VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
SO SÁNH TĂNG TRƯỞNG TÔM CÀNG XANH
(Macrobrachium rosenbergii) CHỌN GIỐNG VỚI TÔM
TỰ NHIÊN TRONG ĐIỀU KIỆN AO NI THÍ NGHIỆM
Nguyễn Thanh Vũ1*, Trịnh Quốc Trọng1, Nguyễn Trung Ký1,
Huỳnh Thị Bích Liên1, Nguyễn Thị Kiều Nga1, Nguyễn Văn Hiệp1
TĨM TẮT
Thí nghiệm đánh giá tăng trưởng của nhóm tơm chọn giống và tơm tự nhiên được thực hiện trong
một ao 2.000 m2 ở mật độ ni 5,3 con/m2. Từ hai nhóm tơm ban đầu là chọn giống và tự nhiên, đã
tiến hành ghép phối để tạo ra 4 nhóm (theo thứ tự tơm mẹ × tơm bố) là chọn giống × chọn giống
(CG×CG), chọn giống × tự nhiên (CG×TN), tự nhiên × chọn giống (TN×CG) và tự nhiên × tự
nhiên (TN×TN). Sau thời gian ni 97–111 ngày (từ khi đánh dấu (15/6/2015 – 23/6/2015) đến khi
thu hoạch (29/9/2015 – 6/10/2015), giữa các nhóm tơm có sự khác biệt về khối lượng thu hoạch
(P<0,001) và tỉ lệ sống (36,1 – 48,5%). Nhóm tơm CG×CG có khối lượng thu hoạch trung bình
25,3 g, lớn hơn so với ba nhóm cịn lại (14,7 – 19,4 g). Tương tự, nhóm tơm CG×CG có tỉ lệ sống là
48,5% so với 36,1 – 44,0% của ba nhóm tơm cịn lại. Nhóm tơm TN×TN có khối lượng thu hoạch
trung bình (15,5 g) và tỉ lệ sống (36,1%) thấp nhất. Hai nhóm tơm CG×TN và TN×CG có khối
lượng thu hoạch (19,4 và 14,7 g) và tỉ lệ sống (39,9 và 40,0%) nằm giữa hai nhóm ghép phối nội
nhóm và thấp hơn so với nhóm CG×CG.
Từ khóa: tơm càng xanh, tơm chọn giống, tơm tự nhiên, tăng trưởng.
I. GIỚI THIỆU
Tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) là lồi tơm nước ngọt có kích cỡ lớn và
được nuôi phổ biến trên thế giới. Việt Nam là
một trong các quốc gia nuôi tôm càng xanh phát
triển, với sản lượng tôm nuôi tăng dần từ năm
1996 (3.620 tấn) và đạt cao nhất vào năm 2007
(7.900 tấn). Trong các năm sau đó, sản lượng
tơm ni ln thấp 7.700 tấn (2009), thậm chí
dưới mức 6.000 tấn từ năm 2010 – 2014 (FAO,
2016). Nhiều cơ chế, chính sách đã được đề ra
để cải thiện nuôi tôm càng xanh tại khu vực
Nam Bộ song nuôi tôm càng xanh tiếp tục giảm,
đạt 4.785 tấn năm 2014 và 5.476 tấn năm 2015
(FAO, 2016). Một nguyên nhân quan trọng của
sự giảm sản lượng này là chất lượng con giống
suy giảm.
Hiện nay, để cải thiện nghề nuôi tơm càng
xanh thì chất lượng con giống là quan trọng.
Chương trình chọn giống tơm càng xanh đầu
tiên được bắt đầu năm 2007 tại Viện Nghiên cứu
Nuôi trồng Thủy sản 2. Hiệu quả chọn lọc được
báo cáo từ 4,4 – 7,3%/thế hệ (Đinh Hùng và ctv.,
2013). Mục đích của nghiên cứu này nhằm so
sánh tăng trưởng của tôm càng xanh chọn giống
với tôm tự nhiên nhằm đánh giá hiệu quả thực
tế của việc chọn lọc.
