Một cơ sở
Lang Cang - trường Tiểu Học Đồn Đạc.
I.3.Đóng góp mới về mặt lí luận, về mặt thực tiễn
I.3.1.Đóng góp mới về mặt lí luận:
Xác định cơ sở lí luận và pháp lí của việc sử dụng thiết bị dạy học trong các
giờ dạy.
I.3.2.Đóng góp mới về mặt thực tiễn:
Phân tích thực trạng việc sử dụng thiết bị dạy học của các giáo viên khối
Một trường Tiểu Học Đồn Đạc, Đề xuất, lí giải những biện pháp để sử dụng
có hiệu quả thiết bị - đồ dùng dạy học.

3


II.Phần nội dung
II.1.Chương 1 : Cơ sở lý luận của đề tài
Trong những năm học vừa qua, việc đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng phát huy tính tích cực học tập của học sinh đã được giáo viên Tiểu học
quan tâm và thực hiện có hiệu quả. Song song với sự đổi mới sách giáo khoa,
thì đồ dùng – thiết bị dạy học cũng được trang bị rất nhiều như máy chiếu, đầu
video, ti vi, tranh ảnh, bản đồ, bộ chữ học vần…. Đặc biệt khi thiết bị dạy học
chưa có điều kiện trang bị đầy đủ tới trường lớp thì tranh, ảnh phục vụ nội
dung học tập là những cơng cụ tuy đơn giản nhưng đã góp phần hỗ trợ đáng kể
cho hoạt động dạy học.
Thiết bị dạy học có vai trị, tác dụng trong việc hướng dẫn, thuyết trình,

minh họa góp phần quan trọng tạo kích thích hứng thú học tập và hình thành
kiến thức cho học sinh
II.2. Chương 2: Thực trạng việc sử dụng thiết bị dạy học ở trường Tiểu
Học Đồn Đạc
II.2.1. Về phía nhà trường – giáo viên
Chú trọng đến vai trò và tác dụng của việc sử dụng thiết bị dạy học,
trường Tiểu Học Đồn Đạc rất coi trọng việc trang bị và sử dụng thiết bị dạy
học trong các giờ dạy đạt hiệu quả cao góp phần đổi mới phương pháp dạy
học. Nhà trường luôn phát động phong trào sử dụng triệt để đồ dùng dạy học
trong các giờ học, tự làm thêm đồ dùng dạy học phục vụ bài giảng. Trong các
tiết dự giờ Ban giám hiệu, Tổ chuyên môn nhà trường luôn chú ý tới việc sử
dụng thiết bị dạy học của giáo viên với yêu cầu đảm bảo tính khoa học, tính
thẩm mĩ. Có thể khẳng định rằng các tiết học có sử dụng đồ dùng dạy học nếu
giáo viên khéo léo, linh hoạt thì giờ học trở nên nhẹ nhàng, hiệu quả.
Dưới sự chỉ đạo sát sao của Ban giám hiệu cũng như Tổ chuyên môn nhà
trường, bản thân tôi cũng như các giáo viên khác đặc biệt là giáo viên khối
Một đều nhận thức được tầm quan trọng của thiết bị dạy học nói chung, bộ chữ
học vần nói riêng trong các giờ dạy Học Vần nhằm giúp học sinh nắm vững
cấu tạo âm, vần, tiếng, từ … theo yêu cầu nội dung của phân môn. Qua điều tra
cho thấy 80% giáo viên dạy lớp Một cho rằng: sử dụng thường xuyên bộ chữ
học vần trong các giờ Học Vần là rất cần thiết, 20% cho rằng là cần thiết. Để
có được kết quả này tơi đã tiến hành điều tra 5 giáo viên khối Một ở 5 cơ sở
của nhà trường ( Lang Cang, Làng Han, Nam Kim Giữa, Tân Tiến, Nước
Đừng)
Điều tra về mức độ cần thiết việc sử dụng thiết bị dạy học trong các giờ
dạy của giáo viên khối Một trong nhà trường:

4



Số lượng
điều tra

Số
lượng

Giáo viên

5

Mức độ cần thiết
Số lượng
1

%
20%

Rất cần thiết
Số lượng
4

%
80%

Từ những nội dung trên cho thấy việc sử dụng thiết bị dạy học nói chung,
bộ chữ học vần nói riêng trong các giờ dạy học vần là rất cần thiết nhằm nâng
cao hiệu quả giờ học.
* Một số tồn tại :
- Một số giáo viên tuy đã nhận thức được tầm quan trọng của việc sử
dụng bộ chữ học vần nhưng lại chưa linh hoạt, khéo léo trong khi dạy.

- Một số ít giáo viên lại q máy móc, dập khn, rườm rà, hiệu quả giờ
học khơng cao.
- Có giáo viên chỉ coi cách sử dụng bộ chữ là hình thức, chưa phát huy
tác dụng của nó.
- Một số ít giáo viên ngại sử dụng bộ chữ khi dạy học vì sợ mất nhiều
thời gian.
II.2.2. Về phía học sinh – cơ sở vật chất
II.2.2.1. Tìm hiểu cơ sở vật chất, thiết bị mơn học của nhà trường:
Nhìn chung cơ sở vật chất của nhà trường đảm bảo tốt cho việc dạy và
học. Thiết bị dạy học như sách giáo khoa, sách giáo viên của giáo viên được
trang bị đầy đủ giúp cho giáo viên có điều kiện nghiên cứu, thiết kế bài dạy
của mình. Tuy nhiên bộ chữ học vần thực hành biểu diễn của giáo viên và bộ
ghép chữ của học sinh đã bị hỏng rất nhiều vì đã qua nhiều năm sử dụng nên
ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình dạy và học.
II.2.2.2. Khảo sát chất lượng đầu năm:
Ngay sau khi nhận lớp, tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng của học sinh
về việc nhận biết chữ cái ở lớp mẫu giáo:
- Tổng số học sinh: 5 trong đó
- Nữ: 2 em
- Nam: 3 em
- Dân tộc: 5 em
+ Nhận diện đúng 29 chữ cái: 0 em
+ Nhận diện được 1/2bảng chữ cái: 1 em
+ Nhận diện được 1/4bảng chữ cái: 1 em
+ Chưa nhận diện được chữ cái nào:3 em (chưa học qua Mẫu giáo)
5


Qua hai tuần thực học, tôi khảo sát việc ghép âm, vần, kết quả như sau:
Nhận được các âm và Nhận được âm, nhưng sử Chưa biết tìm âm và sử

biết sử dụng bảng cài. dụng bảng cài còn lúng dụng bảng cài.
túng,chậm.
2 em =40%

1 em = 20%

2 em = 40%

II.2.2.3. Tìm hiểu ngun nhân:
Qua nghiên cứu, tìm hiểu tơi được biết nguyên nhân dẫn đến chất lượng
ghép âm, vần, tiếng, từ của học sinh cịn chậm đó là:
- Học sinh chưa phân biệt được mặt chữ (nhận diện chữ cái) nên ghép sai.
- Nhiều học sinh nhận diện được mặt chữ nhưng chưa phân biệt được phải
ghép chữ cùng màu. Ví dụ: Ghép tiếng do-chữ d màu đỏ, chữ o màu xanh…
- Nhiều học sinh nhận diện đúng chữ cái nhưng chưa biết đâu là chân để
gài nên gài ngược.
- Khi ghép tiếng, nhiều học sinh chưa phân biệt được phía trước bảng gài và
phía sau bảng gài nên ghép ngược hoặc giơ bảng ngược. Ví dụ: Tiếng bê thì học
sinh ghép thành êb.
- Một số dấu thanh (thanh sắc, thanh huyền) học sinh chưa phân biệt được.
Nhiều học sinh phân biệt được nhưng trong quá trình sử dụng vẫn còn nhầm
lẫn. Thực tế dấu huyền và dấu sắc trong bộ chữ cũng khó phân biệt.
- Nhiều con chữ trong bộ chữ đã bị xước không cài được học sinh phải tìm
các con chữ khác nên mất rất nhiều thời gian.
- Vì là bộ chữ của nhà trường, nên học sinh khơng có điều kiện làm quen và
tiếp xúc nhiều ngoài giờ Học vần. Học xong, giáo viên phải thu lại và cất vào
thư viện của nhà trường để đảm bảo đỡ mất mát, hỏng hóc và sử dụng lâu dài.
- Sau khi khảo sát chất lượng, thấy kết quả rất yếu, tơi thực sự lo ngại bởi vì
ngay cơ sở Lang Cang - gần điểm trường chính của trường đa số các em được
học qua chương trình Mẫu giáo, thế mà nhiều em chưa nhận diện được mặt

