Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Tương quan di truyền dương giữa tính trạng kháng bệnh gan thận mủ và tăng trưởng trên cá tra (Pangasianodon hypophthalmus): Ý nghĩa cho chọn giống dài hạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (402.62 KB, 9 trang )

VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

TƯƠNG QUAN DI TRUYỀN DƯƠNG GIỮA TÍNH TRẠNG KHÁNG
BỆNH GAN THẬN MỦ VÀ TĂNG TRƯỞNG TRÊN CÁ TRA
(Pangasianodon hypophthalmus):
Ý NGHĨA CHO CHỌN GIỐNG DÀI HẠN
Trịnh Quốc Trọng1*, Nguyễn Huỳnh Duy1, Nguyễn Thanh Vũ1, Lê Hồng Phước2,
Nguyễn Thị Hiền2, Ngô Hồng Ngân1, Trần Hữu Phúc1, Nguyễn Thị Đang1,
Nguyễn Thế Vương1, Phạm Đăng Khoa1, Lê Trung Đỉnh1

TĨM TẮT
Thí nghiệm cảm nhiễm với vi khuẩn Edwardsiella ictaluri gây bệnh gan thận mủ trên cá tra được
thực hiện trên 9.614 cá tra giống có khối lượng từ 15 – 25 g thuộc 177 gia đình được sản xuất bằng
cách phối hỗn hợp giữa 4 nhóm cá (nhóm cá Chọn giống và 3 nhóm cá Tự nhiên). Cá giống được
đánh dấu PIT, nuôi thuần dưỡng tại Trung tâm Quốc gia Giống Thủy sản Nước ngọt Nam Bộ (tỉnh
Tiền Giang) và chuyển lên Trại Thực nghiệm Thủy sản Gò Vấp (Tp. Hồ Chí Minh) cho thí nghiệm
cảm nhiễm bằng phương pháp cho cá bệnh sống chung với cá khỏe (cohabitant). Tỉ lệ chết tích lũy
do bệnh gan thận mủ sau hơn 40 ngày thí nghiệm đạt 39%. Hệ số di truyền ước tính đối với tính
trạng kháng bệnh gan thận mủ ở mức khá 0,23 ± 0,03 (theo thang quan sát nhị phân, observed binary scale) hoặc 0,37± 0,05 (theo thang tiềm ẩn liên tục, underlying continuous scale). Tương quan
di truyền giữa tính trạng kháng bệnh gan thận mủ và tăng trưởng là 0,26 ± 0,11 cho thấy khi cải
thiện tính trạng kháng bệnh thì khơng có ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng.
Từ khóa: cá tra, Edwardsiella ictaluri, hệ số di truyền, tương quan di truyền, kháng bệnh.

I. GIỚI THIỆU
Cá tra là lồi cá ni nước ngọt chủ lực tại
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Trong
năm 2013, diện tích ni cá tra là 5.556 ha,
sản lượng 1,131 triệu tấn, năng suất ni trung
bình 270 tấn/ha. Gan thận mủ là loại bệnh phổ
biến (chiếm 51,2%) và nguy hiểm nhất trên cá
tra ở ĐBSCL. Bệnh gan thận mủ đã được xác


định là do vi khuẩn Edwardsiella ictaluri gây
ra (Crumlish và ctv., 2002; Từ Thanh Dung và
ctv., 2003; Nguyễn Mạnh Thắng, 2007). Trong

một vụ ni, bệnh có thể xuất hiện từ 3 – 4 lần.
Bệnh gan thận mủ gây ra hao hụt lớn lên đến
70-80%, người nuôi sử dụng nhiều loại kháng
sinh khác nhau nhưng hiệu quả điều trị thấp.
Điều này đã ảnh hưởng đến hiệu quả nghề
nuôi, làm giảm chất lượng sản phẩm và tiềm
ẩn nguy cơ dư lượng hóa chất và kháng sinh
trong sản phẩm. Do đó, tạo ra con giống có khả
năng kháng bệnh gan thận mủ là rất có ý nghĩa,
nâng cao tỷ lệ sống, giảm chi phí sản xuất. Báo
cáo này nhằm ước tính biến dị kiểu hình và các
thơng số di truyền của tính trạng kháng bệnh