Trung tâm Quốc gia Giống Thủy sản Nước ngọt Nam Bộ, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II
*Email:
1
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016
3
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1. Tôm bố mẹ
Vật liệu ban đầu được thu thập vào năm
2007, với 3 dịng tơm cách xa nhau về mặt địa
lý bao gồm: (1) dòng Mêkong được thu thập
tại nhiều điểm khác nhau trên hệ thống sông
Mêkong (thu tại Châu Đốc - An Giang; Hồng
Ngự - Đồng Tháp; Mỹ Tho - Tiền Giang và Kế
Sách - Sóc Trăng) tại Việt Nam, (2) dòng Đồng
Nai thu ở thượng nguồn (sông La Ngà) và hạ
nguồn (phần tiếp giáp với Thành phố Hồ Chí
Minh nơi chảy ra biển Cần Giờ) và (3) dịng
Malaysia được nhập nội từ Malaysia thơng
qua Trung tâm nghề cá thế giới (WorldFish
Center). Số lượng mỗi dòng thu khoảng
1.000 con, kích thước 10 – 20 g/cá thể, riêng
tơm dịng Malaysia được nhập về ở kích cỡ
postlarvae 30 ngày tuổi, số lượng 3.000 cá thể
(0,1 g/cá thể). Các dịng tơm sau khi thu thập
được ni thuần hóa trong giai lưới, nuôi vỗ
thành thục và sinh sản thế hệ đầu tiên G0 vào
năm 2008. Thế hệ G0 được gọi là quần đàn
ban đầu cho chương trình chọn giống. Việc
sản xuất gia đình thế hệ G0 hồn thành trong
vịng một tháng với 80 gia đình full-sib được
tạo ra bằng cách lai tổ hợp giữa 3 dịng tơm
nói trên (Bảng 1). Đàn tơm bố mẹ được hình
thành bao gồm 594 cá thể tơm bố mẹ hiện diện
ở 69 gia đình khác nhau (trên tổng số 80 gia
đình) có giá trị chọn giống (breeding value BV) của gia đình cao nhất (G1). Từ thế hệ G1,
áp dụng phương pháp chọn lọc gia đình và các
cá thể có giá trị chọn giống cao trong mỗi gia
đình cho sản xuất các thế hệ tiếp theo theo tính
trạng khối lượng thu hoạch.
Thực hiện nghiên cứu này, nhóm tơm chọn
giống (chọn giống) có kích cỡ 32 – 62 g/con,
được lựa chọn từ thế hệ chọn lọc G6. Nhóm
tơm tự nhiên (tự nhiên) có kích cỡ 30 – 60 g/
con, được thu bằng cách đóng đáy trên sông
4
Cổ Chiên, huyện Mỏ Cày Nam, tỉnh Bến Tre,
vào tháng 2/2015.
2.2. Ghép phối
Từ hai nhóm tơm chọn giống và tự nhiên,
thực hiện ghép phối để tạo ra 4 nhóm ghép phối
(chọn giống × chọn giống, ký hiệu CG×CG;
chọn giống × tự nhiên, ký hiệu CG×TN; tự
nhiên × chọn giống, ký hiệu TN×CG và tự nhiên
× tự nhiên, ký hiệu TN×TN) trong thời gian 30
ngày (8/3/2015 đến 7/4/2015).
2.3. Ương ấu trùng lên hậu ấu trùng
Tôm cái ôm trứng màu nâu nhạt được
chuyển vào bể chứa 1m3 trong nhà. Sau khi
trứng nở, ấu trùng được chuyển sang các xơ
nhựa 70 lít để ương riêng rẽ theo từng gia đình
với mật độ 30 ấu trùng/lít. Thời gian ấu trùng
chuyển hồn tồn thành hậu ấu trùng dao động
từ 20 – 30 ngày.
