Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Ứng dụng công nghệ biofloc nuôi thâm canh tôm he chân trắng (Litopenaeus vannamei) vào phát triển sản xuất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (403.08 KB, 9 trang )

VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2

ỨNG DỤNG CƠNG NGHỆ BIOFLOC NUÔI THÂM CANH TÔM HE
CHÂN TRẮNG (Litopenaeus vannamei) VÀO PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT
Nguyễn Thị Thu Hiền1*, Nguyễn Văn Huấn1,
Vũ Anh Tuấn2, Nguyễn Văn Khỏe3
TĨM TẮT
Tơm he chân trắng hay tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) đang là đối tượng chủ lực được
xác định trong mục tiêu phát triển kinh tế của ngành nơng nghiệp. Trong tình hình phát triển mới
của đất nước, ứng dụng công nghệ để nâng cao hiệu quả sản xuất luôn được quan tâm và phát
triển. Công nghệ biofloc là một trong những công nghệ được thế giới nghiên cứu và phát triển
trong khoảng 10 năm trở lại đây và tại Việt Nam, công nghệ biofloc ứng dụng trong nuôi thâm
canh tôm he chân trắng đã được triển khai nghiên cứu từ năm 2011-2013. Mục tiêu nghiên cứu là
năng suất đạt 15 tấn/ha, chi phí sản xuất giảm 10% so với quy trình ni thơng thường, bảo vệ môi
trường. Kết quả nghiên cứu đã cho thấy ứng dụng công nghệ biofloc đã đạt được năng suất trên 15
tấn/ha, chi phí sản xuất giảm 15%. Nguyên vật liệu vận hành cơng nghệ sẵn có và rẻ tiền tại Việt
Nam. Khả năng ứng dụng công nghệ vào sản xuất và tạo ra giá trị gia tăng cho sản phẩm là khả thi.
Từ khóa: cơng nghệ biofloc, ni tôm thâm canh, tôm he chân trắng (Litopenaeus vannamei)

I. MỞ ĐẦU
Hiện nay, nuôi trồng thủy sản trên thế
giới phát triển rất nhanh, đó là việc làm cần
thiết để phát triển kinh tế và đảm bảo an ninh
lương thực, đặc biệt các quốc gia đang phát
triển (Gutierrez-Wing, 2006; Matos, 2006).
Tại Việt Nam, theo quyết định số 899/QĐ –
TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 10/6/2013
phê duyệt đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp
theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát
triển bền vững đã xác định tôm thẻ chân trắng
là đối tượng phát triển kinh tế trọng điểm.


Tuy nhiên, khi phát triển nuôi tôm thâm canh,
dinh dưỡng thừa từ thức ăn, chất thải của
tôm nuôi là một trong những nguyên nhân
gây ra ô nhiễm môi trường nuôi (Piedrahita,
2003; Hiền, 2005). Để đảm bảo gia tăng giá
trị cho sản phẩm và phát triển bền vững nghề
nuôi tôm nước lợ, tiết kiệm nguồn nước sạch

(Gutierrez-Wing và Malone, 2006) bằng các
giải pháp ứng dụng công nghệ để giảm thiểu ô
nhiễm (Hiền, 2012).
Công nghệ biofloc (BFT) ứng dụng trong
nuôi trồng thủy sản được coi là tiếp cận công
nghệ sinh học theo hướng mới (Avnimelech,
2009) dựa trên nguyên lý cơ bản của bùn hoạt
tính dạng lơ lửng (AST). Công nghệ BFT là
giải pháp giải quyết được 2 vấn đề: (1) Loại
bỏ các chất dinh dưỡng chuyển hóa vào sinh
khối vi khuẩn dị dưỡng xử lý nước ao nuôi, (2)
Sử dụng biofloc làm thức ăn bổ sung tại chỗ
cho các lồi ni. Biofloc có chất lượng dinh
dưỡng cao, trở thành thức ăn cho tôm, do đó
có thể làm tăng năng suất ni. Một số các axit
béo có mặt trong biofloc, có thể là tác nhân
sinh học giúp lồi ni kháng bệnh (Andrew,
2008). BFT làm giảm chi phí thức ăn cho
người ni và gia tăng lợi nhuận cho ngành

Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 1
*Email:

2
Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 2
3
Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Khoa Thành, Hải phịng
1

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 6 - THÁNG 8/2015

75


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
ni trồng thủy sản. BFT được coi là giải pháp
để phát triển bền vững ngành nuôi trồng thủy
sản quy mô công nghiệp. Trên thế giới công
nghệ BFT đã được nghiên cứu và phát triển
trong khoảng 10 năm trở lại đây (Avnimelech,
2009) và tại Việt Nam, công nghệ này cũng
đã được nghiên cứu và ứng dụng trong nuôi
tôm thẻ chân trắng từ năm 2011 (Hiền và ctv.,
2013).
Mục tiêu của nghiên cứu này đưa ra kết
quả nghiên cứu ứng dụng công nghệ biofloc
nuôi thâm canh tơm he chân trắng (Litopenaeus
vannamei) (TCT) có năng suất ổn định đạt 15
tấn/ha, gia tăng hiệu quả kinh tế (chi phí sản
xuất giảm ít nhất 10% so với quy trình nuôi
tại địa phương), và giảm ô nhiễm môi trường.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Địa điểm và quy mô nghiên cứu

Nghiên cứu đã được tiến hành tại Viện
Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I tại Hải
Thành, Dương Kinh, Hải Phòng. Triển khai
ứng dụng công nghệ tại các ao nuôi tôm của
doanh nghiệp Cơng ty Trách nhiệm hữu hạn
Khoa Thành, có địa chỉ tại Tân Thành, Dương
Kinh, Hải Phòng với 08 ao nuôi (4 ha) và 02
ao nuôi (01 ha) được triển khai tại phường
Nhà Mát, thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu.
2.2. Phương pháp tiến hành
Sử dụng kết quả nghiên cứu cơ sở khoa
học công nghệ biofloc nuôi tôm he chân trắng,
tỷ lệ C:N = 12:1 (Hiền và ctv., 2012) ứng dụng
công nghệ BFT nuôi quy mô sản xuất (2.000
m2). Kết quả của các nghiên cứu được áp dụng
vào thực tế tại các doanh nghiệp phát triển
nuôi thủy sản với quy mô 5 ha.
Thực hiện 3 ao nuôi tôm ứng dụng cơng
nghệ biofloc (BFT) được ký hiệu Ao1-BFT
(diện tích 2.100 m2); Ao2 – BFT (diện tích
2.000 m2) và Ao3-BFT (diện tích 2.100 m2);
01 ao đối chứng (Ao ĐC diện tích 2.200 m2).
Ao ni dạng hình chữ nhật (trên cơ sở hình
dạng ao ni đã có của Viện Nghiên cứu Ni
trồng Thủy sản I tại Hải Phịng).
76

Tiến hành cải tạo ao ni, bón vơi, lót bạt
bờ ao, đáy ao ni BFT và ao đối chứng. Lắp
hệ thống máy quạt nước với 8 cánh quạt, cơng

