PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO .................
TRƯỜNG TIỂU HỌC .................
ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Tên sáng kiến: “Một số biện pháp Rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 1
thông qua môn Tiếng Việt 1 - CGD”
Thuộc lĩnh vực: Môn Tiếng Việt 1 - CGD
Người thực hiện: .................
Chức vụ:
Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học .................
................., tháng 04 năm 2019
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Kính gửi: Hội đồng sáng kiến huyện .................
Số
TT
1
Ngày
Nơi cơng
Họ và tên
tháng
tác
năm sinh
.................
Chức
danh
Tiểu
học ........... Giáo viên
......
Tỷ lệ (%) đóng
Trình độ
góp vào việc
chun mơn tạo ra sáng
kiến
Đại học
100%
Là tác giả (nhóm tác giả) đề nghị xét công nhận sáng kiến: “Một số biện
pháp Rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 1 thông qua môn Tiếng Việt 1-CGD”.
1. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Khơng có.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Môn Tiếng Việt 1-CGD.
3. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử:
Ngày 21 tháng 9 năm 2018
4. Mô tả bản chất của sáng kiến:
4.1. Nội dung của sáng kiến:
4.1.1. Thực trạng:
- Bước vào lớp Một học sinh cịn gặp nhiều khó khăn, bỡ ngỡ do sự thay đổi
về môi trường học tập, thầy cô, bạn bè... Một số em chưa làm quen được với nền
nếp học tập ở Tiểu học nên vẫn còn mải chơi, chưa có ý thức tự giác học tập.
- Một số học sinh còn nhút nhát, rụt rè chưa mạnh dạn trong giao tiếp.
- Một số em cịn nói ngọng, phát âm chưa chuẩn và chưa thực sự chú ý
đến lời nói trong giao tiếp hàng ngày.
- Vốn từ của học sinh lớp Một cịn ít, việc hiểu nghĩa của từ và sử dụng từ
đúng còn nhiều hạn chế do khả năng suy nghĩ, nhận thức của trẻ chưa phát triển.
- Kĩ năng đọc, nói, viết, nghe của học sinh cịn hạn chế do ở Mầm non các
em chỉ được làm quen với kỹ năng nghe, nói mà chưa được làm quen với kỹ
năng đọc, viết.
- Học sinh còn mắc phải một số lỗi như sau:
1
+ Phát âm nhầm phụ âm đầu: Học sinh hay nhầm một số phụ âm đầu như
tr/ch; s/x; p/b, l/n...
Ví dụ: Học sinh đọc “nòng nọc” là “lòng lọc”, “con lợn” là “con nợn”,
“chim sẻ” là “chim xẻ”, “quả pin” là “quả bin”...
+ Phát âm nhầm vần: Học sinh thường nhầm một số vần như at/ac; ăc/ăp;
âc/âp; an/ang...
Ví dụ: Học sinh đọc “bãi cát” là “bãi các”, “tê giác” là “tê giát”, “quả
chanh” là “quả chăn”...
+ Phát âm nhầm dấu thanh: Học sinh thường phát âm nhầm thanh ngã
thành thanh sắc, nhầm thanh hỏi thành thanh nặng.
Ví dụ: Học sinh đọc “ngã ba” là “ngá ba”; “sạch sẽ” là “sạch sé”; “uống
sữa” là “uống sứa”...
4.1.2. Nguyên nhân:
* Giáo viên:
- Chương trình Tiếng Việt 1-CGD là chương trình mới nên giáo viên cịn
gặp nhiều khó khăn, lúng túng trong việc dẫn học sinh đọc những vần, từ khó...
sao cho hiệu quả nhất.
- Ba quyển sách thiết kế Tiếng Việt 1-CGD là ba quy trình khác nhau nên
giáo viên mất khá nhiều thời gian trong việc nghiên cứu, đọc tài liệu để nắm
vững được ba quy trình trên cũng như tiếp cận phương pháp dạy học mới.
- Biên chế lớp học đông (35 học sinh) nên giáo viên rất vất vả trong việc
bao quát, hướng dẫn, hỗ trợ cho học sinh trong một tiết học.
* Học sinh:
- Các em chưa hiểu một cách sâu sắc, cặn kẽ về nghĩa của tiếng, của từ,
của câu.
- Do bản thân các em đọc sai lại chưa kiên trì, tự giác tập luyện để sửa sai.
- Chưa ý thức được phải phát âm chuẩn thì người nghe mới hiểu hết nghĩa
mà mình muốn diễn đạt.
- Hệ thống phát âm của một số em chưa phát triển hồn chỉnh khiến học
sinh cịn đọc ngọng .
- Cách phát âm của một số học sinh do thói quen, theo phương ngữ địa
phương (các em nghe ông bà, bố mẹ... phát âm và nói theo).
2
- Một số em được người thân hướng dẫn đọc trước theo chương trình hiện
hành nên giáo viên gặp khó khăn trong việc sửa lại lỗi phát âm và hướng dẫn
học sinh đọc theo chương trình Tiếng Việt 1-CGD.
* Chương trình Tiếng Việt 1-CGD:
- Lượng kiến thức của chương trình Tiếng Việt 1-CGD khá nặng so với
học sinh lớp 1.
Ví dụ: Ngay bài đầu tiên, nhiều học sinh chưa nhận biết được chữ cái
nhưng đã phải viết chính tả nghe - viết.
+ Trong q trình học, các em cịn phải phân biệt được vần chỉ có âm
chính; vần có âm đệm và âm chính; vần có âm chính và âm cuối; vần có đủ âm
đệm, âm chính, âm cuối.
+ Trước đây theo chương trình hiện hành, khi học hết 8 tuần các em học
hết bảng chữ cái và có thể ghép âm thành vần, thành tiếng. Theo chương trình
Tiếng Việt 1-CGD hiện nay, hết 6 tuần đầu học sinh đã phải đọc những bài dài
tới 30 tiếng; ngồi ra có những bài học sinh phải học bốn vần hay có khi học sáu
vần, lượng kiến thức như vậy đối với với học sinh lớp Một là quá nặng.