chữ cái.
II.3. Chương 3 : Các phương pháp nghiên cứu, biện pháp thực hiện – kết
quả đạt được
II.3.1.Các phương pháp nghiên cứu:
- Nhóm các phương pháp nghiên cứu lí luận: Đọc tài liệu, tạp chí giáo
dục…
-Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp quan sát, phương
6


pháp điều tra, trao đổi.
II.3.2 Các biện pháp thực hiện:
- Sau hai tuần học, tôi sắp xếp lại chỗ ngồi: Em học khá, giỏi ngồi với em
học yếu để kèm cặp, hỗ trợ giúp đỡ nhau.
- Mỗi em phải có một bộ chữ học vần, một bộ sách giáo khoa, bảng con,
phấn, giẻ lau…được giáo viên kiểm tra và yêu cầu gia đình các em chuẩn bị
đầy đủ.
- Cho học sinh làm quen với bộ chữ cái, dấu thanh, thanh cài…:
+ Có 29 chữ cái sẽ được học, được ghép; mỗi chữ cái có hai mặt, một mặt
màu xanh, một mặt màu đỏ. Trong mỗi mặt của chữ có gạch đỏ ở dưới chữ
biểu hiện đó là chân chữ, phần để cài vào bảng cài. Tôi quy định rõ nếu phần
học âm nên sử dụng một màu đỏ.
Ví dụ: Ghép âm kh học sinh phải tìm con chữ k và con chữ h-cài mặt màu
đỏ để khi giơ lên ta nhìn thấy âm kh màu đỏ.
- Nhưng khi sang phần vần thì ghép âm đầu màu xanh, vần màu đỏ. Ví dụ:
Ghép tiếng vải thì u cầu học sinh chọn con chữ v cài trước, quay mặt màu
xanh lên; tiếp theo chọn con chữ a và con chữ i để cài, quay mặt màu đỏ lên.
Vì như thế học sinh phân biệt được cấu tạo của tiếng mới.
- Với dấu thanh: Phải cho học sinh thấy được phần móc quay vào phía
trong để gài trên đầu chữ.

- Thanh cài: đặt trên mặt bàn, phía trước là bên tay trái giúp học sinh phân
biệt được để ghép theo thứ tự từ trái sang phải. Ví dụ âm nào đứng trước ta
ghép trước, âm nào đứng sau ta ghép sau. Như vậy , học sinh sẽ khơng ghép
lẫn lộn.
- Trong q trình giảng dạy, tôi cố gắng giúp học sinh nhận diện đúng mặt
chữ cái. Cuối mỗi tiết Học vần , tôi thường tổ chức trò chơi nhằm củng cố việc
nhận diện chữ cái, âm, vần, tiếng, từ cho học sinh. Ví dụ: Trị chơi “Tìm đúng,
tìm nhanh, ếch ngồi lá sen...”:
- Giáo viên nói: + bờ: Học sinh phải tìm nhanh trong bộ chữ con chữ b giơ
lên.
+ hờ: Học sinh phải tìm nhanh trong bộ chữ con chữ h giơ
lên.
- Giáo viên thường xuyên đưa ra nhiều hình thức thi đua: giữa các tổ,
nhóm, cá nhân nhằm động viên, khuyến khích học sinh; thúc đẩy sự hỗ trợ của
các em khá giỏi giúp các em yếu để các em cố gắng vươn lên.
Ví dụ: Giáo viên yêu cầu các tổ thi đua ghép nhanh tiếng “mưa”. Các em
khá giỏi có thể ghép rất nhanh, tuy nhiên vẫn có một số em ghép được nhưng
hơi chậm, các bạn trong tổ có thể giúp bạn mình bởi thành tích được xếp
chung của cả tổ.
7


