Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Sự hiện diện của White Spot Syndrome Virus, Vibrio parahaemolyticus và Enterocytozoon hepatopenaei trên tôm giống và tôm nuôi nước lợ ở đồng bằng sông Cửu Long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (403.99 KB, 9 trang )

VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

SỰ HIỆN DIỆN CỦA WHITE SPOT SYNDROME VIRUS, Vibrio
parahaemolyticus VÀ Enterocytozoon hepatopenaei TRÊN TÔM
GIỐNG VÀ TÔM NUÔI NƯỚC LỢ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Lê Hồng Phước 1*, Nguyễn Hồng Lộc 1

TÓM TẮT
Nghiên cứu được thực hiện trên 800 mẫu tôm giống thu tại các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, Vũng
Tàu và ĐBSCL và 170 mẫu tôm nuôi nuớc lợ được thu tại các tỉnh Bạc Liêu, Bến Tre, Sóc Trăng,
Trà Vinh và Cà Mau từ tháng 1 đến tháng 10 năm 2019. Kết quả kiểm tra một số mầm bệnh nguy
hiểm bằng phương pháp PCR cho thấy trên tôm giống tỷ lệ nhiễm WSSV, Vibrio parahaemolyticus
gây AHPND và EHP lần lượt là 2,29; 4,86 và 6,4%. Tỷ lệ nhiễm các mầm bệnh này trên tôm
thịt trong mùa khô lần lượt là 9,38; 10,94 và 25,0%. Trong mùa mưa, tỷ lệ nhiễm các mầm bệnh
WSSV, Vibrio parahaemolyticus gây AHPND và EHP trên tôm giống lần lượt là 1,56%; 3,33% và
9,33%. Tỷ lệ nhiễm các mầm bệnh này trên tôm thịt là 12,26; 10,37 và 33,02%. Tỷ lệ nhiễm Vibrio
parahaemolyticus trên tôm giống trong năm 2019 là 4,0%, cao hơn so với năm 2018 (3,63%). Tỷ
lệ nhiễm WSSV trên tôm giống cũng cao hơn (1,87% trong năm 2019, cao hơn so với 1,13% trong
năm 2018). Tỷ lệ nhiễm EHP trên tôm giống năm 2019 cao hơn so với năm 2017 và 2018 (7,78%
năm 2019; 6,75% năm 2018 và 2,73% năm 2017).
Từ khóa: WSSV, EHP, Vibrio parahaemolyticus.

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Một trong những ảnh hưởng lớn đến nghề
nuôi tôm trong những năm gần đây là dịch bệnh
truyền nhiễm do vi rút, vi khuẩn và kể cả ký sinh
trùng. Trong đó, đặc biệt cần quan tâm là bệnh
đốm trắng do WSSV (White Spot Syndrome
Virus), bệnh hoại tử gan tụy cấp (Acute
Hepatopancreatic Necrosis Disease: AHPND)
do Vibrio parahaemolyticus và bệnh do vi bào


tử trùng EHP (Enterocytozoon hepatopenaei)
gây ra cả trên tôm sú và tôm thẻ chân trắng.
Năm 2009, lần đầu tiên trên tôm sú nuôi ở Thái
Lan phát hiện vi bào tử trùng mới có tên là EHP
nhưng chưa được người nuôi chú ý. Cho đến
năm 2011 bệnh do loài vi bào tử trùng này trở
nên nghiêm trọng hơn ở những trang trại nuôi
trên 5 năm và gần biển (Panakorn, 2012). Ở Việt
Nam, bệnh do EHP cũng được tìm thấy trong
những năm gần đây trên cả tôm sú và tơm thẻ
chân trắng. Biểu hiện bệnh khơng có dấu hiệu
điển hình như bệnh đốm trắng hay hoại tử gan
tụy cấp mà chủ yếu là chậm lớn, mềm vỏ và

màu sắc gan tụy nhợt nhạt. Trên thực tế cho thấy
có nhiều trường hợp đồng cảm nhiễm giữa EHP
và AHPND hay tác nhân khác. Hiện nay tình
hình nhiễm EHP trên tơm nước lợ đang có chiều
hướng gia tăng. Đây là một loại bệnh không gây
chết hàng loạt như bệnh đốm trắng, hoại tử gan
tụy cấp nhưng có ảnh hưởng lớn đến kinh tế
đối với nghề nuôi tôm do khi tôm bị bệnh này
sẽ chậm lớn, thậm chí khơng lớn mặc dù vẫn
tiêu tốn rất nhiều thức ăn (tôm nuôi 90-100 ngày
tuổi vẫn có thể chỉ đạt kích cỡ 4-5 g/con).
Ngày 17/9/2019, Tổng Cục Thủy Sản cùng
với Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Sóc Trăng chủ trì
Hội nghị “Giải pháp phát triển ni tơm nước lợ
hiệu quả, bền vững” tại Thành phố Sóc Trăng.
Hội thảo với các báo cáo tham luận và thảo luận