2.4. Ương hậu ấu trùng đến kích cỡ đánh
dấu
Hậu ấu trùng được chuyển sang ương riêng
rẽ theo từng gia đình trong các bể composite 1
m3, mật độ thả 1.000 tôm/bể, thời gian ương 2
– 3 tuần. Sau đó, tơm giống được chuyển xuống
giai (1,6 × 2,5 × 1,5 m) để ương đến kích cỡ
đánh dấu (≥ 2 g) được bằng phẩm màu huỳnh
quang (Visible Implant Elastomer, VIE) trong
thời gian từ 60 – 75 ngày theo quy trình chuẩn
của nhà sản xuất (Northwest Marine, Mỹ).
2.5. Nuôi tăng trưởng trong ao
Số lượng tôm thả nuôi tăng trưởng của từng
nhóm được trình bày trong Bảng 1. Tôm được
thả nuôi trong một ao đất 2.000 m2, độ sâu nước
1,2 – 1,4 m. Tổng số lượng tôm nuôi là 10.507
con, tương đương mật độ 5,3 con/m2. Cho tôm
ăn thức ăn viên (hàm lượng đạm thơ 35%) với
các kích cỡ phù hợp, khẩu phần cho ăn từ 3 –
5% khối lượng thân. Thay nước 2 lần/tháng,
mỗi lần thay liên tục trong 3 – 4 ngày với tổng
lượng nước thay là 200% thể tích nước ao ni.
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016
VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II
Trong q trình nuôi, sử dụng chế phẩm vi sinh
(Zuca, Long Sinh Ltd) mỗi tháng 2 lần sau khi
đã thay nước hoàn toàn. Ao được bố trí một hệ
thống quạt nước 4 cánh, công suất máy 2 mã
lực, thời gian chạy quạt từ 18 giờ đến 6 giờ sáng
hôm sau.
Bảng 1. Số lượng tơm giống thả ni của 4 nhóm.
Nhóm tơm (♀ × ♂)
Số lượng thả (con)
CG×CG
3.678
CG×TN
1.279
TN×CG
3.050
TN×TN
2.499
2.6. Thu thập và xử lý số liệu
Tại thời điểm thu hoạch ghi nhận khối
lượng thân của tơm bằng cân điện tử chính xác
đến 0,1 g. Ngồi ra, ghi nhận các chỉ tiêu khác
như giới tính, tuổi và hình thái tơm. Đối với tơm
cái, có 3 loại hình thái là tơm ơm trứng bụng,
có buồng trứng ở giáp đầu ngực, và khơng có
trứng (ở bụng hoặc ở giáp đầu ngực). Tơm đực
có 5 loại hình thái là càng xanh, càng cam, tơm
già (cịn gọi là ‘càng sào’), tôm gãy càng và tôm
đực nhỏ.
Số liệu được quản lý và kiểm tra bằng
phần mềm Microsoft Excel® 2010, và được
phân tích bằng phần mềm R phiên bản 3.2.4 (R
Core Team, 2015). Trong nghiên cứu này, vì
ảnh hưởng của ‘giới tính’ là khơng thể tách rời
(confounding) với ảnh hưởng của ‘hình thái’,
do mỗi giới tính có những loại hình thái riêng
biệt khơng giống nhau (tơm cái có 3 loại hình
thái và tơm đực có 5 loại), nên cuối cùng ảnh
hưởng ‘hình thái’ được chọn sử dụng trong
mơ hình tốn. Đối với khối lượng tôm khi thu
hoạch, ảnh hưởng của các loại hình thái (3 cho
tơm cái và 5 loại hình cho tơm đực), bốn nhóm
tơm (CG×CG, CG×TN, TN×CG và TN×TN)
và tuổi tơm (tính từ khi nở đến khi thu hoạch)
được đánh giá bằng phương trình tuyến tính
Khối lượngij = µ + hình tháii + nhómj + β
× tuổiij + eij
trong đó khối lượngij là khối lượng của cá thể
tơm ở nhóm j khi thu hoạch, µ là trung bình
khối lượng thu hoạch của quần thể, hình tháii là
ảnh hưởng các loại hình thái (3 cho tơm cái và
5 loại hình cho tơm đực), nhómj là ảnh hưởng
của 4 nhóm tơm (CG×CG, CG×TN, TN×CG
và TN×TN), β là hệ số hồi quy của hiệp biến
(covariate) tuổiij (tính từ ngày ấu trùng nở đến
khi thu hoạch tôm), và eij là số dư.