- Thời gian đầu năm học, học sinh mới tiếp xúc và làm quen với bộ chữ,
giáo viên đưa ra yêu cầu nhẹ nhàng, sau đó tăng dần về tốc độ thời gian và kĩ
thuật ghép chữ.
- Ngoài bộ chữ học vần, ta thấy tranh ảnh, mẫu vật…là những thiết bị dạy
học không thể thiếu được trong một giờ dạy. Cần phải kết hợp hài hoà, linh
hoạt các thiết bị dạy học sao cho có hiệu quả, phù hợp đặc điểm tâm sinh lí lứa
tuổi, phù hợp đặc trưng bộ môn. Không nên lạm dụng quá mà biến đồ dùng,
thiết bị dạy học như là một mẫu vẽ ở môn Mĩ thuật.

Thật vậy, khi trẻ mới bước vào lớp một, các em chưa biết đọc, biết viết.
Trong các giờ Học vần, nội dung học sinh được tiếp xúc là tranh ảnh (quả me,
con ve, con bê, bà, con cá, con bị…). Những hình ảnh này là điểm tựa để trẻ
em nắm vững âm, vần cần học, nắm được đặc điểm, mối quan hệ giữa các âm,
vần.
Tuy nhiên, việc sử dụng thiết bị dạy học cũng phải được xây dựng trên
một kế hoạch cụ thể. Đầu năm học, tôi nghiên cứu kỹ nội dung, chương trình,
phân định rõ từng loại bài, dạng bài sử dụng thiết bị dạy học đối với từng dạng
bài như sau:
1. Dạng bài thứ nhất: làm quen với âm và chữ.
Loại bài này khi dạy tôi chủ yếu dựa vào tranh sách giáo khoa, hoặc tranh
ảnh vật mẫu để giới thiệu chữ hoặc dấu ghi thanh mới.
2. Dạng bài thứ hai: Dạy học âm và vần mới.
Với dạng bài này tơi có thể sử dụng theo 2 cách sau:
a. Cách 1:
Dựa vào tranh sách giáo khoa, hoặc tranh ảnh , vật mẫu đã chuẩn bị để
giới thiệu chữ ghi âm hoặc vần mới. Ví dụ khi dạy bài vần “ai” tôi cho học
sinh quan sát tranh và hỏi:
- Tranh vẽ gì?
- Học sinh trả lời: tranh vẽ “chùm vải”
- Giáo viên giới thiệu: trong từ “chùm vải” có tiếng “vải” , trong tiếng “vải”
có vần “ai” chúng ta sẽ học hôm nay.
b. Cách 2:
Giáo viên giới thiệu trực tiếp: Hôm nay chúng ta học vần ai.
3. Dạng bài thứ ba: Ơn tập âm, vần.
Tơi cho học sinh thực hành ghép tiếng có âm đầu đã học ở cột dọc và vần đã
học ở dịng ngang. Ví dụ: giáo viên chỉ vào ô trống bất kỳ ở phần tiếng mẫu,
hướng dẫn học sinh dóng sang cột dọc xem âm đầu là gì và ở dịng ngang là vần
gì để ghép đúng tiếng mới.
Trong phân môn học vần , thiết bị dạy học được sử dụng với mục đích là