chung chủ yếu tập trung vào bệnh do vi bào tử
trùng EHP, hội chứng phân trắng và hoại tử gan
tụy cấp trên tôm. Đây là các bệnh được xem
là quan trọng nhất đối với tôm nuôi tại khu
vực Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay.
Các ý kiến thảo luận cũng tập trung vào các

Viện Nghiên cứu nuôi trồng Thủy sản II
* Email:

1

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019

15


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

bệnh này và chủ yếu là bệnh do EHP. Ngoài
ra, theo phản ánh của một số địa phương như
Sóc Trăng, Bạc Liêu, Quảng Nam và Khánh
Hịa thì kết quả phân tích mẫu bệnh trên
tôm giống trong thời gian từ tháng 7-8/2019
đã phát hiện thấy tỷ lệ nhiễm EHP khá cao
(trên 11% số mẫu phân tích). Trước thực
trạng trên, việc duy trì kiểm tra và đánh giá
tình trạng nhiễm các mầm bệnh quan trọng
được nêu trên qua các năm là rất cần thiết
và ý nghĩa cho việc thống kê, cảnh báo cũng

như đề xuất các giải pháp phòng và quản lý
các dịch bệnh này. Do đó trong năm 2019,
chúng tơi tiếp tục thực hiện nghiên cứu “Sự
hiện diện của các tác nhân gây bệnh WSSV,
Vibrio parahaemolyticus và vi bào tử trùng
EHP trên tôm giống và tôm nuôi nước lợ ở
Đồng bằng sông Cửu Long”.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP

2.1. Vật liệu
800 mẫu tôm sú và tôm thẻ chân trắng
giống được thu tại các tỉnh Ninh Thuận, Bình
Thuận, Vũng Tàu và Đồng bằng sơng Cửu
Long (Cà Mau, Bạc Liêu). Chi tiết mẫu thu ở
các tỉnh được thể hiện trong Bảng 1.
170 mẫu tôm sú và tôm thẻ chân trắng
thương phẩm được thu tại các tỉnh Bạc Liêu,
Bến Tre, Trà Vinh và Sóc Trăng. Chi tiết mẫu
thu ở các tỉnh được thể hiện trong Bảng 2.
Ngoài ra, cịn có kết quả nghiên cứu trong
năm 2018 từ nhiệm vụ thường xuyên do Viện
Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II thực hiện
trong năm 2018,
Các hóa chất chính: NaOH 0,25N, SDS
0,125%, 10 mM Tris-HCl (pH = 8,3), 1,5 mM
MgCl2, DNA, polymerase 0,125 u (Promega,
Mỹ), các mồi đã được thiết kế và cơng bố trên
các tạp chí trên thế giới (Bảng 3).

Bảng 1. Số mẫu tôm giống thu ở các tỉnh

Tỉnh

Tôm thẻ nuôi

Tôm sú nuôi
Mùa khô

Mùa mưa

Mùa khô

Mùa mưa

Bạc Liêu

4

6

8

20

Bến Tre

6

8

8


6

Sóc Trăng

6

8

7

20

Trà Vinh

6

4

8

10

Cà Mau

2

4

9


20

Tổng

24

30

40

76

Ghi chú: Mùa mưa từ tháng 6-11; mùa khô từ tháng 1-5

Bảng 2. Số mẫu tôm nuôi nước lợ thu ở các tỉnh
Tỉnh

Tôm sú giống
Mùa khô

Mùa mưa

Tôm thẻ giống
Mùa khơ

Mùa mưa

Bình Thuận


10

40

50

20

Ninh Thuận

30

50

80

70

Vũng Tàu

15

40

50

50

Cà Mau, Bạc Liêu


35

80

80

100

Tổng

90

210

260

240

Ghi chú: Mùa mưa từ tháng 6-11; mùa khô từ tháng 1-5
16

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019


VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II

Bảng 3. Trình tự mồi sử dụng trong nghiên cứu.
Tác
nhân


WSSV

Tên mồi

Trình tự (5’-3’)