suất 2,2 kw/máy (04 dàn quạt/ao). Bơm nước
có độ mặn 23‰ vào các ao nuôi BFT, ao đối
chứng và ao chứa. Lọc nước qua túi lọc mịn 89
lỗ/cm2. Nước trong các ao nuôi đạt độ sâu 1,01,2 m. Tiến hành xử lý nước, bằng chlorine
với nồng độ 35 ppm. Sau 5-7 ngày kiểm tra
dư lượng clo bằng không, tiến hành gây màu
nước bằng phương pháp hữu cơ (cám gạo, chế
phẩm sinh học ủ trong 24 giờ và bổ sung vào
các ao nuôi) và gây biofloc mồi.
Tiến hành thả giống Litopenaeus
vannamei (0,016 ± 0,001 g/con) khoảng
Postlarvae 8 – 10 ngày tuổi vào các ao nuôi
với mật độ 100 con/m2. Tôm giống được kiểm
tra sạch 05 loại bệnh TSV, WSSD, YHV, MBV
và IHHNV. Sử dụng thức ăn công nghiệp
CP (> 42% protein). Nguồn gốc giống UNIPresident. Tùy từng giai đoạn nuôi điều chỉnh
các cỡ thức ăn số # 0 – 5. Hàng ngày, cho tôm
ăn 04 lần vào 6 giờ, 11 giờ, 16 giờ và 22 giờ.
Hàng ngày, kiểm tra lượng thức ăn bằng sàng.
Hàng ngày, tính tốn lượng thức ăn và
bổ sung nguồn carbon (tinh bột và rỉ đường)
theo tỷ lệ C/N 12:1. Tỷ lệ C/N được tính tốn
theo cơng thức (Hiền và ctv., 2012). Duy trì
sự phát triển biofloc bởi Bacillus subtilis (chế
phẩm CP Bioplus), và Nitrosomonas sp (Pond
protect) định kỳ 2 lần/tháng đến 60 ngày nuôi,
từ 60 – 90 ngày nuôi, bổ sung 4 lần/tháng.
Hàm lượng bổ sung 0,1 g/m3 nước. Điều kiện
thích hợp của thơng số chất lượng nước cho ao
ni là nồng độ oxy hịa tan >4 mg/l; pH đạt

7,5 – 8,3; độ kiềm ao nuôi 80 – 170 mg/l (Hiền
và ctv., 2012).
2.3. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu
Phương pháp xác định hệ số chuyển hóa
thức ăn: Cân và xác định lượng thức ăn trên
cơ sở khối lượng tôm nuôi theo ngày. Hệ số
chuyển hóa thức ăn (FCR) được tính bằng
cơng thức (tính cho cả thời gian thí nghiệm,
ni thực nghiệm):

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 6 - THÁNG 8/2015


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
FCR =

cân khối lượng từng cá thể. Tốc độ tăng trưởng
tôm lấy kết quả trung bình của 30 phép đo khối
lượng, được tính bằng công thức:

Tổng lượng thức ăn sử dụng
Tổng khổi lượng tôm thu hoạch

Phương pháp xác định tốc độ tăng trưởng
của tôm: Lấy mẫu ngẫu nhiên 30 cá thể tôm,
Tốc độ tăng trưởng (g/ngày) =
Phương pháp xác định tỷ lệ sống ở bể thí
nghiệm: Xác định số lượng tơm thu được sau
60 ngày thí nghiệm và khối lượng trung bình
30 con. Phương pháp xác định tỷ lệ sống ở ao

Tỉ lệ sống (%) =

Tổng khối lượng của tôm nuôi (g)
số ngày nuôi (ngày) x N

nuôi thực nghiệm: Dùng chài thu mẫu tơm ở
nhiều vị trí khác nhau trong ao ước lượng tỷ lệ
sống của tơm bằng số tơm trung bình trên một
đơn vị diện tích:

Số tơm thu được trung bình trong một chài (con)
Diện tích chài (m2) × Diện tích ao (m2) × K × Mật độ thả (con/m2)

× Diện tích chài (m2)

K là hệ số kinh nghiệm (ở nghiên cứu này, độ sâu của nước là 1,2 m, chiều dài tôm > 9 cm nên lấy hệ
số K = 1,3)

Phương pháp phân tích mẫu đánh giá
chất lượng nước: Nitơ dạng amoni (N - NH4+
hoặc được ký hiệu là TAN) phân tích bằng
phương pháp so màu Nessler.
Số liệu được nhập và xử lý sơ bộ trên
phần mềm Excel. Phân tích số liệu dựa trên
phần tính tốn thống kê SPSS 17.