8


giúp học sinh nắm được cấu tạo của âm, vần, tiếng, từ; hiểu được nghĩa của từ
mẫu, câu mẫu, câu ứng dụng. Khi cho học sinh quan sát tranh, giáo viên cần
gợi mở để trẻ nắm dược những đặc điểm cơ bản của đối tượng.Sử dụng đồ
dùng thiết bị đúng lúc, đúng cách mới đem lại hiệu quả.
Ví dụ: Dùng tranh “quả khế” đẻ dạy bài âm kh. Mục đích giới thiệu tranh
nhằm giúp học sinh có biểu tượng đúng về quả khế và nắm vững âm kh, chữ
kh. chống khuynh hướng cho học sinh quan sát quá tỉ mỉ, biến giờ học vần
thành giờ quan sát tranh và trả lời câu hỏi. tránh suy diễn quá xa như: phân tích
hình tượng cây khế trong truyện “cây khế” biến giờ học vần thành giờ giảng
văn...
II.3.3. Thực nghiệm việc sử dụng thiết bị dạy học trong giờ dạy.
A. Phần âm:
Bài 7: ê-v
Vào đầu giờ học, tôi cho học sinh mở sẵn bộ chữ để rên bàn, tôi tiến
hành kiểm tra bài cũ. sau đó giới thiệu bài: Hơm nay chúng ta học âm ê-v và
ghi bảng. sau đó giáo viên đọc ê-v, gọi 2 học sinh đọc lại.
1. dạy âm ê:
Yêu cầu học sinh tìm âm ê cài bảng (nhắc học sinh cài màu đỏ lên trên).
Ghép xong, tôi cho học sinh giơ bảng để kiểm tra, đồng thời tôi gài ê lên bảng
cài.gõ thước lần 2 cho học sinh quay bảng lại để so sánh và đối chiếu với chữ
mẫu của giáo viên. Tơi hỏi:
- Có âm ê, muốn có tiếng bê ta ghép thêm âm gì, đứng ở đâu?
- Học sinh trả lời: Có âm ê, muốn có tiếng bê ta thêm âm b đứng trước âm ê.
Giáo viên yêu cầu học sinh tìm trong bộ chữ để ghép tiếng bê. Lưu ý chữ b
ghép màu xanh.
- Giáo viên nhận xét cách ghép sau đó giáo viên ghép bảng tiếng bê. Gõ thước
để học sinh quay bảng lại đối chiếu với mẫu ghép của giáo viên để chỉnh sửa.

- Gọi học sinh nêu cấu tạo tiếng bê: b+ê
- Luyện đánh vần + đọc trơn tiếng bê( cá nhân + đồng thanh)
Tiếp theo tôi treo tranh vẽ con bê lên bảng, học sinh quan sát, tơi hỏi:
- Tranh vẽ gì?
- Học sinh trả lời: tranh vẽ con bê.
- Giáo viên nói: Con bê là con bị con, sau đó giáo viên viết bảng tiếng bê và
cho học sinh đọc
- Luyện đọc( từ trên xuống): ê - bê - bê.
2. Dạy âm v (Quy trình tương tự ):
Phần sử dụng tranh: tơi thường xun cho học sinh quan sát tranh phóng
9


to để thu hút sự chú ý của học sinh. Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng chuẩn
bị được tranh phóng to, những lúc đó tơi cho học sinh quan sát tranh sách giáo
khoa.
B. Phần vần:
Bài 86: ôp - ơp
I. Mục tiêu:
- Học sinh nhận biết được cáu tạo vần ôp- ơp, tiếng hộp, lớp.
- Phân biệt được sự khác nhau giữa 2 vần để đọc, viết đúng vần, tiếng, từ có
vần ơp - ơp.
- Đọc đúng các từ ứng dụng và câu ứng dụng trong bài.
- Phát triển lời nói tự nhiên theo chủ đề: Các bạn lớp em.
- Giáo dục học sinh luôn yêu mến mái trường, biết giữ gìn trường lớp sạch
đẹp.
II. Đồ dùng dạy học:
- Giáo viên: 1hộp sữa, tranh lớp học, bảng cài, bộ chữ học vần, 1gói bánh xốp.
- Học sinh: Bộ chữ học vần.
III. Các hoạt động dạy học chủ yếu:

A. kiểm tra bài cũ:
- 2 học sinh đọc bài 85:

ăp - âp

- Cả lớp viết bảng con: cá mập, gặp gỡ
- Giáo viên nhận xét, cho điểm.
B. Bài mới:
1. Giới thiệu bài: Trực tiếp →Giáo viên viết bảng ôp - ơp → 2 học sinh đọc.
2. Dạy vần mới:
a. Vần ôp:
Giáo viên yêu cầu học sinh tìm trong Học sinh thực hành ghép vần→Giơ bảng
bộ chữ âm ô và âm p để ghép vầm ôp cài.
(ghép cùng màu đỏ )
- Yêu cầu nêu cách ghép?
- Giáo viên ghép bảng cài vần ôp. (Đây - Ghép ô trước, ghép p sau.
là phần khẳng định kiến thức đúng để
định hướng cho học sinh nhận thức
đúng )
- Gọi học sinh nêu cấu tạo vần ôp?
- Gồm 2 âm ghép lại: âm ô đứng trước,
10


âm p đứng sau.
- Giáo viên hướng dẫn phát âm + đọc - Học sinh luyện đọc cá nhân + đồng
trơn vần ôp
thanh, giáo viên chỉnh sửa.
- Giáo viên hỏi: Có vần ơp, muốn có - Học sinh suy nghĩ, tìm ghép tiếng hộp.
tiếng hộp ta ghép thêm âm gì, đứng ở (phần này tôi yêu cầu ghép âm đầu màu

đâu và dấu gì?
xanh, vần màu đỏ ).
- Gọi học sinh nêu cấu tạo tiếng hộp?

- h + ôp + dấu nặng dưới ô

- Giáo viên ghép bảng cài để học sinh
kiểm tra và đối chiếu, sau đó chỉnh
sửa.
- Hướng dẫn phát âm + đọc trơn tiếng
- Học sinh đọc cá nhân, nhóm, đồng
hộp?
thanh. Giáo viên chỉnh sửa.
- Giáo viên cho học sinh quan sát hộp
- Trên tay thầy cầm hộp sữa.
sữa và hỏi: Trên tay thầy cầm gì?
- bổ cơ thể →Ghi từ “hộp sữa” lên - Học sinh luyện đọc( nếu lớp yếu, tôi
cho học sinh đánh vần sau đó mới đọc
bảng.
trơn )
- Gọi học sinh đọc lại bài trên bảng:
- 3-4 học sinh đọc. Giáo viên chỉnh sửa.
ơp- hộp –hộp sữa.
b. Dạy vần ơp (quy trình tương tự)
Tuy nhiên ở phần từ khố tơi cho học
sinh quan sát tranh phóng to SGK và
hỏi:
- Bức tranh vẽ gì?
- Lớp học có những ai?


- Bức tranh vẽ lớp học.

- Lớp học có cơ giáo và các bạn học
- Giáo viên viết bảng từ khoá “lớp sinh đang ngồi học.
học”
- Học sinh luyện đọc.
- 2 – 3 học sinh nêu, giáo viên chốt lại.
+ giống nhau: đều có p đứng cuối
c. So sánh sự giống và khác nhau giữa
+ khác nhau: âm đầu vần ô- ơ.
2 vần ôp - ơp?
d. Dạy từ ứng dụng:
- Giáo viên viết bảng từ ứng dụng:
tốp ca

hợp tác

Bánh xốp

lợp nhà

- Học sinh luyện đọc cá nhân + đồng
thanh→Tìm tiếng có vần mới học, giáo
viên gạch chân: tốp- xốp – hợp – lợp.