Kích thước
sản phẩm

F1

AGAGCCCGAATAGTGTTTCCTCAGC

1100 bp

R1

CAGGCAATATAGCCCGTTTGGG

R2

ATTGCCAATGTGACTAAGCGG

526 bp

R3

AACACAGCTAACCTTTATGAG

250 bp


VpPirB-392F

TGATGAAGTGATGGGTGCTC3

VP
VpPirB-392R

TGTAAGCGCCGTTTAACTCA

EHP 510F

GCCTGAGAGATGGCTCCCACGT

EHP 510R

GCGTACTATCCCCAGAGCCCGA

EHP

2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp semi-nested PCR phát
hiện WSSV trên tôm (Kiatpathomchai và ctv.,
2001)
Sử dụng 4 mồi F/R1/R2/R3 (Bảng 3).
Thành phần phản ứng bao gồm: 200 mM dNTP,
1,5 mM MgCl2, 0,1 mM mồi F1, 0,2 mM mồi
R1, 0,3 mM mồi R2, 0,5 mM mồi R3, 1,25 unit
Taq polymerase trong tổng thể tích 50 µl. Với
chu trình nhiệt: 93oC/5 phút; 5 chu kỳ: 93oC/20

giây, 70oC/20 giây, 72oC/20 giây; 20 chu kỳ:
93oC/20 giây, 55oC/20 giây, 72oC/20 giây, 25
chu kỳ: 93oC/20 giây, 70oC/20 giây, 72oC/20
giây. Sản phẩm PCR sau đó được điện di trên
gel agarose 2%. Nếu mẫu nhiễm vi rút ở mức độ
nặng, sản phẩm dự kiến có kích thước 1000bp,
526bp và 250bp. Nếu mẫu nhiễm vi rút ở mức
độ trung bình, sản phẩm dự kiến có kích thước
526bp và 250bp. Nếu mẫu nhiễm vi rút ở mức
độ nhẹ sản phẩm dự kiến có kích thước 250bp.
2.2.2. Phương pháp PCR xác định V.
parahaemolyticus gây bệnh AHPND (Han và

Tác giả

Kiatpathom
chai và
ctv., 2001

392 bp

Han và ctv.,
2015

510 bp

Tang và ctv.,
2015

ctv., 2015)

Sử dụng cặp mồi VpPirB-392/ VpPirB392R (Bảng 3). Thành phần phản ứng bao gồm:
0,2 mM dNTP, 1,5 mM MgCl2, 25 pmol mỗi
mồi và 0,625 unit Taq polymerase trong tổng thể
tích 50 µl. Chu trình nhiệt: 35 chu kỳ: 93oC/3
phút; 94°C/30 giây, 60°C/30 giây, 72°C/30
giây; kết thúc: 72°C/7 phút. Sản phẩm PCR sau
đó được điện di trên gel agarose 2%, kích thước
dự kiến là 284 bp.
2.2.3. Phương pháp PCR phát hiện EHP
trên tôm (Tang và ctv., 2015)
Sử dụng cặp mồi EHP 510 F/EHP 510R
(Bảng 3) để xác định sự hiện diện của EHP trên
mẫu tôm thu. Thành phần phản ứng bao gồm:
200 mM dNTP, 1,5 mM MgCl2, 0,1 mM mồi và
0,625 unit Taq polymerase trong tổng thể tích
50 µl. Chu trình nhiệt: 94°C/3 phút; 40 chu kỳ:
94°C/30 giây, 60°C/30 giây, 72°C/30 giây; kết
thúc 72oC/5 phút. Sản phẩm PCR sau đó được
điện di trên gel agarose 2%, kích thước dự kiến
là 510 bp.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019

17


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

2.2.4. Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu được lưu trữ trên Microsoft Excel