- Một số từ ngữ khó phát âm và khó nhớ.
Ví dụ: Các từ “quềnh quàng” Tiếng Việt 1 - T2/Tr136; “khuýp khuỳm
khuỵp” Tiếng Việt 1 - T2/Tr132; “quằm quặm” Tiếng Việt 1 - T2/Tr 132; “quàu
quạu” Tiếng Việt 1- T2/Tr140;…
- Nhiều từ ngữ khơng gần gũi nên học sinh khó nhớ, có một số từ ngữ
khơng có nghĩa hoặc nghĩa khơng mang tính giáo dục.
Ví dụ: từ “quái quỷ” Tiếng Việt 1 - T2/Tr65 ; “gớm ghiếc” Tiếng Việt 1
-T2/Tr117; “ăn quỵt” Tiếng Việt 1 - T2/Tr97; “kèn cựa” Tiếng Việt 1- T2/Tr91;
“ghen ghét” Tiếng Việt 1 -T2/Tr90; “kênh kiệu” Tiếng Việt 1 - T2/Tr131;…
- Nhiều bài đọc không gần gũi với học sinh nên học sinh khó nhớ.
4.1.3. Biện pháp:
Hoạt động đọc giúp con người thu nhận được lượng thông tin nhiều nhất,
nhanh nhất, dễ dàng, thông dụng và tiện lợi nhất để không ngừng bổ sung và
nâng cao vốn hiểu biết, vốn sống của mình. Trong nhà trường, thơng qua hoạt
động đọc giúp học sinh được mở rộng hiểu biết về thiên nhiên, về đất nước, về
cuộc sống con người, về văn hóa, văn minh, phong tục, tập quán của dân tộc trên
đất nước mình và trên thế giới.
3
Đọc các tác phẩm văn học, học sinh được bồi dưỡng về năng lực thẩm mĩ,
trau dồi kĩ năng sử dụng ngôn từ, mở rộng tầm hiểu biết về cuộc sống. Vì vậy
việc đọc có ý nghĩa giáo dục, giáo dưỡng và phát triển rất lớn. Đọc trở thành
một đòi hỏi cơ bản đầu tiên đối với mỗi người mà nhất là học sinh lớp 1. Đọc là
sự khởi đầu giúp cho học sinh chiếm lĩnh một công cụ mới để sử dụng trong học
tập và trong giao tiếp. Nếu kỹ năng viết được coi là phương tiện ưu thế nhất
trong hệ thống ngơn ngữ thì kỹ năng đọc có một vị trí quan trọng khơng thể
thiếu được trong chương trình mơn Tiếng Việt ở bậc tiểu học.
Hiểu được ý nghĩa và tầm quan trọng của kỹ năng đọc; để nâng cao hơn
nữa hiệu quả rèn kỹ năng đọc cho học sinh lớp 1, nhằm giúp các em đạt được
chuẩn kiến thức, kỹ năng môn Tiếng Việt, tôi đã áp dụng một số biện pháp cụ
thể nhằm hình thành và phát triển một cách có hệ thống về kỹ năng đọc cho học
sinh từ kỹ năng đọc đúng âm, vần, tiếng, từ, câu, đoạn, bài; nâng cao dần kĩ
năng đọc hiểu, từ đó giúp các em đọc đúng, đọc hay, đọc diễn cảm. Qua đó nâng
cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt 1- CGD.
* Biện pháp 1: Phân loại đối tượng học sinh.
Vào đầu năm học 2018-2019 tôi được giao nhiệm vụ chủ nhiệm và giảng
dạy lớp 1B. Ngay sau khi nhận lớp, tôi đã tiến hành kiểm tra, khảo sát để phân
loại đối tượng học sinh.
- Nhóm học sinh đọc tốt: Học sinh đọc được hết bảng chữ cái (kể cả
những chữ ghép như ch, nh, ph...)
- Nhóm học sinh đọc khá: Học sinh đọc được hết bảng chữ cái (chưa đọc
được các chữ ghép như ch, nh, ph...)
- Nhóm học sinh đọc trung bình: Học sinh đọc được từ 10-15 chữ cái.
- Nhóm học sinh đọc yếu: Học sinh không thuộc hoặc chỉ thuộc được 5-6
chữ cái.
- Nhóm học sinh đọc ngọng: Học sinh phát âm khơng chính xác, khơng rõ
ràng các chữ cái.
Kết quả khảo sát như sau:
TSH HS đọc tốt HS đọc khá HS đọc TB
HS đọc yếu HS đọc ngọng
S
35
6
8
13
5
3
4
Sau khi phân loại đối tượng học sinh, tôi đã tìm hiểu nguyên nhân và thấy
rằng đa phần các em thuộc nhóm học sinh đọc trung bình và học sinh đọc yếu là
do các em chưa thuộc hết bảng chữ cái; các em còn mải chơi do chưa quen với
nền nếp học tập ở trường tiểu học; do các em phát triển trí tuệ chậm và phụ
huynh cịn mải làm kinh tế, chưa quan tâm sát sao tới việc học của con em mình.
Việc phân loại đối tượng học sinh giúp tơi có những phương pháp và hình
thức dạy học phù hợp với khả năng nhận thức của từng nhóm học sinh; có biện
pháp hỗ trợ kịp thời trong từng tiết học.
* Biện pháp 2: Hướng dẫn cách phát âm âm, vần, thanh.
Đối với học sinh lớp 1 kỹ năng đọc đúng là quan trọng nhất. Đây là biện
pháp quan trọng hàng đầu, địi hỏi người giáo viên phải có những hiểu biết, kinh
nghiệm, cách hướng dẫn sao cho học sinh dễ hiểu nhất và làm theo. Khi hướng
dẫn học sinh phát âm, lời nói của giáo viên cần rõ ràng, mạch lạc để học sinh dễ
hiểu và có thể tự mình phát âm đúng. Đối với những âm, vần, tiếng dễ nhầm lẫn,
giáo viên cần phải so sánh, phân tích cụ thể cách phát âm (mơi - răng - lưỡi,
đường dẫn hơi, điểm thốt hơi…) để học sinh có thể phát âm chính xác.