Ảnh hưởng của các nhóm tơm được xác
định bằng Type III Sum of Square. Nếu ảnh
hưởng này có ý nghĩa thống kê (P<0,05) thì sự
khác biệt giữa từng nhóm được thực hiện bằng
cách so sánh cặp, sử dụng package ‘multcomp’
(Hothorn và ctv., 2008) với phương pháp hiệu
chỉnh Tukey ở mức độ tin cậy 95%. Trung bình
bình phương tối thiểu (Least Square Mean,
LSM), được định nghĩa là trung bình nhóm sau
khi đã hiệu chỉnh cho các ảnh hưởng khác trong
mơ hình (ở đây là hình thái và tuổi tơm), được
dùng để so sánh khối lượng thu hoạch của 4
nhóm tơm, sử dụng package ‘lsmeans’ (Lenth,
2016).
III. KẾT QUẢ
3.1. Thống kê mô tả
Qua thời gian nuôi từ 97 – 111 ngày trong
ao với mật độ nuôi 5,3 tôm/m2 (khối lượng tôm
thả ban đầu 2,87 – 4,33 g) cho thấy có sự khác
biệt về tăng trưởng khi thu hoạch. Khối lượng
trung bình của các nhóm tơm dao động từ 14,7 –
25,3 g (hệ số biến thiên CV70,0 – 77,5%), tăng
trưởng tốt nhất là nhóm CG×CG (25,3 ± 17,7
g) và kém nhất là nhóm TN×CG (14,7 ± 11,4
g). Nhóm TN×TN (15,5 g) có tăng trưởng kém
hơn hẳn nhóm tơm CG×CG (25,3 g) mặc dù có
khối lượng thả lớn hơn (4,33 g so với 3,66 g của
nhóm CG×CG) (Bảng 2).
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016
5
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Bảng 2. Ngày nuôi, số lượng khi thu hoạch, khối lượng (khi thả nuôi và khi thu hoạch)
và tỉ lệ sống khi thu hoạch của các nhóm tơm
Nhóm
Số lượng
Ngày
ni
Khối lượng thả
ni (g)
(♀ × ♂)
CG×CG
1.776
97–111
3,66 ± 0,88
TN×TN
901
97−110
4,33 ± 1,39
TN×CG
1.339
97−110
3,39 ± 0,88
CG×TN
562
97−111
2,87 ± 0,96
CV = hệ số biến thiên của khối lượng thu hoạch.
Nhóm ghép phối nội nhóm (CG×CG) có tỉ
lệ sống cao nhất (48,3%), trong khi nhóm ghép
phối nội nhóm tự nhiên (TN×TN) có tỉ lệ sống
thấp nhất (36,1%). Hai nhóm ghép phối ngoại
Khối lượng thu
hoạch (g)
CV (%)
Tỉ lệ sống
(%)
25,3 ± 17,7
15,5 ± 11,5
14,7 ± 11,4
19,4 ± 14,7
70,0
74,0
77,5
75,8
48,3
36,1
43,9
44,0
nhóm giữa tơm chọn giống và tơm tự nhiên có
tỉ lệ sống tương đương (44,0 và 43,9%) và nằm
ở khoảng giữa của hai phép ghép phối nội nhóm
(Bảng 2).
Bảng 3. Tỉ lệ hình kiểu hình (%) của các nhóm tơm theo giới tính.