nhằm xử lý và đánh giá tỷ lệ nhiễm các mầm
bệnh.
III. KẾT QUẢ
3.1. Khảo sát sự hiện diện các mầm bệnh
WSSV, V. parahaemolyticus gây AHPND và
EHP trên tôm giống cung cấp cho các tỉnh
ĐBSCL
3.1.1. Kết quả kiểm tra virus gây bệnh đốm
trắng WSSV trên tơm giống
Trong mùa khơ 2019, có 90 mẫu tôm sú
giống và 260 mẫu tôm thẻ giống được kiểm
tra. Kết quả kiểm tra cho thấy có 3 mẫu tôm sú
và 5 mẫu tôm thẻ nhiễm WSSV (tỷ lệ 3,33%
và 1,92%) có nguồn gốc ở Ninh Thuận, Bình
Thuận và ĐBSCL. Trong mùa mưa 2019, trong
tổng số 210 mẫu tôm sú giống và 240 mẫu tôm
thẻ giống được kiểm tra, có 3 mẫu tơm sú giống
nhiễm WSSV (1,43%), trong đó có 1 mẫu ở
Ninh Thuận và 2 mẫu ở ĐBSCL. Có 4 mẫu tơm
thẻ giống nhiễm WSSV (1,25%), mẫu này có
nguồn gốc từ ĐBSCL, kết quả chi tiết được thể
hiện trong Bảng 4.
3.1.2. Kết quả kiểm tra vi khuẩn V.
parahaemolyticus gây bệnh AHPND (VP) trên
tôm giống
Trong mùa khô 2019, có 90 mẫu tơm sú
giống và 210 mẫu tơm thẻ giống được kiểm

18


tra. Kết quả kiểm tra cho thấy có 4 mẫu tôm sú
giống (4,44%) nhiễm V. parahaemolyticus gây
AHPND gồm 2 mẫu ở Ninh Thuận và 2 mẫu
ở ĐBSCL. Đối với tơm thẻ chân trắng có 13
mẫu (5,0%) nhiễm V. parahaemolyticus gây
AHPND, trong đó có 1 mẫu ở Bình Thuận, 4
mẫu ở Ninh Thuận, 4 mẫu ở ĐBSCL và 2 mẫu
ở Vũng Tàu. Trong mùa mưa 2019, trong tổng
số 210 mẫu tôm sú giống và 240 mẫu tôm thẻ
giống được kiểm tra, có 8 mẫu (3,81%) tơm sú
giống nhiễm vi khuẩn V. parahaemolyticus gây
bệnh AHPND và 7 mẫu tôm thẻ giống (2,92%)
nhiễm vi khuẩn V. parahaemolyticus gây bệnh
AHPND. Kết quả chi tiết được thể hiện trong
Bảng 4.
3.1.3. Kết quả kiểm tra vi bào tử trùng
EHP trên tôm giống
Trong mùa khô 2019, khi kiểm tra 90 mẫu
tôm sú giống ghi nhận 8 mẫu (8,89%) dương
tính với EHP. Đối với tơm thẻ giống khi kiểm
tra 260 mẫu có 13 mẫu (5,0%) dương tính với
EHP. Trong mùa mưa 2019, trong tổng số 210
mẫu tôm sú giống và 240 mẫu tôm thẻ giống
được kiểm tra, có 18 mẫu tơm sú (8,57%) và
24 mẫu tơm thẻ (10,0%) nhiễm EHP. Như vậy
trong mùa mưa năm 2019 tỷ lệ nhiễm EHP trên
tôm thẻ cao gấp đôi so với mùa khô, tỷ lệ nhiễm
EHP trên tôm sú (6,0%), thấp hơn so với tôm
thẻ (9,33%), kết quả chi tiết được thể hiện trong
Bảng 4.


TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

Bảng 4. Kết quả kiểm tra WSSV, V. parahaemolyticus và EHP trên tôm giống
% WSSV (+)
Loại
tơm

PL sú

PL thẻ

% VP (+)

% EHP(+)

Tỉnh

Khơ

Mưa

Khơ

Mưa

Khơ


Mưa

Bình Thuận

10,00

0,00

0,00

2,50

10,00

5,00

Ninh Thuận

0,00

2,00

6,67

6,00

10,00

8,00


Vũng Tàu

0,00

0,00

0,00

2,40

6,67

7,50

ĐBSCL

5,71

2,50

5,71

3,75

8,57

11,25

Tổng


3,33

1,43

4,44

3,81

8,89

8,57

Bình Thuận

4,00

0,00

2,00

0,00

4,00

5,00

Ninh Thuận

1,25


1,42

5,00

2,86

6,25

8,57

Vũng Tàu

0,00

0,00

4,00

2,00

2,00

10,00

ĐBSCL

2,50

3,00


5,00

4,00

6,25

12,00

Tổng

1,92

1,67

5,00

2,92

5,00

10,0

Tổng cộng

2,92

1.56

4,86


3,33

6,0

9,33

3.1.4. So sánh tỷ lệ nhiễm các mầm bệnh
WSSV, V. parahaemolyticus, EHP trên tôm
giống thu năm 2018 và 2019
Tỷ lệ nhiễm V. parahaemolyticus trong năm
2019 (4,0%) cao hơn so với năm 2017 (3,63%).