Khi dạy kỹ năng đọc, giáo viên phải chú ý quan tâm đến tất cả các đối
tượng học sinh trong lớp và dạy theo phân hóa đối tượng học sinh. Với nhóm
học sinh đọc đúng, đọc tốt thì giáo viên cho luyện đọc nâng cao (phần chữ đỏ
phân hóa học sinh ở trang phải). Với nhóm học sinh đọc trung bình và đọc yếu,
giáo viên cần gọi các em phát âm thường xuyên để kịp thời phát hiện những lỗi
sai và chỉnh sửa cho học sinh.
Giáo viên phải phát âm chuẩn để học sinh phát âm theo. Với các âm mới,
giáo viên chỉ phát âm mẫu một lần (để học sinh tập trung, chú ý lắng nghe),
nhưng phải rõ ràng, chính xác. Đối với các em đọc còn chậm, giáo viên cần
quan tâm đến các em nhiều hơn, nếu các em phát âm chưa chính xác, giáo viên
cần phát âm lại 2 - 3 lần, để giúp các em sửa chữa, nắm chắc và phát âm đúng
các âm đó.
Để giúp cho các em học sinh phát âm đúng, chính xác địi hỏi mỗi giáo
viên cần rèn luyện cho học sinh kỹ năng nghe trong đó giọng đọc của giáo viên
rất quan trọng, giữa nghe và phát âm có mối quan hệ chặt chẽ cho nên việc rèn
5
luyện kỹ năng nghe cho học sinh cũng hỗ trợ rất nhiều cho kỹ năng đọc của các
em. Nếu học sinh nghe đúng, nghe chuẩn thì học sinh sẽ dễ dàng đọc đúng, đọc
chuẩn hơn. Ngoài ra, kỹ năng quan sát cũng được hình thành trong quá trình dạy
học sinh phát âm đúng. Quan sát khẩu hình của giáo viên, của các bạn khi phát
âm cũng giúp học sinh phân biệt được ngun âm, phụ âm; các ngun âm
khơng trịn mơi hay ngun âm trịn mơi; qua q trình quan sát giúp các em
phát âm được dễ dàng và chính xác.
a) Các âm mà học sinh phát âm chưa chính xác là âm l/n, s/x, tr/ch, d/gi/r.
Khi học sinh phát âm chưa đúng, tôi đã yêu cầu học sinh phát âm lại. Nếu học
sinh vẫn phát âm sai, tôi phát âm mẫu, yêu cầu học sinh phát âm theo và hướng
dẫn học sinh cách phát âm:
- Khi phát âm âm /l/: Lưỡi uốn cong, đầu lưỡi chạm lên hàm trên, bật đầu
lưỡi cho hơi thoát ra mạnh, dứt khoát.
- Khi phát âm âm /n/: Để lưỡi ép sát lợi trên, khi phát âm thì hơi thốt ra ở
đường mũi, sau đó mở miệng cho hơi thốt ra trên mặt lưỡi.
Với những học sinh sau khi nghe giáo viên phát âm mẫu và quan sát khẩu
hình mà vẫn chưa phát âm được, tơi hướng dẫn các em dùng hai ngón tay, bóp
hai cánh mũi lại rồi phát âm âm /l/ và /n/. Học sinh sẽ nhận ra rằng khi bóp hai
cánh mũi lại thì khơng thể phát âm được âm /n/, như vậy học sinh sẽ dễ dàng
nhớ được cách phát âm âm /l/.
- Khi phát âm âm /tr/, /s/: phần đầu lưỡi chạm vào hàm trên, lưỡi uốn lên
và có âm gió phát ra khi phát âm.
- Khi phát âm âm /ch/,/ x/: phần lưỡi không uốn lên, phần đầu lưỡi chạm
vào chân răng và khơng có âm gió phát ra khi phát âm.
- Khi phát âm âm /d/: đầu lưỡi hơi thụt vào trong, bật đầu lưỡi cho hơi
thoát ra mạnh, dứt khoát.
- Khi phát âm âm /gi/: đầu lưỡi gần chạm chân răng, lưỡi hơi ép sát lợi
trên, cho hơi thốt ra đường mũi, sau đó mở miệng cho hơi thốt ra trên mặt
lưỡi, luồng hơi có thể kéo dài.
- Khi phát âm các nguyên âm: phải há miệng để luồng hơi đi ra tự do,
phát âm kéo dài để xem âm đó có bị thay đổi khơng. Nếu âm đó khơng bị thay
đổi thì đó là ngun âm.
6
- Khi phát âm các phụ âm: phải ngậm miệng lại, bật mơi cho luồng hơi
thốt ra để luồng hơi đi ra, phát âm kéo dài để xem âm đó có bị thay đổi khơng.
Nếu âm đó bị thay đổi thì đó là phụ âm.
Ví dụ: Khi phát âm âm /o/ ta thấy luồng hơi đi ra tự do, có thể phát âm
kéo dài nên /o/ là nguyên âm. Khi phát âm âm /b/ ta thấy luồng hơi đi ra bị cản
lại, không thể phát âm kéo dài nên /b/ là phụ âm.
Ngoài ra, để giúp học sinh dễ nhớ hơn khi đọc các âm, tơi cịn áp dụng
cách làm sau:
- Khi học sinh không nhớ được một âm nào đó (nhất là với những chữ
ghép), tơi cho học sinh nêu cấu tạo của âm đó, hoặc cung cấp những hình ảnh,
gợi ý về con vật, đồ vật...chứa âm đó để học sinh dễ nhớ.
Ví dụ: Nếu học sinh khơng nhớ được âm /nh/, tôi cho học sinh nêu các âm
ghép thành âm /nh/, cho học sinh quan sát hình ảnh quả nho, cho học sinh phân
tích tiếng /nho/. Như vậy, khi gặp âm /nh/, học sinh sẽ nghĩ ngay đến hình ảnh
quả nho và đọc đúng được âm /nh/.
b) Một số vần mà học sinh hay đọc nhầm là các vần có âm cuối t/c, n/ng.