Giới tính
Tơm đực
Tơm cái
Tổng
tơm cái
Cam
Khơng
16,9
68,1
2,4
3,3
11,4
7,1
18,8
64,8
1,0
0,4
37,2
12,1
17,1
66,4
0,8
CG×TN
40,0
8,4
17,6
66,0
Trung bình
39,2
10,8
17,1
67,2
Nhóm (♀ × ♂)
Bụng
Khơng
CG×CG
40,3
10,8
TN×TN
39,0
TN×CG
Đầu
Nhỏ
Già
Tổng
Xanh
tơm đực
3,5
11,3
31,9
22,6
4,3
6,8
35,2
1,6
22,2
2,5
6,4
33,6
1,2
1,8
21,5
3,2
6,2
34,0
1,5
2,0
17,6
3,3
8,4
32,8
Bụng = tơm cái ơm trứng, Không = tôm cái không ôm trứng và không quan sát thấy buồng trứng (giai
đoạn III−IV), cam = tôm đực càng cam, xanh = tôm đực càng xanh, già =tôm đực càng xanh già(tôm
càng sào), nhỏ = tôm đực chưa phát triển đơi càng trước.
Phân tích kiểu hình tơm ni theo 4 nhóm
thì tỉ lệ cái chiếm ưu thế (64,8 – 68,1%), khơng
có sự khác biệt lớn giữa các nhóm tơm, trong
đó nhóm tơm cái ơm trứng (bụng) chiếm ưu
thế (37,2 – 40,3%). Tỉ lệ tôm đực chỉ chiếm
31,9 – 35,2%, trong đó tỉ lệ tơm đực thấp nhất
ở nhóm CG×CG (31,9%) và cao nhất ở nhóm
tơm TN×TN (35,2%). Tuy nhiên, nếu xét về các
hình thái tơm đực thì nhóm tơm CG×CG có tỉ lệ
đực nhỏ thấp nhất (11,4%) và chỉ bằng một nửa
của các nhóm tơm khác (21,5 – 22,6%) (Bảng
3), đây là nhóm tơm ít có giá trị thương phẩm
và sinh sản. Thành phần đực có giá trị thương
phẩm (cam và xanh) của nhóm tơm CG×CG
6
(13,7%) cao hơn hẳn so với các nhóm khác (7,2
– 7,8%).
3.2. Tăng trưởng của các nhóm tơm
Bảng 4. Trung bình bình phương tối thiểu của 4
nhóm tơm (đường chéo, in đậm) và sự khác biệt
về khối lượng giữa 4 nhóm tơm (ngồi đường
chéo).
Nhóm CG×CG TN×TN TN×CG CG×TN
(♀ × ♂)
32,1
***
***
***
CG×CG
25,6
0,87
***
TN×TN
TN×CG
CG×TN
*** = P< 0,001
26,4
***
29,2
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
Kết quả phân tích ảnh hưởng của các biến
nhóm theo mơ hình đã xét cho thấy biến ‘nhóm’,
‘hình thái’ và ‘tuổi’ rất có ảnh hưởng đến khối
lượng thu hoạch (P<0,001, số liệu không trình
bày trong báo cáo). Theo đó, so sánh các cặp
giữa các nhóm tơm ni cho thấy tăng trưởng
tơm CG×CG là khác biệt rất có ý nghĩa thống
kê với các nhóm tơm cịn lại (P<0,001) và giữa
các nhóm tơm với nhau, ngoại trừ giữa nhóm
TN×TN và TN×CG (P=0,87) (Bảng 4).