Trung tâm Quốc gia Giống Thủy sản Nước ngọt Nam Bộ, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II.
Trung tâm Quan trắc Môi trường và Bệnh Thủy sản Nam Bộ, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II.
*Email:
1
2

10

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II


gan thận mủ trên cá tra là cơ sở định hướng
chọn giống cá tra kháng bệnh gan thận mủ.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1. Cá tra bố mẹ
Bốn (04) đàn cá tra bố mẹ được sử dụng tạo
vật liệu nghiên cứu, đó là: Đàn cá chọn giống
theo tính trạng tăng trưởng của Viện Nghiên
cứu Nuôi trồng Thủy sản II, được xem như
nguồn cá đối chứng và được gọi là quần thể
chọn giống (ký hiệu là CG), có khối lượng 6,8
± 1,9 kg/con và 3 đàn cá tra bố mẹ nguồn gốc
tự nhiên (TN1, TN2 và TN3) được thu thập từ
các trại sản xuất giống tại Đồng bằng sông Cửu
Long và từ Campuchia, cá có khối lượng 3,5 ±
1,2 kg/con.
2.2. Ni vỗ và sản xuất gia đình
Các đàn cá được ni vỗ trong ao 2.000 m2
với độ sâu nước được duy trì ở mức 1,5 m. Mật
độ nuôi vỗ là 2 con/m2 với tỉ lệ 1 cá đực: 1 cá
cái. Cho ăn thức ăn viên 32% đạm, bổ sung thêm
dầu mực (3%). Lượng cho ăn tương đương 3 –
5% khối lượng thân, ngày 2 lần lúc 07 giờ sáng
và 16 giờ chiều. Đảm bảo ôxy hòa tan trong ao
nuôi vỗ luôn đạt tối thiểu 4 mg/l bằng cách thay
nước hoặc sục khí nếu cần thiết.
Cá bố mẹ được kích thích sinh sản
nhân tạo sử dụng HCG (Human Chorionic
Gonadotropin, kích dục tố nhau thai). Đối với
cá cái tiêm 3 liều, liều dẫn là 500 UI, liều sơ
bộ 1.200 UI/kg và liều quyết định 4.500 UI/kg.

Đối với cá đực, chỉ tiêm 1 liều bằng 1/3 liều
và cùng lúc với liều quyết định của cá cái. Thụ
tinh bằng phương pháp bán khơ. Trứng được
khử dính bằng tanin (6 g/10 lít nước) trong 30
giây, sau đó rửa sạch nhiều lần. Sau khi khử
dính, trứng được ấp trong lồng ấp bằng vải có
dạng hình phễu (dung tích 3 lít), có sục khí ở
đáy lồng để cung cấp ơxy hịa tan trong quá
trình ấp trứng.
Sử dụng phương pháp ghép phối tổ hợp, từ
4 nhóm cá tạo ra 16 tổ hợp ghép phối với tổng

số gia đình cho mỗi phép lai là từ 8 gia đình
trở lên. Cấu trúc ghép phối là 1 cá đực với 2 cá
cái. Các gia đình được sản xuất trong thời gian
55 ngày, từ 28/6 đến 22/8/2014. Tổng cộng đã
sản xuất được 177 gia đình, bao gồm 74 cặp
gia đình half-sibs và 29 gia đình full-sibs. Số
lượng gia đình của mỗi phép ghép phối dao
động từ 2 – 4 gia đình đối với ghép phối giữa
cá cái TN3 với cá đực TN1, TN2 và TN3. Các
phép ghép phối nội dịng của nhóm CG có 57
gia đình. Các phép ghép phối cịn lại có số
lượng từ 7 – 13 gia đình.
Cá bột được ương riêng rẽ từng gia đình
đến kích cỡ cá hương trong các bể composite
thể tích 1,5 m3 (thể tích nước 1,2 m3), mật độ
3.000 con cá bột/m3, cho ăn Artemia nauplii từ
ngày thứ 1 đến ngày thứ 5, ngày 4 lần. Bổ sung
Moina vào các ngày thứ 2 đến ngày thứ 5. Cho