Học sinh hay đọc nhầm vần /at/ là vần /ac/ hoặc nhầm vần /an/ với vần /ang/, khi
đó giáo viên cần hướng dẫn như sau:
- Vần /ac/: khi phát âm miệng mở rộng, luồng hơi thoát ra gần trong
chân lưỡi.
- Vần /at/: khi phát âm miệng mở hơi rộng, đưa lưỡi chạm vào lợi trên,
luồng hơi thoát ra trên mặt lưỡi.
- Vần /an/: khi phát âm đầu lưỡi chạm vào chân răng.
- Vần /ang/: khi phát âm đầu lưỡi hơi thụt vào trong.
- Khi học sinh đọc một vần (nhất là với các vần dễ nhầm lẫn), tơi u cầu
học sinh phân tích vần, nêu cấu tạo và vị trí các âm tạo nên vần đó để học sinh
phát âm đúng và tránh nhầm lẫn với các vần khác.
Ví dụ: Học sinh hay nhầm vần /ai/ với vần /ia/, vần /iu/ với vần /ui/... Khi
học vần /ia/, tơi cho học sinh phân tích và so sánh vần /ai/ và vần /ia/ để học sinh
phân biệt được vần /ai/ gồm âm chính /a/, âm cuối /i/ cịn vần /ia/ là vần khơng
có âm cuối và /ia/ là nguyên âm đôi. Tương tự khi học sinh học vần /iu/, tơi cũng
cho học sinh phân tích và so sánh vần /iu/ và vần /ui/ để học sinh nhận ra rằng
7
hai vần này đều cấu tạo từ âm /u/ và âm /i/ nhưng vị trí của hai âm là khác nhau.
Với vần /iu/ thì âm /i/ là âm chính, nhưng với vần /ui/ thì âm /i/ lại là âm cuối.
Học sinh phân tích vần /ia/ và vần /ai/ trên mơ hình.
Giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích vần /iu/ với vần /ui/
c) Học sinh nhầm lẫn dấu thanh
Một số học sinh đọc nhầm dấu ngã với dấu sắc, dấu hỏi với dấu nặng.
Nguyên nhân có thể do phương ngữ địa phương hoặc bộ máy phát âm của học
sinh chưa hồn chỉnh. Khi học sinh đọc sai, tơi u cầu học sinh đọc lại và
hướng dẫn các em cách đọc các tiếng có dấu thanh như sau:
- Tiếng có thanh ngã: Đọc hơi kéo dài, luyến giọng, lên cao giọng.
- Tiếng có thanh sắc: Đọc nhẹ nhàng hơn tiếng có thanh ngã, hơi ngắn,
đọc nhanh, khơng kéo dài.
- Tiếng có thanh hỏi: Đọc dứt khốt, rõ ràng, khơng kéo dài, có thể kèm
theo động tác ngửa cổ hướng mắt lên trên.
- Tiếng có thanh nặng: Đọc thấp giọng và nặng, dứt khốt (khơng kéo
dài). Khi phát âm có thể làm động tác gật đầu.
Với một số học sinh đọc nhầm do “thói quen”, các em sống trong mơi
trường mà ơng bà, bố mẹ không chú ý đến việc đọc đúng, đọc chuẩn, tôi đã đưa
tiếng vào từ cụ thể để học sinh phân biệt và đọc đúng.
Ví dụ: cho học sinh phân biệt các từ: câu đố, đổ vỡ, hạt đỗ, độ dài hoặc
cho học sinh phân biệt cái bàn/cây bàng, cái làn/làng xóm...thì học sinh dễ dàng
đọc đúng mà không bị nhầm lẫn giữa các dấu thanh.
Giáo viên hướng dẫn học sinh phát âm
* Biện pháp 3: Phát triển các “Đôi bạn cùng tiến” để học sinh tự học
và giúp đỡ nhau trong học tập.
Học tập là quá trình tiếp thu tri thức diễn ra trong thời gian dài và học từ
nhiều đối tượng khác nhau; học sinh có thể học tập các kiến thức, kỹ năng từ
ông bà, cha mẹ, thầy cơ... và có thể học hỏi từ những bạn bè cùng trang lứa.
Trong một lớp học, mặc dù cùng độ tuổi, cùng học một giáo viên giảng
dạy, cùng trong một môi trường giáo dục giống nhau nhưng khả năng học tập,
tiếp thu các kiến thức của mỗi học sinh khơng giống nhau. Có học sinh tiếp thu
nhanh, cũng có những học sinh tiếp thu chậm hơn so với các bạn trong lớp.
8
Bạn bè trong cùng một lớp là những người gần gũi, cùng học cùng chơi
với nhau nên giữa các em khơng có khoảng cách, khơng có sự ngại ngùng, e dè
mà các em thoải mái chia sẻ với nhau những khó khăn, những vướng mắc
trong học tập. Ơng cha ta có câu “Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”; nếu chơi
với một người bạn chăm chỉ và có ý thức học tập tốt thì chúng ta sẽ phấn đấu
học tập, rèn luyện để đạt kết quả tốt như bạn. Hoặc khi khơng hiểu bài, khi gặp
bài tốn khơng biết tính, gặp từ khó khơng biết đọc chúng ta có thể nhờ bạn
hướng dẫn.
Trong q trình dạy học, tơi đã phân công những em học sinh học tốt,
nhận thức nhanh ngồi cạnh để kèm cặp, giúp đỡ những em học sinh học nhận
thức chậm, tạo thành các “Đôi bạn cùng tiến” giúp đỡ nhau trong học tập. Một
số “Đôi bạn cùng tiến” của lớp 1B là đôi bạn Ngọc Yến - Ngọc Ánh, Văn Thành
- Hoàng Thùy, Hải Yến - Gia Hùng.