Tỷ lệ nhiễm WSSV trong năm 2019 cũng cao
hơn so với năm 2018 (1,13% trong năm 2018 và
1,88% trong năm 2019). Với EHP cũng ghi nhận
tương tự, tỷ lệ nhiễm trong năm 2019 là 7,88%
cao hơn so với năm 2018 (6,75%) (Hình 1)

Hình 1. Tỷ lệ nhiễm các mầm bệnh trên tôm giống trong năm 2018 & 2019
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019

19


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

3.2. Xác định sự hiện diện của các mầm
bệnh WSSV, V. parahaemolyticus gây bệnh
AHPND và EHP trên tôm nuôi thương phẩm

Trong mùa khô 2019, có 24 mẫu tơm sú và 40
mẫu tơm thẻ nuôi được kiểm tra đồng thời 3 mầm
bệnh nguy hiểm là WSSV, V. parahaemolyticus
gây bệnh AHPND và EHP. Có 6 mẫu nhiễm WSSV
(9,38%). Có 7 mẫu nhiễm V. parahaemolyticus
gây bệnh AHPND (10,94%), 16 mẫu nhiễm EHP

(25,0%) (Bảng 5).
Trong mùa mưa 2019, trong tổng số 30 mẫu
tôm sú và 76 mẫu tơm thẻ có 13 mẫu nhiễm WSSV
(12,26%), 11 mẫu nhiễm V. parahaemolyticus gây
bệnh AHPND (10,38%) và 35 mẫu nhiễm EHP
(33,02%).
Kết quả kiểm tra cho thấy, tỉ lệ nhiễm WSSV
và EHP trong các tháng mùa mưa cao hơn các tháng
mùa khô.

Bảng 5. Kết quả kiểm tra WSSV, V. parahaemolyticus và EHP trên tơm ni
Loại
tơm

Sú ni

Thẻ ni

Tỉnh

% WSSV (+)

% EHP(+)


Khơ

Mưa

Khơ

Mưa

Khơ

Mưa

Bạc Liêu

0,00

16,60

0,00

16,66

25,00

33,33

Bến Tre

0,00


12,50

16,66

12,50

33,33

25,00

Sóc Trăng

16,60

12,50

16,66

25,00

16,66

37,50

Trà Vinh

16,60

25,00


16,66

0,00

33,33

25,00

Cà Mau

0,00

0,00

0,00

25,00

0,00

50,00

Tổng

8,33

13,33

12,50


16,67

25,00

33,33

Bạc Liêu

16,66

15,00

16,66

10,00

33,33

30,00

Bến Tre

12,50

0,00

12,50

0,00


37,50

16,66

Sóc Trăng

12,50

10,00

12,50

10,00

37,50

40,00

Trà Vinh

0,00

20,00

25,00

10,00

25,00


10,00

Cà Mau

25,00

10,00

0,00

5,00

25,00

40,00

Tổng

10,00

11,84

10,00

7,89

25,00

32,89


9,38

12,26

10,94

10,38

25,00

33,02

Tổng cộng
IV. THẢO LUẬN

Nghiên cứu của Rahman và ctv., (2007a,b)
cho thấy nhiệt độ có liên quan đến sự nhân lên
của WSSV. Nhóm tác giả này bố trí thí nghiệm
gây nhiễm tơm với các nghiệm thức khác nhau
và thay đổi nhiệt độ giữa 27 và 33oC. Ở nghiệm
thức 27oC liên tục trong thời gian gây nhiễm tơm
với WSSV cho thấy tơm có dấu hiệu đốm trắng
sau 24 giờ và chết rất sớm sau 36 giờ gây nhiễm,

20

% VP (+)

tỷ lệ nhiễm đạt 100% sau 60 giờ gây nhiễm. Ở

nghiệm thức duy trì nhiệt độ nước ổn định ở
33°C cho tỷ lệ chết rất thấp từ 0-10%. Ở nghiệm
thức trước gây nhiễm duy trì ở 27oC nhưng sau
gây nhiễm duy trì ở 33oC cho thấy mức độ chết
ở mức thấp hơn so với nhóm nghiệm thức ổn
định ở 27oC. Tỷ lệ chết ở nghiệm thức này đạt
100% sau 96 giờ gây nhiễm. Kết quả thí nghiệm
này cho thấy khi tăng nhiệt độ có khả năng ức