11


- Giải nghĩa từ:
+ bánh xốp: đưa hộp bánh xốp cho học

sinh quan sát.
+ Các từ còn lại giáo viên giải thích
bằng tranh hoặc bằng lời.
*Khi dạy sang tiết 2:
- Phần bài ứng dụng tôi cho học sinh quan sát tranh trong sách giáo khoa
và yêu cầu nêu nội dung bức tranh. Giáo viên chốt lại và đưa ra câu ứng dụng
→ học sinh luyện đọc. Sau đó tơi cho học sinh tìm tiếng chứa vần mới học,
phân tích cấu tạo tiếng đó.
- Phần luyện nói: Tơi cũng cho học sinh quan sát tranh trong sách giáo khoa
và đưa ra một số câu hỏi gợi ý để học sinh luyện nói với chủ đề “Các bạn lớp
em”.
Sau khi học sinh luyện nói (4-5 em), tơi u cầu học sinh liên hệ thực tế lớp
mình.
-Phần củng cố bài: Tơi thường tổ chức cho học sinh thi tìm tiếng có vần
mới học (ngoài bài ). Học sinh sử dụng bộ chữ để ghép tiếng, từ và giơ bảng
theo hiệu lệnh của giáo viên. Giáo viên ghi nhanh các từ đúng lên bảng. Như
vậy, học sinh biết được mình ghép đúng hay sai và giới thiệu còn rất nhiều
tiếng, từ chứa vần mới học.
Qua việc hướng dẫn sử dụng thiết bị dạy học ở môn Tiếng Việt lớp Một
vào thực tế giảng dạy, học sinh lớp tơi đã có nhiều tiến bộ rõ rệt. Đa số các em
ghép đúng âm, vần, tiếng, từ tương đối thành thạo. Giờ học sôi nổi, các em tập
trung học tập, thi đua lẫn nhau, giáo viên dễ dàng phát hiện các học sinh khá
giỏi, học sinh yếu kém để bồi dưỡng, phụ đạo. Tôi vẫn thường xuyên cho học
sinh sử dụng đều đặn bộ chữ trong các giờ Học Vần, đảm bảo đủ thời gian, học
sinh tiếp thu bài tốt. Tuy nhiên, phần luyện nói theo nội dung tranh vẫn cịn
hạn chế bởi trong lớp tơi 100% là học sinh dân tộc, vốn Tiếng Việt ít ỏi, các
em bị ảnh hưởng tiếng nói của dân tộc mình, địa phương mình.
II.3.4. Kết quả đạt được :
II.3.3.1. Học kì 1
Học sinh ghép thành Học sinh ghép thành thạo, Học sinh ghép cịn

thạo, nói được nội dung nhưng nói nội dung tranh lúng túng.
tranh.
còn hạn chế.
3 em = 60%