III. KẾT QUẢ
3.1. Tỷ lệ sống và năng suất
Ở quy mô nghiên cứu ứng dụng công
nghệ tại ao nuôi 2.500 m2, kết quả cho thấy tỷ

lệ sống ở các ao nuôi tôm ứng dụng công nghệ
biofloc (BFT) đạt ≥ 80%, (trong khi ao đối
chứng tỷ lệ sống chỉ đạt 42,2%). Hệ số chuyển
hóa thức ăn FCR dao động khoảng 0,74-0,79;
FCR ao đối chứng (ĐC) là 1,25 (bảng 1).

Bảng 1. Tỷ lệ sống và năng suất tôm nuôi trong các ao BFT và ao ĐC (n = 8; độ tin cậy = 95%)
Ao ni
Diện tích ao (m2)
Mật độ thả (con)/m2
Thời gian ni (ngày)
Trọng lượng trung bình
khi thu (Wtb)
Tỷ lệ sống (%)
FCR
Năng suất tấn/ha

Ao BFT 1
2.100
100
85
17,29 ± 1,02a

Ao BFT 2
2.000
100
90
18,67 ± 0,21 a

Ao BFT 3

2.100
100
87
18,17 ± 1,12 a

Ao ĐC
2.200
100
70
10,65 ± 1,23b

80 ± 1,45a
0,74 ± 0,002a
13,52 ± 0,15a

83,3 ± 2,63 a
0,79 ± 0,016 a
15,55 ± 0,40 a

82,54 ± 3,03 a 42,2 ± 5,73 b
0,76 ± 0,012 a 1,25 ± 0,017 b
15,00 ± 0,23 a 4,34 ± 0,45 b

Ghi chú: Số liệu cùng hàng có ký hiệu chữ cái (a, b, c,...) khác nhau là khác nhau có ý nghĩa (p <0,05)
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 6 - THÁNG 8/2015

77


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2

Tại thời điểm thực hiện nghiên cứu này,
hầu hết các ao nuôi tôm tại khu vực tơm có
hiện tượng tơm chết do bệnh gan tụy khi ao
ni tơm chưa đạt kích cỡ thu hoạch. Ao đối
chứng của đề tài tôm chết sớm do bệnh gan
tụy, vì vậy, tỷ lệ sống tính đến lúc thu hoạch
chỉ đạt 42,2%.
Tại 10 ao nuôi (khoảng 5 ha) ứng dụng
công nghệ BFT ở quy mô sản xuất, ứng dụng

trực tiếp tại các doanh nghiệp tại Hải Phòng
và Bạc Liêu. Kết quả đạt được tơm có tỷ lệ
sống trung bình 76%; hệ số chuyển hóa thức
ăn 0,94; tốc độ tăng trưởng trung bình 1,84
g/tuần; trọng lượng trung bình 22 g/con; thời
gian ni trung bình khoảng 85 ngày; hệ số
tiết kiệm thức ăn 0,37 tương đương khoảng
28% (Bảng 2).

Bảng 2. Kết quả nuôi tôm ứng dụng công nghệ BFT quy mơ lớn 5 ha tại Hải phịng và Bạc Liêu
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9

10
11

Thơng số
Diện tích ao ni
Tỷ lệ sống
Mật độ thả
Thức ăn
FCR
Tốc độ tăng trưởng
Trọng lượng TB
Sản lượng
Thời gian nuôi
Năng suất
Giảm FCR

Đơn vị tính Đối chứng 1 Đối chứng 2 Trung bình ao BFT
m2
5.400
5.000
4.900
%
75,22
76,96
76,0
2
con/m
100
100
101,4

kg
10.441
11.077
7.913
1,32
1,30
0,94
g/tuần
1,54
1,82
1,84
g/con
21,1
22,1
22,0
kg
7.936
8.504
8493
ngày
96
85
85
kg
14.696
17.008
17.337
0,37

Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng ứng dụng

công nghệ BFT nuôi thâm canh tôm thẻ chân
trắng tại Việt Nam có cơ sở khẳng định ổn
định năng suất trên 15 tấn/ha và hệ số thức ăn
giảm (khoảng 28%) đồng nghĩa với giảm chi
phí sản xuất (ít nhất là 10% so với quy trình
ni thơng thường hiện nay).
3.2. Hiệu quả giảm thiểu ô nhiễm môi
trường và phát triển bền vững
Thông số quan trọng của ao nuôi tôm
BFT là tổng nồng độ amoni (TAN) và nitrit
trong nước. Kết quả nghiên cứu cho thấy, nồng
độ TAN trong các ao nuôi BFT (ở quy mô thử
nghiệm ao 2.500 m2 và các ao sản xuất ứng

78

dụng) ln có giá trị thấp dưới 0,5 mg/l và đạt
đảm bảo giá trị thấp trong cả vụ nuôi (trong
khi các ao nuôi đối chứng, nồng độ TAN > 1
mg/l vào những tuần cuối của vụ ni, hình 1,
2). Nồng độ TAN cao sẽ là nguyên nhân tiềm
ẩn phát sinh amoniac (khí độc) gây nguy hiểm
cho tơm ni.
Vấn đề mơi trường nhận được sự quan
tâm rất lớn của hệ thống ni tơm thâm canh
trong đó mối quan tâm lớn nhất là xử lý bùn
và nước (Hình 3). Cơng nghệ BFT hoàn toàn
đáp ứng yêu cầu xử lý bùn và nước ao nuôi
tôm, và như vậy đạt mục tiêu giảm ô nhiễm
mơi trường.


TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 6 - THAÙNG 8/2015


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2

Hình 1. Nồng độ TAN trong các ao nuôi BFT quy mô thử nghiệm 2.000 m2

Hình 2. Nồng độ TAN trong các ao ni ứng dụng BFT quy mơ sản xuất

Hình 3. Hiệu quả môi trường giảm thiểu lượng bùn đáy, đáy ao cuối vụ nuôi không nhiều bùn
tại Công ty TNHH Khoa Thành, Hải Phịng

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 6 - THAÙNG 8/2015

79


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
IV. THẢO LUẬN
Vấn đề năng suất và nâng cao hiệu quả
sản xuất: Tốc độ sinh trưởng của tôm ở ao đối
chứng thấp hơn ao BFT nên trong cùng một
khoảng thời gian nuôi, hiệu quả sử dụng thức
ăn ở ao đối chứng thấp hơn ao BFT. Một cách
cụ thể hơn đó là tơm ăn thức ăn công nghiệp
nhưng lớn chậm dẫn tới FCR tăng; trong khi
đó, ở ao BFT ngồi thức ăn cơng nghiệp cịn
có thức ăn tự nhiên đó chính là các hạt floc.
Công ty nuôi trồng thủy sản Belize đã ứng

dụng công nghệ ni tơm BFT với hệ thống
khép kín. Ao ni tơm với diện tích từ 0,0651,6 ha, mật độ ương nuôi 125 – 140 con/m2,
mật độ thả giống 100 con/m2. Năng suất nuôi
đã đạt 12 tấn/ha. Tỷ lệ C/N được ứng dụng
trong ao nuôi tôm là 11/1. Hệ số chuyển hóa
thức ăn là 2 (sử dụng thức ăn 24%CP) và giảm
so với đối chứng khoảng 20% (Browdy và ctv.,
2001; Burford và ctv., 2003, McIntosh 1999,
2001; Rosenberry, 2006). Một ứng dụng khác
tại Indonexia bởi TS. Nyan Taw thực hiện với
các ao ni tơm lót bạt, mật độ thả giống 130
con/m2, thức ăn 34% CP. Năng suất đã đạt 22
tấn/ha. Hệ số chuyển hóa thức ăn là 1-1,3. Chi
phí sản xuất giảm khoảng 15-20% so với hệ
thống nuôi thông thường (Nyan Taw, 2009).
Tại Central Pertiwi Bahari (CP, Indonesia) đã
nuôi thử nghiệm ứng dụng công nghệ biofloc
lần đầu tiên vào năm 2005 ở 26 ao ni tơm
có diện tích 0,5 ha (Nyan Taw (2005, 2006).
Mật độ thả ni 131 con/m2, trọng lượng trung
bình đạt 17,4 g/con, năng suất đạt 10,9 tấn/
ha, hệ số chuyển hóa thức ăn trung bình 1,04
(giảm gần 40% lượng thức ăn so với các ao
nuôi theo công nghệ thông thường có FCR là
1,73), thời gian ni khoảng 147 ngày. Năm
2008, ở Indonesia, kết quả ứng dụng công nghệ
BFT nuôi TCT đã đạt được năng suất trung
bình 12,686 tấn/ha/vụ ni, hệ số chuyển hóa
thức ăn là 1,13. Năm 2009, kết quả ứng dụng
công nghệ BFT nuôi TCT tại Java, Indonesia