ăn thức ăn công nghiệp (Tomboy, 40% đạm)
từ ngày thứ 3, ngày cho ăn 4 lần. Định kỳ xiphông và thay nước (30% thể tích) hàng ngày,
bắt đầu từ ngày thứ 5 trở đi.
Sau 30 ngày, 500 cá hương được chuyển ra
ương riêng rẽ từng gia đình trong các giai 1,5 ×
2,0 × 1,0 m đặt trong cùng một ao 2.000 m2 đến
khi đạt cỡ bắn dấu từ PIT (Passive Integrated
Transponder). Cho ăn thỏa mãn, sử dụng thức
ăn dạng mảnh 40% đạm. Sau đó chuyển sang
chế độ thức ăn viên cỡ 1 mm (30% đạm), cho
ăn thỏa mãn. Thay nước 4 lần/tháng, và thay
liên tục hàng ngày trong thời gian triều cường,
mỗi lần thay 30% thể tích nước ao. Theo dõi
các chỉ tiêu thủy lý hóa của nước ao ni như
ơxy hịa tan, pH và nhiệt độ.
2.3. Đánh dấu và thí nghiệm cảm nhiễm bệnh
Tổng cộng có 177 gia đình hiện diện đến
thời điểm đánh dấu từ PIT. Đại diện của 177
gia đình này đều hiện diện trong thí nghiệm
cảm nhiễm. Cụ thể, số lượng cá đánh dấu từ
PIT cho thí nghiệm cảm nhiễm là 9.614 con
(trung bình 54 con/gia đình), khối lượng trung
bình của cá giống là 22,4 ± 10,7 g.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016

11


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II


Cá giống được bố trí vào 2 bể composite,
mỗi bể có thể tích 20 m3và chứa 13,5 m3 nước.
Trong từng bể, thả cá cohabitant và bổ sung vi
khuẩn Edwardsiella ictaluri. Chủng vi khuẩn
E.ictaluri được phân lập từ mẫu cá bệnh gan
thận mủ. Cá cohabitant được tiêm dịch khuẩn
liều 106 CFU/0,2 ml/cá thể, và được phân
biệt với cá thí nghiệm bằng cách cắt vây mỡ
(không đánh dấu từ). Thả cá cohabitant và
bổ sung vi khuẩn E. ictaluri có mật độ cá 1
con/4,2 l, số cá cohabitant bằng 35% tổng số
cá thí nghiệm, được thả 2 ngày sau khi tiêm.
Vi khuẩn E. ictaluri được bổ sung một lần vào
ngày thứ 4 sau khi tiêm cá cohabitant với liều
105 CFU/ml.
Sau khi gây nhiễm theo dõi vớt cá chết và
mổ lấy dấu từ PIT (cho cả cá cohabitant và cá
thí nghiệm) 2 - 3 giờ/ lần trong 2 ngày đầu tiên,
từ ngày thứ ba trở đi thì kiểm tra 4 – 6 giờ/lần.
Nhiệt độ nước điều chỉnh ở mức 26°C, cho ăn
2 lần/ngày. Sục khí và thay nước sạch trước
khi thả cá cohabitant. Sau khi thả cá cohabitant
giảm một nửa lượng thức ăn. Cá cohabitant chết
khi nổi lên mặt nướcđược vớt ra (thường là 2
ngày sau khi chết). Thí nghiệm kết thúc khi cá
ngừng chết, hoặc khi khơng cịn dấu hiệu bệnh
gan thận mủ. Thu mẫu 1 – 2% số cá cịn sống
sau thí nghiệm để kiểm tra sự hiện diện của vi
khuẩn E.ictaluri.