“Đơi bạn cùng tiến” Văn Thành - Hồng Thùy
Trong giờ luyện đọc, hai bạn ngồi cùng bàn sẽ chồng sách lên nhau, hai
bạn cùng chỉ tay đọc bài. Nếu một bạn đọc chưa đúng, hai bạn sẽ dừng lại, cùng
nhau đánh vần và đọc lại vần hoặc tiếng đó. Tơi thấy cách làm này rất hiệu quả
vì trong một khoảng thời gian ngắn nhưng tất cả học sinh trong lớp đều được
luyện đọc, đều được sửa sai. Nếu giáo viên cho học sinh đọc nối tiếp câu hoặc
gọi từng học sinh đọc bài để sửa sai cho học sinh thì sẽ mất rất nhiều thời gian,
vì số học sinh trong lớp đông (35 em) và thời gian dành cho một tiết học chỉ có
35 phút.
Học sinh luyện đọc theo cặp đơi
Qua q trình nhận xét, sửa sai giúp bạn, sẽ giúp học sinh tự điều chỉnh,
sửa sai cho mình. Đồng thời còn rèn luyện cho các em tác phong mạnh dạn, tự
tin trong góp ý, trao đổi, trình bày ý kiến; giúp các em có sự gắn bó, đồn kết,
giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Ví dụ: Khi học về ngun âm trịn mơi, ngun âm khơng trịn mơi, tơi
u cầu học sinh quay mặt vào nhau theo cặp đôi, thực hiện phát âm các nguyên
âm, quan sát khẩu hình miệng của bạn, thảo luận cặp đôi xem những âm nào là
9
ngun âm trịn mơi, những âm nào là ngun âm khơng trịn mơi. Việc quan sát
khẩu hình miệng của bạn giúp học sinh dễ dàng phân biệt được nguyên âm trịn
mơi, ngun âm khơng trịn mơi hơn là việc học sinh tự phát âm và tự hình dung
khẩu hình miệng của mình.
Học sinh quan sát bạn phát âm để tìm ngun âm trịn mơi
* Biện pháp 4: Rèn luyện tính kiên trì cho học sinh, động viên khuyến
khích học sinh kịp thời.
Rèn tính kiên trì cho học sinh là nhiệm vụ quan trọng. Bản thân người giáo
viên cũng phải rất kiên trì để hình thành tính cách ấy cho học sinh. Khi có được
lịng kiên trì, học sinh sẽ vượt qua những khó khăn để đạt tới cái đích cao nhất.
Trong dạy phát âm cho học sinh, khi các em phát âm chưa đúng, phải
phát âm lại nhiều lần mà vẫn chưa đạt yêu cầu, các em sẽ dễ chán nản, không
muốn luyện tập. Khi ấy, giáo viên cần kiên trì hướng dẫn, làm mẫu, yêu cầu học
sinh phát âm nhiều lần, thường xuyên động viên khích lệ học sinh bằng những
lời khen. Với những học sinh đọc chậm, phải đánh vần lâu, học sinh còn đọc
chưa đúng, giáo viên cần phải động viên, khích lệ thường xuyên, kịp thời để học
sinh tích cực luyện đọc hơn.
Ví dụ: Với những học sinh đọc chậm, hay đọc nhầm, tôi đã lựa chọn
những câu, đoạn văn ngắn, dễ đọc rồi gọi học sinh đó đọc. Khi học sinh đọc
xong, tơi khen học sinh: “Em đã đọc được rồi đấy, em cố gắng lên nhé!”, “Em
đã đọc tốt hơn rồi, em cần tiếp tục phát huy.”, “Bạn đã đọc tiến bộ hơn rồi đấy,
cả lớp khen bạn nào!”... Bên cạnh đó, khi kiểm tra học sinh đọc tơi cịn nhận xét
vào sách giáo khoa của học sinh: “Em đọc được bài, cô khen!”, “Em đọc có tiến
bộ, cơ khen!”...Khi học sinh tự mình đọc được lời động viên của cô giáo, tôi
thấy các em rất vui, phấn khởi khoe với các bạn là “Tớ đọc được rồi, tớ được cô
giáo khen...”. Được động viên như vậy, học sinh sẽ rất vui, rất phấn khởi, khơng
nản lịng vì nghĩ rằng mình đã làm được, cố gắng của mình đã đạt kết quả, bạn
làm được thì mình cũng sẽ làm được…Từ đó học sinh sẽ quyết tâm hơn, tích
cực luyện đọc hơn và học sinh sẽ đọc tốt hơn.
* Biện pháp 5: Sử dụng các trò chơi giúp học sinh củng cố các kiến
thức đã học và gây hứng thú cho học sinh trong giờ học.
10
Trong quá trình dạy học, giáo viên phải chú trọng tập trung vào việc tạo ra
những cơ hội và điều kiện học tập thuận lợi cho học sinh học tập, yêu cầu này
một mặt kích thích học sinh phát huy cao độ tính tích cực học tập, mặt khác yêu
cầu giáo viên phải khuyến khích, hướng dẫn và tổ chức học tập để học sinh chủ
động trong việc chiếm lĩnh tri thức, kinh nghiệm và giá trị cần thiết cho bản
thân. Trò chơi học tập là một hoạt động với mục đích chủ yếu là vui chơi giải trí,
thư giãn sau những giờ học căng thẳng và mệt mỏi nhưng thơng qua trị chơi học
tập học sinh vừa được rèn luyện về thể lực, các giác quan, vừa được củng cố
kiến thức, tạo cơ hội cho học sinh hoạt động nhóm, hợp tác với các bạn trong
nhóm, tổ; tạo điều kiện cho học sinh “Học mà chơi, chơi mà học” và “Mỗi ngày
đến trường là một ngày vui”. Trò chơi học tập cịn tạo được khơng khí vui tươi
hồn nhiên, nhẹ nhàng sinh động trong giờ học; giúp cho khía cạnh khô khan của
vấn đề học tập được giảm nhẹ và khả năng ghi nhớ của học sinh trở nên vững
chắc hơn; giúp học sinh tiếp thu tri thức một cách tích cực và tự giác, việc tiếp
thu kiến thức của học sinh trở nên nhẹ nhàng và hiệu quả hơn. Việc kết hợp sử
dụng hình thức trị chơi trong học tập sẽ đem lại hiệu quả cao trong dạy học.