(Avnimelech, 2009) cho thấy năng suất đã
được tăng lên đáng kể, cao nhất trên 18 tấn/ha,
80

hệ số thức ăn cao trên 1,37. Mới đây nhất, năm
2/2010 tại hội thảo “The 2nd YSLME Regional
Science Conference, Xiamen, China, 24-26
Feb, 2010” In Kwon Jang đã công bố kết quả
nghiên cứu hệ thống nuôi tôm chân trắng siêu
thâm canh không trao đổi nước. Quy mô sản
xuất với hệ thống ao 1.000 m2 ứng dụng BFT,
kết quả cho thấy năng suất đạt 5,4 kg/m2 (54
tấn/ha) so với nuôi truyền thống chỉ đạt 0,15 0,3 kg/m2, hệ số chuyển hóa thức ăn là 1,22 (so
với ni truyền thống là 1,7 - 2,0).
Với vấn đề giảm thiểu ô nhiễm mơi
trường tác động chính của ni tơm tới mơi
trường là thức ăn thừa với nồng độ dinh dưỡng
nitơ và phôt pho cao. Khoảng 40% nitơ và
44% phốt pho từ thức ăn sẽ dư thừa trong ao
ni, trong đó khoảng 17,9% nitơ và 40,8%
phốt pho lắng đọng ở bùn đáy ao nuôi (Hien,
2003). Đối với nuôi tôm chân trắng năng suất
cao, hệ số thức ăn thường > 1, lượng thức ăn
thừa rất, nhất là những tháng cuối vụ nuôi,
nồng độ các dạng nitơ trong nước sẽ tăng cao
và sẽ phải thực hiện một số giải pháp giảm
thiểu nồng độ amoni trong nước, tránh hiện
tượng hình thành khí độc amoniac. Phốt pho
chủ yếu tồn tại trong bùn ao ni và có thể
đưa ra ngồi bằng cách loại bỏ bùn. Nếu ni

tơm theo kiểu truyền thống, để giảm thiểu dinh
dưỡng trong ao ni sẽ thực hiện q trình trao
đổi nước ở mức cao. Nếu thực hiện trao đổi
nước, chất thải ra ngoài vực nước tiếp nhận,
gây ô nhiễm và ảnh hưởng tới chất lượng nước
của mơi trường xung quanh. Ở khía cạnh khác,
ni tơm bền vững cần phải có những tác động
nhỏ nhất đến môi trường (chủ yếu là đất và
nước). Định hướng cho sự phát triển bền vững
là tăng hiệu quả sản xuất trên đơn vị hạ tầng
sử dụng, giảm thiểu tối đa lượng chất thải.
Khi ứng dụng công nghệ BFT, nồng độ TAN
trong ao nuôi tôm đã được giải quyết. Cơng
nghệ BFT có thể ứng dụng ni tơm năng
suất cao. Nồng độ TAN trong nước không
được vượt giới hạn 1 mg/l. Tuy nhiên, trong
ao nuôi BFT, nếu biofloc phát triển ổn định sẽ