IV. THẢO LUẬN
Đối với ni thủy sản nói chung thì khối
lượng và tỉ lệ sống là các thông số rất quan trọng
quyết định đến hiệu quả của vụ nuôi. Đối với
tôm càng xanh, xét theo giới tính thì tơm đực
ln có tăng trưởng nhanh hơn tôm cái (Luan
và ctv., 2012; Nguyễn Minh Thành và ctv.,
2009; Trần Ngọc Hải và ctv., 2014). Tôm đực
có giá trị kinh tế cao hơn tơm cái, đặc biệt là
tôm đực càng cam và càng xanh. Do đặc tính
lồi mà trong ao ni ln xuất hiện nhiều kiểu
hình tôm đực (Ra’Anan và Sagi, 1985; Sagi và
Ra’anan, 1988). Trong nghiên cứu này, nhóm
tơm CG×CG có những đặc tính tốt hơn 3 nhóm
tơm cịn lại cả về tăng trưởng và tỉ lệ sống.
Ngồi ra, tỉ lệ tơm đực có càng cam và càng
xanh có giá trị cũng cao hơn hẳn (Bảng 2 và 3).
Điều này cho phép nhận định tôm chọn giống có
thể mang lại hiệu quả kinh tế tốt hơn khi nuôi
thương phẩm.
Đây là nghiên cứu đầu tiên nhằm so sánh
tơm tự nhiên với tơm từ một chương trình chọn
giống khi ni tăng trưởng. Nhóm TN×TN
trong nghiên cứu này thấp hơn hẳn nhóm
CG×CG (khối lượng 25,6 g so với 32,1 g, tỉ lệ
sống 36,1% so với 48,3%). Các nhóm lai giữa
tôm chọn giống và tự nhiên cũng cho kết quả
tăng trưởng cao hơn nhóm TN×TN, điều này
cho thấy nhóm chọn giống được chọn lọc qua 6
thế hệ đã có tăng trưởng được cải thiện hơn. Một
điều đáng lưu ý là nhóm ghép phối giữa tơm cái
chọn giống (CG×TN) có tăng trưởng cao hơn có
ý nghĩa (P<0,0001) so với nhóm tơm đực chọn
giống (TN×CG). Kết quả này tương đồng với
các kết quả cơng bố trước đây của các chương
trình chọn giống tôm càng xanh ở Việt Nam và
Trung Quốc, theo đó hệ số di truyền của tơm cái
(0,14 – 0,47) cao hơn của tôm đực (0,04 – 0,08)
(Luan và ctv., 2012; Nguyễn Trung Ký và ctv.,
2014). Như vậy, có thể nhận định rằng trong quá
trình sản xuất giống thì việc chọn nguồn tơm cái
có tính chất quyết định hơn là tôm đực.
V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
So sánh tăng trưởng của nhóm tơm chọn
giống và tơm tự nhiên trong điều kiện đồng nhất
việc nuôi vỗ, sinh sản, lưu giữ hậu ấu trùng và
nuôi chung trong ao cho thấy ưu thế của nhóm
tơm chọn giống so với nhóm tơm tự nhiên và
các nhóm lai về tăng trưởng. Ngồi ra, tỉ lệ sống
và cấu trúc quần đàn của nhóm tơm chọn giống
có ưu thế cho giá trị nuôi thương phẩm tốt hơn
các nhóm cịn lại.
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016
7
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
Trần Ngọc Hải, Trần Minh Nhứt, Châu Tài Tảo,
2014. Đánh giá sự tăng trưởng và sinh sản của
một số nguồn tôm càng xanh (Macrobrachium
rosenbergii) ở các tỉnh phía Nam. Tạp chí
Khoa học trường Đại học Cần Thơ. Số chuyên
đề: Thủy sản (2014): 101-107.
Nguyễn Trung Ký, Nguyễn Thanh Vũ, Trịnh Quốc
Trọng, 2014. Một số kết quả từ chương trình
chọn giống tơm càng xanh thế hệ thứ 5. Tạp
chí Nghề cá sông Cửu Long. 04/2014, 3-14.
Tài liệu tiếng Anh
Dinh Hung, Vu, N.T., Nguyen, N.H., Ponzoni,
R.W., Hurwood, D.A., Mather, P.B., 2013.