Ví dụ: Để củng cố cho học sinh về các âm, vần đã học; giúp học sinh đọc
đúng tiếng chứa các âm, vần đã học; tôi tổ chức cho học sinh chơi trò chơi
“Vòng quay âm, vần”. Với vòng xoay tự làm, trên có gắn các âm, các vần đã
học; tôi tổ chức cho lần lượt từng học sinh lên quay, kim chỉ vào âm, vần nào thì
học sinh đọc âm, vần đó. Ngồi ra tơi cịn gắn thêm phụ âm đầu để học sinh
ghép và đọc tiếng chứa các âm, vần đã học; giúp học sinh biết cách tìm tiếng
chứa các âm, vần đã học và luyện kỹ năng đọc nhanh, đọc đúng cho học sinh.
Học sinh chơi trò chơi“Vịng xoay âm, vần”
Trong q trình dạy học tơi cịn tổ chức cho học sinh chơi một số trò chơi
nhằm rèn tính mạnh dạn, tự lập, sáng tạo cho các em. Học sinh biết chia sẻ và
sửa sai cho bạn khi nghe bạn đọc. Các trò chơi đã gây hứng thú, kích thích, khơi
dậy niềm say mê học tập của các em. Các em chậm tiến học tập cách đọc của
các bạn, xem bạn là tấm gương để mình phấn đấu vươn lên.
11
Ví dụ: Để rèn kỹ năng đọc cho học sinh, tơi tổ chức cho học sinh chơi trị
chơi “Đọc nhanh, đọc đúng”. Tôi chuẩn bị sẵn những lá thăm, trong mỗi lá thăm
ghi sẵn các tiếng, từ để học sinh đọc. Mỗi tổ là một đội, lần lượt từng thành viên
trong mỗi đội lên bắt thăm, nếu đọc đúng tiếng, từ ghi trong lá thăm thì đội đó
ghi được 1 điểm. Lần lượt cho đến thành viên cuối cùng của mỗi đội, nếu đội
nào ghi đươc nhiều điểm nhất thì đội đó dành chiến thắng.
Học sinh chơi trị chơi“Đọc nhanh, đọc đúng”
* Biện pháp 6: Luyện đọc đúng, đọc hay.
Đối với chương trình Tiếng Việt 1-CGD quyển tập 1 khơng yêu cầu giải
nghĩa từ và tìm hiểu nội dung bài đọc. Sang quyển tập 2 và tập 3, học sinh đọc,
giải nghĩa một số từ và kết hợp tìm hiểu nội dung bài đọc thơng qua một số câu
hỏi có liên quan đến nội dung bài. Nên yêu cầu quan trọng nhất đối với môn
Tiếng Việt 1-CGD là học sinh đọc được âm, vần, tiếng, từ, câu, đoạn, bài. Học
sinh nắm được các âm để tìm và ghép vần, ghép âm với vần tạo thành tiếng.
Chương trình Tiếng Việt 1-CGD khác với chương trình hiện hành là yêu cầu học
sinh vẽ mơ hình tiếng, đưa tiếng vào mơ hình, đọc trơn, phân tích. Cũng chính từ
việc phân tích tiếng nên học sinh nắm chắc cấu tạo của âm, vần, tiếng.
Đọc đúng giúp các em hiểu được cái hay, cái đẹp, cái tinh tế của nghệ
thuật ngôn từ. Đọc đúng giúp các em nói, viết, sử dụng ngơn từ một cách trong
sáng có nghệ thuật, khơng chỉ góp phần vào việc rèn luyện kỹ năng đọc mà còn
phát triển cho học sinh vốn từ ngữ Tiếng Việt phong phú, đa dạng.
Từ chỗ đọc đúng âm, vần, tiếng, từ, câu, đoạn tiến tới cho học sinh đọc
được mức độ cao hơn (ngắt, nghỉ đúng nhịp, đọc đúng vần thơ, câu văn, đọc cao
giọng, nhấn giọng để biểu đạt cảm xúc,...).
Giáo viên cần hướng dẫn học sinh đọc theo từng từ, cụm từ để luyện đọc
từng câu chứ không đọc từng chữ rời rạc.
a) Đọc thơ:
12
Ví dụ 1:
- Đọc bài “Trâu ơi”; Tiếng Việt 1 - T3/Tr18
- GV đọc mẫu, hướng dẫn để học sinh phát hiện được cách ngắt, nghỉ: đối
với dòng thơ 6 chữ ngắt theo nhịp 2/4; dòng thơ 8 chữ ngắt theo nhịp 4/4.
Trâu ơi! / ta bảo trâu này: /
Trâu ra ngồi ruộng / trâu cày với ta.//
Ví dụ 2:
- Bài “Ị…ó…o...”; Tiếng Việt 1 - T3/Tr26.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc nối tiếp các dịng với nhau.
Ị...ó…o.../
Ị…ó…o...//
Tiếng gà/
Tiếng gà//
Giục quả na/
Mở mắt/
Trịn xoe//
Ví dụ 3:
- Bài “Con gà cục tác lá chanh”; Tiếng Việt 1 - T3/Tr37
- Học sinh đọc và phát hiện được cách ngắt như sau: đối với dòng thơ 6
chữ ngắt theo nhịp 2 /2/ 2; dòng thơ 8 chữ ngắt theo nhịp 4/4.
Con gà / cục tác / lá chanh, /
Con lợn ủn ỉn / mua hành cho tơi.//
Con chó / khóc đứng / khóc ngồi, /
Bà ơi đi chợ / mua tơi đồng riềng./
Ở sách Tiếng Việt lớp 1 có nhiều thể thơ như: thơ lục bát, thơ 5 chữ, thơ 4
chữ, thơ tự do. Ở đây không phải thể thơ nào cũng giống nhau nên phải thay đổi
theo tiết tấu của câu để ngắt, nghỉ hợp lý.
13
b) Đọc văn xi:
Ngồi việc hướng dẫn đọc đúng từ, cụm từ, ngắt hơi sau các dấu phẩy,
nghỉ hơi sau dấu chấm. Cuối câu hỏi học sinh phải biết đọc lên giọng, nhấn
giọng ở những từ để hỏi.