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 6 - THAÙNG 8/2015


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
khơng có nồng độ TAN > 1 mg/l. Nếu quan
trắc được nồng độ TAN>1 mg/l, cần bổ sung
nguồn các bon, chế phẩm dạng Nitrosomonas
sp, Nitrobacteria sp và Bacillus sp càng sớm
càng tốt. Nồng độ nitrit trong ao ni có thể
tăng cao trong trường hợp vi khuẩn nitrat hóa
hoạt động khơng hiệu quả, hoặc thiếu vi khuẩn
nitrat hóa. Nồng độ nitrit trong ao ni chấp

nhận được khoảng 5 mg/l. Nitơ dạng nitrit gây
độc tố cấp tính cho TCT ở mức hàm lượng
3-6 mg/l (Lin và Chen, 2001) (Lin và Chen,
2003) hầu hết lồi ni biển khi nồng độ nitrit
ở mức hàm lượng 2,2-50 mg/l thì ấu trùng các
lồi đó bị tổn thương (Environment Canada,
2003); với cá giị giống nitrit là thơng số trở
thành độc tố khi mức hàm lượng vượt quá 36,1
mg/l (Cự và Hiền, 2005). Tuy nhiên, khi hàm
lượng TAN cao quá ngưỡng cho phép cũng
gây độc cho động vật thuỷ sinh, nồng độ gây
chết (LC50) là 34,83 mg/l (Cự và Hiền, 2005).
V. KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu ứng dụng công nghệ
biofloc nuôi thâm canh tôm he chân trắng
(Litopenaeus vannamei) đạt năng suất ổn định
15 tấn/ha, gia tăng hiệu quả kinh tế bởi giảm
chi phí thức ăn khoảng 28% (tổng chi phí sản
xuất đã giảm ít nhất 10% so với quy trình ni
tại địa phương). Về vấn đề môi trường nuôi,
nồng độ amonia luôn thấp hơn 0,5 mg/l, hàm
lượng bùn đáy cuối vụ nuôi giảm rõ rệt và như
vậy giảm ô nhiễm môi trường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
Nguyễn Đức Cự, Nguyễn Thị Thu Hiền, Lê Quang
Dũng, 2005. Nghiên cứu quy trình công
nghệ lọc sinh học phục vụ sản xuất giống cá
biển. Báo cáo tổng kết đề tài cấp Viện Khoa
học Việt Nam. Lưu trữ tại Viện Tài nguyên

và Môi trường Biển. Trang 55 – 80.
Nguyễn Thị Thu Hiền, 2012. Luận văn Tiến sỹ
Kỹ thuật Môi trường "Nghiên cứu ứng dụng
công nghệ lọc sinh học xử lý tuần hồn nước
ương ni cá biển". Tài liệu lưu trữ tại Thư

viện Quốc gia Việt Nam và Thư viện Trường
Đại học Bách Khoa Hà Nội. Trang 62- 78.
Nguyễn Thị Thu Hiền, 2005. Nghiên cứu đánh giá
sức tải môi trường tại vùng nuôi trông thủy
sản Đồ Sơn - Hải phòng. Luận văn tốt nghiệp
Thạc sỹ, Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội.
Trang 12- 18.
Nguyễn Thị Thu Hiền, Nguy, 2013. Nghiên cứu
ứng dụng công nghệ Biofloc nuôi thâm canh
tôm he chân trắng (Litopenaeus vannamei),
Báo cáo tổng kết đề tài cấp Nhà nước thuộc
Chương trình Cơng nghệ sinh học Nông
nghiệp và Thủy sản đến năm 2020. Tài liệu
lưu trữ tại Cục Thông tin Công nghệ Quốc
Gia Việt Nam. Trang 34 – 52.
Nguyễn Thị Thu Hiền, Nguyễn Văn Huấn, 2012.
Nghiên cứu xác định tỷ lệ cácbon và nitơ
(C/N) ứng dụng công nghệ Biofloc nuôi
thâm canh tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus
vanamei). Tạp chí Nơng nghiệp và Phát triển
Nơng thơn. Số 22, kỳ 2. Trang 70 – 74.
Tài liệu tiếng Anh
Andrew, J. R., and Jeffrey M. L.,. 2008. Solids
Management in Biofloc Based Aquaculture