1em = 20%

1 em = 20%

Kết quả chung học kỳ I môn Tiếng Việt:
12


Học lực

Số lượng

Tỉ lệ %

Giỏi

0

0%

Khá

1

20%


Trung bình

3

60%

Yếu

1

20%

Sang học kỳ II, tơi tiếp tục vận dụng những kinh nghiệm trong việc sử
dụng thiết bị dạy học, phát huy tích cực hơn nữa, triệt để hơn nữa để nâng cao
chất lượng giờ Học Vần. Nhờ sự kiên trì và lịng nhiệt tình, đến cuối năm học
kết quả đạt được của môn Tiếng sẽ được nâng lên:
III. Phần kết luận – kiến nghị
Thiết bị dạy học là phương tiện giúp giáo viên chuyển tải kiến thức tới
học sinh. Nếu giáo viên khéo léo, linh hoạt khi vận dụng sẽ phát huy được tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Hiệu quả giờ học được nâng lên rõ
rệt.
Việc sử dụng thiết bị dạy học không phải một sớm, một chiều mà giáo
viên cũng như học sinh có thể sử dụng thành thạo ngay được mà phải sử dụng
thường xuyên, liên tục mới nảy sinh những vấn đề khúc mắc, mới rút ra được
những kinh nghiệm cho bản thân.
Với tinh thần cần mẫn, trung thực, cầu thị, khiêm tốn học hỏi trong cơng
tác tìm hiểu nghiên cứu cách sử dụng thiết bị dạy học, bản thân tôi nhận thấy
rằng : để thiết bị dạy học thực sự có tác dụng, nhằm nâng cao chất lượng dạy
học, người giáo viên cần:

1. Tâm huyết với nghề, có trách nhiệm và tình thương u sâu sắc đối với học
sinh.
2. Phải thật sự kiên trì, mềm dẻo, khắc phục mọi khó khăn ban đầu để uốn nắn
và hướng học sinh vào nề nếp ổn định.
3. Cần dành thời gian để nghiên cứu và sử dụng thành thạo thiết bị dạy học.
4. Giáo viên phải phát âm chuẩn tiếng Việt.
5. Cần tìm hiểu, nắm bắt đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, hồn cảnh gia đình học
sinh. Cần động viên khen ngợi kịp thời những cố gắng của các em. Hạn chế
chê bai trước mặt học sinh.
6. Bản thân giáo viên phải thường xuyên tự học, tự bồi dưỡng nâng cao trình
13


độ chuyên môn nghiệp vụ, đặc biệt cần nghiên cứu kỹ tài liệu hướng dẫn cách
sử dụng thiết bị dạy học, tài liệu hướng dẫn giảng dạy học sinh vùng khó…Cải
tiến phương pháp giảng dạy phù hợp với đối tượng học sinh.
7. Nghiên cứu kỹ và làm thử cách sử dụng thiết bị dạy học trước khi lên lớp.
8. Phối hợp nhịp nhàng các thủ pháp trong dạy học.
9. Phải có kế hoạch làm thêm đồ dùng dạy học phục vụ bài giảng.
10. Sau mỗi bài dạy, cần có phần đánh giá, rút kinh nghiệm để giờ sau thực
hiện tốt hơn.
Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân tôi về việc sử dụng thiết bị
dạy học trong một giờ Học Vần. Qua quá trình thực hiện và bước đầu có kết
quả khả quan. Tuy nhiên đây khơng phải là cách làm duy nhất, hay nhất mang
lại hiệu quả cao nhất, mà mỗi người có một cách làm riêng, hướng đi riêng biệt
tuỳ thuộc vào đối tượng học sinh của mình.
Mặc dù đã có rất nhiều cố gắng, song do thời gian có hạn nên đề tài
khơng tránh khỏi thiếu xót và những khiếm khuyết. Tơi rất mong được sự góp
ý, chỉ bảo chân thành của Ban giám hiệu trường Tiểu học Đồn Đạc, Hội đồng
giám khảo để tôi có thêm vốn kiến thức, vững vàng hơn trong giảng dạy, góp

phần đưa sự nghiệp giáo dục của xã Đồn Đạc nói riêng, huyện nhà nói chung
ngày một đi lên.
Đồn Đạc, ngày 5 tháng 3 năm 2016
Người viết chuyên đề.

Vi Thị Gấm

14


IV.Tài liệu tham khảo
- Thiết kế giảng daỵ Tiếng Việt 1- tập 1, tập 2
- Sách giáo viên Tiếng Việt tập 1, tập 2
- Danh mục thiết bị dạy học mơn Tiếng Việt lớp Một
- Tạp chí giáo dục Tiểu học số 6- năm 2005

15


V. Nhận xét của HĐKH cấp trường,
phòng GD&ĐT
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................


16


17



×