Ví dụ 1:
- Bài “Đêm qua con nằm mơ” Tiếng Việt 1 - CGD - T2/Tr105, giáo viên
hướng dẫn để học sinh phát hiện cách đọc câu hỏi cần nhấn giọng ở từ để hỏi,
lên cao giọng ở cuối câu.
- Ô hay, làm sao mẹ lại biết con đánh mất cái gì, ở đâu mà tìm?
Ví dụ 2:
- Bài “Cái mũ” Tiếng Việt 1- CGD - T2/Tr93
- Kia kìa! Mũ ở trên đầu bố kìa!
Nếu câu có dấu chấm than ta phải đọc thay đổi giọng theo đúng ngữ cảnh
và tình cảm của câu.
Ví dụ 3:
- Bài ''Cáo và Mèo'' Tiếng Việt 1- CGD - T3/Tr56; hướng dẫn để học sinh
phát hiện cách ngắt, nghỉ như sau:
Cáo cứ loay hoay, / mãi vẫn chưa tìm ra cách thốt thân /thì đã bị chó săn
tóm gọn.//
Thà có một cách chắc chắn, /hơn là có hàng trăm cách /mà khi cần thì lại
chẳng dùng được cách nào.//
Giáo viên hướng dẫn để học sinh biết ngắt, nghỉ hơi đúng ở một số câu
dài, giúp các em dễ hiểu nội dung câu, đoạn văn; biết đọc cao giọng ở cuối câu
có dấu chấm than để biểu đạt được cảm xúc khi đọc.
Đọc đúng, đọc hay, đọc rành mạch giúp học sinh nắm được ý cơ bản của
bài văn, bài thơ, bài đồng dao; tiến tới đọc lưu lốt và bước đầu có thể đọc diễn
đọc diễn cảm bài văn, bài thơ đó.
Tơi sử dụng hình thức đọc cá nhân để rèn luyện, uốn nắn cho từng học
sinh, kết hợp hình thức đọc theo nhóm để tất cả học sinh trong lớp được tham
14
gia luyện đọc trong một tiết học. Xen kẽ đọc đồng thanh để tạo khơng khí lơi
cuốn học sinh chậm tiến, học sinh hay rụt rè vào hoạt động học. Đảm bảo toàn
bộ học sinh được tham gia luyện đọc và càng được đọc nhiều lần càng tốt.
* Biện pháp 7: Quan tâm rèn luyện kỹ năng đọc cho học sinh ở mọi
lúc, mọi nơi.
Để giúp học sinh phát âm chuẩn, tôi không chỉ hướng dẫn, sửa sai cho các
em trong giờ học môn Tiếng Việt mà tôi luôn theo dõi, uốn nắn cho các em cả
trong các tiết học khác, trong các hoạt động tập thể… Bởi vì những lúc vui chơi
là lúc các em sử dụng lời nói một cách tự nhiên nhất, những lúc này các em
thường nói tiếng địa phương, nói mà khơng để ý đến việc phải phát âm đúng,
phát âm chuẩn. Vì thế tơi thường xuyên quan sát, để ý đến các em, phát hiện
những lỗi phát âm, cách dùng từ chưa đúng, để kịp thời sửa chữa, đồng thời tạo
cho học sinh thói quen phát âm chuẩn, sử dụng tiếng phổ thông khi nói dù ở bất
cứ nơi đâu.
* Biện pháp 8 : Kết hợp với phụ huynh rèn kỹ năng đọc cho học sinh.
Việc giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện các phẩm chất và năng lực nhằm giúp
học sinh phát triển nhân cách một cách tồn diện là một q trình lâu dài liên
tục, diễn ra ở nhiều môi trường khác nhau, liên quan rất nhiều đến các mối quan
hệ xã hội phức tạp. Vì thế, việc giáo dục học sinh ln ln địi hỏi sự phối hợp,
kết hợp chặt chẽ, quan tâm đúng cách của nhà trường, gia đình và xã hội.
Môi trường sống ảnh hưởng rất nhiều đến việc học tập, khả năng nhận
thức,... của học sinh. Một số trường hợp, học sinh phát âm chưa đúng không
phải do bộ máy phát âm của các em chưa hoàn chỉnh, cũng không phải do các
em nhầm các vần mà là do thói quen sử dụng từ ngữ địa phương của phụ huynh.
Một số phụ huynh không chú ý đến việc đọc đúng, nói đúng mà chỉ nói theo thói
quen: rượu/riệu; hươu /hiêu; hưu/hiu; lựu/lịu,... nên khi dạy con đọc ở nhà, vơ
tình phụ huynh đã dạy con đọc chưa đúng. Đối với những trường hợp trên, trong
mỗi bài học vần, khi có tiếng có chứa những vần đó, tơi mời những học sinh hay
đọc nhầm, yêu cầu các em đánh vần và đọc lại tiếng đó. Tơi cũng phân tích, so
sánh tiếng các em hay nhầm với tiếng đúng, từ đó giúp các em tránh phát âm sai
theo cách nói của địa phương.
15
Chương trình Tiếng Việt 1- CGD là một chương trình mới, phụ huynh cịn
gặp nhiều khó khăn, bỡ ngỡ trong cách đọc, cách đánh vần để hướng dẫn con
mình học ở nhà. Nhằm giúp phụ huynh có những hiểu biết, những kiến thức cơ
bản về chương trình Tiếng Việt 1- CGD cũng như nắm được cách phát âm, đánh
vần theo chương trình mới, tơi đã mời phụ huynh đến dự giờ tiết dạy môn Tiếng
Việt 1- CGD. Sau khi dự giờ, phụ huynh đã cơ bản biết cách phát âm, đánh vần
để giúp con đọc, viết ở nhà góp phần tích cực trong việc rèn kỹ năng đọc cho
học sinh.