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

chế sự nhân lên của WSSV. Điều này khá trùng
hợp trong thực tế khi nhiệt độ thấp, mưa nhiều
thì khả năng bùng phát dịch bệnh đốm trắng
cũng tăng cao. Kết quả của nghiên cứu này cho
thấy tỷ lệ nhiễm WSSV trên tôm nuôi trong các
tháng mùa mưa cao hơn các tháng mùa khô.
Một số nghiên cứu trên thế giới như Tendencia
và Verreth (2011), Gao và ctv., (2011) cho thấy
yếu tố độ mặn thấp, hàm lượng Vibrio tổng số
trong nước ao cao và sự biến động nhiệt độ
trong ngày lớn là những yếu tố liên quan tới sự
bùng phát bệnh đốm trắng trên tôm. Ở điều kiện
nhiệt độ trên 35oC và dưới 15oC sự xuất hiện của
virus gây bệnh đốm trắng giảm rõ rệt và khoảng
nhiệt độ từ 25-28oC là thích hợp nhất cho sự
phát triển của WSSV. Nghiên cứu của Phước và

ctv., (2008, 2009) cho thấy hiện tượng đồng cảm
nhiễm của WSSV và Vibrio campbellii làm tăng
mức độ và tỷ lệ chết của tơm thẻ chân trắng trong
điều kiện phịng thí nghiệm. Theo nhóm tác giả
này thì khi tơm bị nhiễm với WSSV thì sẽ làm
tăng khả năng mẫn cảm với Vibrio campbellii.
Kết quả gây nhiễm tôm với WSSV và sau 24 giờ
với Vibrio campbellii cho thấy tỷ lệ chết tăng
đáng kể ở nghiệm thức gây nhiễm với WSSV
và Vibrio campbellii. Đối với nghiệm thức gây
nhiễm với đơn tác nhân ghi nhận tôm chết chậm
hơn và tỷ lệ chết cũng thấp hơn.
Tỷ lệ nhiễm EHP trên tôm nuôi được ghi
nhận khá cao (từ 25-33%). Theo Tourtip và
ctv., (2009), bệnh do vi bào tử trùng ngày càng
tăng cao ở các nước Đông Nam Á. Hiện nay,
EHP được ghi nhận đã xuất hiện ở Trung Quốc,
Indonesia, Malaysia, Việt Nam, Thái Lan, Ấn Độ
và một số nước ở vùng Nam Á. Theo Aranguren
và ctv., (2017), EHP được xác định là yếu tố làm
tăng sự mẫn cảm của tôm thẻ chân trắng đối với
bệnh gan tụy cấp AHPND và triệu chứng SHPN
(Septic hepatopancreatic necrosis) bao gồm hội
chứng phân trắng và dị hình gây ra bởi các lồi
vi khuẩn Vibrio. Do đó, việc kiểm sốt và phịng
tránh lồi vi bào tử trùng này trong q trình
ni là rất quan trọng.
Liên quan đến bệnh do EHP, ở Cà Mau,
trong tháng 10/2019 có tổng diện tích tơm bị
thiệt hại là 179,67 ha trong đó bệnh đốm trắng


chiếm 26,8%, bệnh hoại tử gan tụy cấp 55,2%
và bệnh khác không xác định rõ tác nhân là
18% (trong đó có nhóm tơm chậm lớn). Huyện
Phú Tân có diện tích bị bệnh cao nhất, kế đến
là huyện Đầm Dơi, Cái Nước, Trần Văn Thời,
Ngọc Hiển, Năm Căn và Thành phố Cà Mau.
Tôm nuôi phát bệnh tập trung ở giai đoạn thả
nuôi từ 20-65 ngày tuổi, thiệt hại nhiều nhất ở
giai đoạn nuôi từ 20-45 ngày tuổi. Ở Sóc Trăng,
trong tháng 10/2019 diện tích tơm ni bị thiệt
hại là 939,9 ha. Tính đến thời điểm hiện tại diện
tích thiệt hại tơm ni nước lợ ở mức 9,2%.
Tôm bệnh tập trung ở các huyện Trần Đề, Vĩnh
Châu và Mỹ Xuyên với các bệnh chủ yếu là hoại
tử gan tụy cấp, phân trắng và chậm lớn. Ở Bạc
Liêu, kết quả kiểm tra bệnh tôm trên 196 mẫu
cho thấy có 78 mẫu nhiễm EHP (39,7%).
Trong thời gian từ tháng 6-8/2019, kết
quả giám sát của Viện Nghiên cứu Nuôi trồng
Thủy sản II, trên tổng số 16 ao nuôi tôm thẻ
chân trắng và tôm sú nuôi thâm canh thuộc
huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu và huyện Cái
Nước, tỉnh Cà Mau đã phát hiện thấy tơm có tỷ
lệ nhiễm EHP ở mức trung bình 15%. Ngồi ra
theo phản ánh của một số địa phương như Sóc
Trăng, Bạc Liêu, Quảng Nam và Khánh Hịa
thì kết quả phân tích mẫu bệnh trên tơm giống
trong thời gian từ tháng 7-8/2019 đã phát hiện
thấy tỷ lệ nhiễm EHP khá cao (trên 11% số mẫu