Systems. p 56 - 72.
Bender, J., Lee, R., Sheppard, M., Brinkley,
K., Philips, P., Yeboah, Y., and Wah, R.C.,
2004. A waste effluent treatment system
based on microbial mats for black sea
bass Centropristis striata recycled-water
mariculture, Aquac. Eng. 31, 73-82.
Environment Canada, 2003. Canadian water
quality guidelines for the protection of
aquatic life: nitrate ion. Ecosystems healt:
science based solutions report No. 1–6.
National Guidelines and Standards Office.
Water Policy and Coordination Directorate.
p 114
Gutierrez-Wing, M.T., Malone, R.F., 2006,
Biological filters in aquaculture: trends and
research directions for freshwater and marine
applications. Aquac. Eng. 34 (3), 163–171.
Hien, N.T.T., Dung, V., Hambrey, J., 2003. Tropcical
Environment Capacity Aquaculture. p 21.
In Kwon Jang, 2010. Super – Intensive shrimp
culture using no water exchange. The 2nd

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 6 - THÁNG 8/2015

81


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
YSLME Regional Science Conference,

Xiamen, China. p 35 - 42.
Chen, J-C., Lin, C., 2001. Toxicity of copper
sulfate for survival, growth, molting and
feeding of juveniles of the tiger shrimp,
Penaeus monodon. Aquaculture, 192 (1),
55-65.
Chen, J-C., Lin, Y-C., 2003. Acute toxicity of nitrite
on Litopenaeus vannamei (Boone) juveniles
at different salinity levels. Aquaculture 224
(1-4), 193-201.

82

Matos, J., Costa, S., Rodrigues, A., Pereira, R.,
Pinto, I.S., 2006. Experimental integrated
aquaculture of fish and red seaweeds in
Northern Portugal. Aquaculture 252 (1),
Aquaculture of fish and red seaweeds in
Northern Portugal. Aquaculture 252 (1),
31–42.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 6 - THÁNG 8/2015


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2

APPLICATION OF BIOFLOC TECHNOLOGY ON INTENSIVE CULTURE
OF WHITE SHRIMP (Litopenaeus vannamei) FOR PRODUCTION
DEVELOPMENT
Nguyen Thi Thu Hien1*, Nguyen Van Huan1, Vu Anh Tuan2, Nguyen Van Khoe3

ABSTRACT
White leg shrimp (Litopenaeus vannamei) is identified as the main aquaculture species for
economic development strategy of the agriculture industry. The application of technology
for improvement of efficiency in production has been paid a lot of interest and investment.
Biofloc technology is one of the world’s technologies that has been studied and developed
for the last 10 years. In Vietnam, the study on applications of biofloc technology in white
leg shrimp intensive farming has been done from 2011-2013. The objective of this research
was to acquire 15 tonnes of shrimp/ha with 10% reduction in production cost compared to
the conventional method and to provide better environmental protection. These results show
that the application of Biofloc could help to increase the production to 15 tonnes/ha and to
reduce 15% production cost. The material inputsfor operating this system are available and
cheap in Vietnam. The findings show the applicability of the technology in production and
create value-added products.
Keywords: biofloc technology, intensive shrimp culture, white leg shrimp (Litopenaeus vannamei)

Người phản biện: ThS. Nguyễn Đinh Hùng
Ngày nhận bài: 29/5/2015
Ngày thông qua phản biện: 03/8/2015
Ngày duyệt đăng: 07/8/2015

Research Institute for Aquaculture No.1
*Email:
2
Research Institute for Aquaculture No.2
3
Khoa Thanh Limited Liability Company in Hai Phong
1

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 6 - THÁNG 8/2015


83



×