Phụ huynh dự giờ mơn Tiếng Việt 1-CGD
Ngồi ra, tơi cũng cung cấp cho phụ huynh về cách đọc, cách đánh vần
một số âm vần :
- Âm /c/, /k/, /q/ đều đọc là /cờ/
- Âm /d/, /gi/, /r/ đều đọc là /dờ/
- Âm /iê/, /yê/, /ia/, /ya/ đều đọc là /ia/
- Âm /uô/, /ua/ đều đọc là /ua/
- Âm /ươ/, /ưa/ đều đọc là /ưa/
- Vần /iên/: /ia/ - /nờ/ - /iên/
- Vần /uyên/: /u/ - /iên/ - /uyên/
- Vần /oang/: /o/ - /ang/ - /oang/
- Vần /uôn/: /ua/ - /nờ/ - / uôn/
- Vần /ương/: /ưa/ - /ngờ/ - /ương/...
- Tiếng /bà/: /ba/ - /huyền/ - /bà/
- Tiếng /bạch/: /bách/ - /nặng/ - /bạch/...
Với một số học sinh còn nhiều hạn chế về cách phát âm, tôi đã trao đổi
trực tiếp với phụ huynh, động viên để phụ huynh hướng dẫn thêm con lúc ở nhà.
Ngồi ra tơi cịn trao đổi để phụ huynh thường xuyên quan tâm chú ý tới lời nói,
cách phát âm của mọi thành viên trong gia đình, đồng thời giải thích cho phụ
16
huynh hiểu chính lời nói của người thân trong gia đình là mơi trường giáo dục
cho các em khi ở nhà.
4.2. Khả năng áp dụng của sáng kiến:
Sáng kiến đã được áp dụng tại lớp 1B trường Tiểu học .................. Việc áp
dụng sáng kiến trong giảng dạy môn Tiếng Việt 1 - CGD đã góp phần nâng cao
chất lượng mơn Tiếng Việt và các mơn học khác nói chung, phát triển kỹ năng
đọc cho học sinh lớp 1 nói riêng.
Sáng kiến có thể áp dụng rộng rãi với trong mơn Tiếng Việt 1 - CGD tại
các trường Tiểu học có áp dụng dạy chương trình Tiếng Việt 1 - CGD trong và
ngồi tỉnh ..................
5. Những thơng tin cần bảo mật (nếu có): Khơng có.
6. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
6.1. Đối với nhà trường:
- Có đủ điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng dạy học.
- Ban giám hiệu tạo điều kiện trong việc thực hiện, áp dụng sáng kiến tại
nhà trường.
- Có sự góp ý, chia sẻ kinh nghiệm trong chun mơn của đồng nghiệp.
6.2. Đối với giáo viên:
- Thýờng xuyên tự học, tự bồi dýỡng chuyên môn nghiệp vụ, tham gia các
buổi sinh hoạt chuyên môn, nghiên cứu kỹ sách thiết kế, các video hýớng dẫn
trên Internet để nắm chắc được các quy trình dạy mơn Tiếng Việt 1 - CGD.
- Dành nhiều thời gian nghiên cứu cho mỗi bài giảng, có kế hoạch và
phương pháp giảng dạy theo từng đối tượng học sinh. Sử dụng phương pháp dạy
học thích hợp, tạo ra những giờ dạy gây hứng thú học tập cho học sinh để đạt kết
quả học tập cao nhất.
- Giáo viên cần nhẹ nhàng, thân thiện, gần gũi với học sinh.
- Tổ chức kiểm tra, phân loại đối tượng học sinh ngay từ đầu năm học để
có kế hoạch và phương pháp dạy học phù hợp với từng đối tượng học sinh.
- Giáo viên đọc mẫu, phát âm chuẩn để học sinh học tập theo.
17
- Mở đầu tiết học cần giới thiệu bài một cách tự nhiên để gây hứng thú
học tập cho học sinh nhằm lôi cuốn các em vào nội dung bài học.
- Sử dụng linh hoạt các trò chơi học tập nhằm gây hứng thú học tập cho
học sinh.
6.3. Đối với học sinh:
- Đi học đều, có đủ đồ dùng học tập.
- Trong lớp chú ý nghe giảng, tự giác luyện đọc ở lớp cũng như ở nhà.
- Biết hợp tác chia sẻ cùng bạn bè trong lớp nhất là trong việc luyện đọc.
- Cha mẹ học sinh phối hợp tích cực với giáo viên chủ nhiệm trong việc
rèn kỹ năng đọc cho con em mình.
7. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến:
7.1. Theo ý kiến của tác giả:
Trong năm học 2018-2019, ngay từ đầu năm tôi đã tiến hành nghiên cứu
và áp dụng các phương pháp giảng dạy trên vào rèn kỹ năng đọc cho các em học
sinh lớp 1B - Trường tiểu học .................. Tôi nhận thấy các em học sinh có
nhiều tiến bộ hơn so với đầu năm học; học sinh đã phát âm đúng, chuẩn tiếng,
từ, biết phân tích các từ, biết đọc ngắt, nghỉ đúng chỗ,... Kết quả cụ thể như sau:
Thời điểm khảo
sát/ đánh giá
TSHS
HS đọc
tốt
HS đọc
khá
Đầu năm học
35
6
8
13
5
3
Cuối học kì 1
35
11
14
7
2
1
Giữa học kì 2
35
14
16
5
0
0
HS đọc HS đọc
TB
yếu
HS đọc
ngọng
Từ kết quả đạt được giữa học kì 2 so với kết quả khảo sát đầu năm, tôi thấy
khả năng đọc nhanh, đọc đúng cũng như lỗi phát âm của các em được cải thiện đáng
kể, chất lượng đọc được nâng lên, học sinh hứng thú học tập, tạo khơng khí thoải mái
khi tham gia vào hoạt động học đặc biệt là trong môn Tiếng Việt 1 - CGD.
7.2. Theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần
đầu, kể cả áp dụng thử (nếu có): Khơng có
18
8. Danh sách những người đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng
sáng kiến lần đầu (nếu có): Khơng có
Tơi xin cam đoan mọi thơng tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật
và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.
................., ngày 10 tháng 4 năm 2019
Người nộp đơn
.................
19
HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN TRƯỜNG TIỂU HỌC .................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN HUYỆN .................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
20