phân tích).
V. KẾT LUẬN
Đối với mẫu tôm giống tỷ lệ nhiễm Vibrio
parahaemolyticus gây bệnh AHPND trong mùa
khô là 4,86% và trong mùa mưa là 3,33%. Tỷ lệ
nhiễm WSSV trong mùa khô là 2,29% và mùa
mưa là 1,56%. Tỷ lệ nhiễm vi bào tử trùng ghi
nhận trong mùa khô là 6,0% và trong mùa mưa
là 9,33%.
Đối với tôm thương phẩm tỷ lệ nhiễm
WSSV trong mùa mưa là 11,26% và mùa khô
là 9,38%. Tỷ lệ nhiễm V. parahaemolyticus gây
AHPND trong mùa khô là 10,94% và mùa mưa
là 10,38%. Tỷ lệ nhiễm EHP trong mùa khô là
25,0% và mùa mưa là 33,02%.
Tỷ lệ nhiễm V. parahaemolyticus, EHP

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019

21


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

và WSSV trong năm 2019 đều cao hơn so với
năm 2018. Cụ thể là tỷ lệ nhiễm WSSV cao hơn
0,75%, tỷ lệ nhiễm V. parahaemolyticus cao
hơn 0,37% và tỷ lệ nhiễm EHP cao hơn 1,13%
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Aranguren L. F., Jee Eun Han, Kathy F.J. Tang,

2017. Enterocytozoon hepatopenaei (EHP) is a
risk factor for acute hepatopancreatic necrosis
disease (AHPND) and septic hepatopancreatic
necrosis (SHPN) in the Pacific white shrimp
Penaeus vannamei. Aquaculture 471: 37-42.
Gao, H., Kong, J., Li, Z., Xiao, G., Meng, X., 2011.
Quantitative analysis of temperature, salinity and
pH on WSSV pro-liferation in Chinese shrimp
Fenneropenaeus chinensis by real-time PCR.
Aquaculture 312: 26-31.
Han, J.E., Mohney, L.L., Tang, K.F.J., Pantoja,
C.R., Lightner, D.V., 2015. Plasmid mediated
tetracycline resistance of Vibrio parahaemolyticus
associated with acute hepatopancreatic necrosis
disease (AHPND) in shrimps. Aquaculture
Reports (2): 17–21.
Kiatpathomchai W., Boonsaeng V., Tassanakajon A.,
Wongteerasupaya C., Jitrapakdee S., Panyim S.,
2001. A non-stop, single-tube, semi-nested PCR
technique for grading the severity of white spot
syndrome virus infections in Penaeus monodon.
Dis Aquat Organ 47(3): 235-9
Panakorn, S., 2012. Opinion article: more on early
mortality syndrome in shrimp. Aquaculture Asia
Pacific, 8 (1): 8-10.
Phuoc, L.H., Corteel, M., Nauwynck, H.J., Pensaert,
M.B., Alday-Sanz, V., Van den Broeck, W.,
Sorgeloos, P., Bossier, P., 2008. Increased
susceptibility of white spot syndrome virus
infected Litopenaeus vannamei to Vibrio

campbellii. J. Environ. Microbiol. 10 (10): 2718–
2727.