Genetic response to combined family
selection for improved mean harvest weight
in giant freshwater prawn (Macrobrachium
rosenbergii) in Vietnam. Aquaculture. 412, 7073.
FAO, 2016. FishStatJ, a tool for fishery statistics
analysis. Release: 2.12.5 by Thomas Berger,
Fabrizio Sibeni and Francesco Calderini.
Lenth, R.V., 2016. Least-Squares Means: The
R Package lsmeans. Journal of Statistical
Software, 69(1), 1-33.
v069.i01>.
8
Luan, S., Yang, G., Wang, J., Luo, K., Zhang,
Y., Gao, Q., Hu, H., Kong, J., 2012. Genetic
parameters and response to selection for harvest
body weight of the giant freshwater prawn
Macrobrachium rosenbergii. Aquaculture.
362, 88-96.
Nguyen Minh Thanh, Ponzoni, R.W., Nguyen,
N.H., Vu, N.T., Barnes, A., Mather, P.B., 2009.
Evaluation of growth performance in a diallel
cross of three strains of giant freshwater prawn
(Macrobrachium rosenbergii) in Vietnam.
Aquaculture. 287, 75-83.
R Core Team, 2015. R: A Language and
Environment for Statistical Computing.
Vienna, Austria: R Foundation for Statistical
Computing; 2014. R Foundation for Statistical
Computing. ISBN 3-900051-07-0. http://
www.R-project.org.
Ra’Anan, Z., Sagi, A., 1985. Alternative mating
strategies in male morphotypes of the
freshwater prawn Macrobrachium rosenbergii
(De Man). The Biological Bulletin. 169, 592601.
Sagi, A., Ra’anan, Z., 1988. Morphotypic
differentiation of males of the fresh-water
prawn Macrobrachium rosenbergii: changes in
the midgut glands and the reproductive system.
Journal of Crustacean Biology. 8, 43-47.
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016
VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II
GROWTH COMPARISON OF SELECTED AND WILD GIANT
FRESHWATER PRAWN (Macrobrachium rosenbergii)
Nguyen Thanh Vu1*, Trinh Quoc Trong1, Nguyen Trung Ky1,
Huynh Thi Bich Lien1, Nguyen Thi Kieu Nga1, Nguyen Van Hiep1
ABSTRACT
Growth perfomance of selected and wild giant freshwater prawn (Macrobrachiumrosenbergii) was
conducted in a 2,000 m2-pond at a density of 5,3 prawn/m2. Four different groups were produced
from a full-diallel cross between selected prawn from a selective breeding program (denoted as CG)
and wildprawn (TN) recruited in Tien river in the Mekong Delta of Vietnam. The groups were (in
order of dam×sire) CG×CG, CG×TN, TN×CG, and TN×TN. After 97 – 111 days of grow-out from
tagging until harvest, harvest weight was highly significant different between 4 groups (P<0.0001),
and survival rate (36.1-48.5%). Mean harvest weight of CG×CG group was 25.3 g, compared to
14,7 – 19,4g of the remaining three groups. Similarly, survival rate at harvest of CG×CG group was
48.5%, compared to 36.1 – 44.0% of the other groups. Offspring of wild prawns, that is, TN×TN
group, had smallest harvest weight (15.5 g) and lowest survival rate (36.1%). Two cross-bred
groups, CG×TN and TN×CG, had intermediate harvest weight (19.4 and 14.7 g, respectively) and
survival (39,9 and 40,0%, respectively) compare to two pure-bred groups (CG×CG and TN×TN),
most noticeably significantly lower (P<0.0001) than CG×CG group.
Keywords: giant freshwater prawn, selected prawn, wild prawn, growth.
Người phản biện: TS. Dương Thúy Yên
Ngày nhận bài: 26/7/2016
Ngày thông qua phản biện: 03/8/2016
Ngày duyệt đăng: 05/9/2016
National Breeding Centre for Southern Freshwater Aquaculture, Research Institute for Aquaculture No.2.
*Email:
1
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016
9