22

Phuoc, L.H., Corteel,M., Thanh, NC., Nauwynck,
H.J., Pensaert, M.B., Alday-Sanz, V., Van den
Broeck,W., Sorgeloos, P., Bossier, P., 2009.
Effect of dose and challenge routes of Vibrio spp.
on co-infection with white spotsyndrome virus in
Penaeus vannamei. Aquaculture 290: 61–68
Rahman, M.M., Corteel, M., Dantas-Lima, J.J.,
Wille, M., Alday-Sanz, V., Pensaert, M.B.,
Sorgeloos, P., Nauwynck, H.J., 2007a. Impact of
daily fluctuations of optimum (27 °C) and high
water temperature (33 °C) on Penaeus vannamei
juveniles infected with white spot syndrome
virus (WSSV). Aquaculture 269: 107–113.
Rahman, M.M., Corteel, M.,Wille, M., Alday-Sanz,
V., Pensaert, M.B., Sorgeloos, P., Nauwynck, H.J.,
2007b. The effect of raising water temperature to
33 °C in Penaeus vannamei juveniles at different
stages of infection with white spot syndrome
virus (WSSV). Aquaculture 272: 240–245
Tang, K.F.J., Pantoja, C.R., Redman, R.M., Han, J.E.,
Tran, L.H., Lightner, D.V., 2015. Development
of in situ hybridization and PCR assays for
the detection of Enterocytozoon hepatopenaei
(EHP), a microsporidian parasite infecting
penaeid shrimp. J Invertebr Pathol 130: 37–41.

Tendencia, E.A., Verreth, J.A.J., 2011. Temperature
fluctuation,low salinity, watermicroflora: risk
factors for WSSV outbreaksin Penaeus monodon.
Isr J Aquacult-Bamid 63: 1−7
Tourtip, S., Wongtripop, S., Stentiford, G.D.,
Bateman, K.S., Sriurairatana, S., Chavadej,
J., Sritunyalucksana, K., Withyachumnarnkul,
B., 2009. Enterocytozoon hepatopenaei sp.
nov. (Microsporida: Enterocytozoonidae), a
parasite of the black tiger shrimp Penaeus
monodon (Decapoda: Penaeidae): Fine structure
and phylogenetic relationships. Journal of
invertebrate pathology 102(1): 21-29.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

THE PREVALENCE OF WHITE SPOT SYNDROME VIRUS (WSSV),
Vibrio parahaemolyticus AND Enterocytozoon hepatopenaei IN
POSTLARVAE AND GROW-OUT BRACKISH-WATER SHRIMPS IN
THE MEKONG DELTA
Le Hong Phuoc 1*, Nguyen Hong Loc1

ABSTRACT
This study was conducted on 800 postlarvae samples collected at Ninh Thuan, Binh Thuan, Vung
Tau and Mekong Delta areas and 170 farmed shrimp samples collected at Bac Lieu, Soc Trang,
Ben Tre, Tra Vinh and Ca Mau. The samples were collected from January to October of 2019 and
were tested for several dangerous pathogenic agents including WSSV, Vibrio parahaemolyticus and

Enterocytozoon hepatopenaei (EHP) via PCR method. In dry season, the percentage of postlarvae
samples positive with WSSV, Vibrio parahaemolyticus and EHP were 2.29%, 4.86% and 6.4%,
respectively. Whereas the percentage of farmed shrimp samples positive with WSSV, Vibrio
parahaemolyticus and EHP were 9.38%, 10.94% and 25.00%, respectively. In rainy season, the
percentage of postlarvae samples positive with WSSV, Vibrio parahaemolyticus and EHP were
1.56%, 3.33% and 9.33%, respectively, while the percentage of farmed shrimp samples positive
with WSSV, Vibrio parahaemolyticus and EHP were 12.26%, 10.37% and 33.02%, respectively.
The percentage of postlarve samples positive with Vibrio parahaemolyticus in 2019 was 4.0%,
which was higher than that of 2018 (3.63%). The percentage of postlarve samples positive with
WSSV in 2019 was also higher than that in 2019, which were 1.87% and 1.13%, respectively. EHP
infection in postlarvae was 7.78% in 2019 which was higher than that of 2017 (2.73%) and 2018
(6.75%).
Keywords: WSSV, EHP, Vibrio parahaemolyticus.
Người phản biện: TS. Nguyễn Thị Ngọc Tĩnh

Người phản biện: TS. Nguyễn Ngọc Phước

Ngày nhận bài: 02/12/2019

Ngày nhận bài: 02/12/2019

Ngày thông qua phản biện: 19/12/2019

Ngày thông qua phản biện: 20/12/2019

Ngày duyệt đăng: 25/12/2019

Ngày duyệt đăng: 25/12/2019

Research Institute for Aquaculture II

* Email:

1

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019

23



×