2.4. Thí nghiệm đánh giá tính trạng tăng
trưởng
Cá tra giống (khối lượng trung bình 25,0
± 11,9 g) từ 177 gia đình được đánh dấu PIT
vào phần cơ ở vị trí phía dưới vây lưng để đánh
giá sinh trưởng. Cho mỗi gia đình, đánh dấu 75
cá rồi thả vào giai lưới kích thước 15 m2 (chứa
2.000 cá). Lưu giữ cá trong giai khoảng 3 ngày
để cá quen với môi trường nước mới. Thu gom
những cá chết, rớt dấu sau đó mở giai cho cá
ra ao. Số lượng ni tăng trưởng là 10.335 con
(trung bình 58,4 con/gia đình). Thời gian ni
tăng trưởng là 6 tháng (từ tháng 2 đến tháng
12

8/2015) trong ao 2.000 m2, mực nước 1,5 m,
mật độ 5 con/m2.
Cá được cho ăn thức ăn viên V2 Feed (28%
đạm) do Trung tâm Công nghệ Sau Thu hoạch
thuộc Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II
sản xuất. Hàng ngày cho ăn 2 lần vào lúc 07 giờ
và 14 giờ. Cách cho ăn là gõ cho cá tập trung
rồi rải trước khoảng 50%, khi cá ăn hết rải 50%
còn lại khắp ao cho cá nhỏ ăn. Trong q trình
ni kiểm tra tăng trưởng, tỉ lệ sống định kì để
điều chỉnh thức ăn phù hợp với khối lượng và
số lượng cá. Khẩu phần ăn là 5,0 – 6,0% khối
lượng thân trong 2 tháng đầu, 3,0 – 4,0% khối
lượng thân từ tháng thứ 2 đến thứ 4, và1,5 –
2,0% khối lượng thân khi cá trên 4 tháng tuổi.

Định kỳ bắt cá kiểm tra kí sinh trùng và
hình thái, sức khỏe cá. Cân đo chiều dài, khối
lượng toàn bộ cá thể khi thu hoạch để tính tốc
độ tăng trưởng, tỉ lệ sống của cá. Khối lượng
được xác định bằng cân điện tử có độ chính xác
đến 0,1 g; đo chiều dài tổng bằng thước phân
độ 1 mm.
2.5. Thu thập và phân tích dữ liệu
Tính trạng tỉ lệ sống theo cá thể được mã
hóa dưới dạng nhị phân, theo đó nếu cá thể cịn
sống sau thí nghiệm thì được mã hóa là 1 và
chết là 0. Số liệu được quản lý và kiểm tra bằng
phần mềm Microsoft Excel 2010. Các thành
phần phương sai của trọng lượng và tỉ lệ sống
được tính toán bằng phần mềm ASReml phiên
bản 4 (Gilmour và ctv., 2015).
Đối với tính trạng kháng bệnh gan thận
mủ, mơ hình tuyến tính hỗn hợp cá thể được
dùng để ước tính các thành phần phương sai
= phương sai di truyền cộng
(bao gồm
gộp,
là phương sai số dư, và phương sai kiểu
hình
=
+
) là:
yijk = à + 1ì tui ỏnh dui + 2ìthi gian
chi+ bểj +cá thểk + eijk
(Mơ hình 1)


TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016


VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II

trong đó yijk là tình trạng (sống hoặc chết) của cá
thể k khi kết thúc thí nghiệm cảm nhiễm, µ là
trung bình của quần thể cá thí nghiệm, β1 là hệ
số hồi quy của hiệp biến ‘tuổi đánh dấu’, β2 là
hệ số hồi quy của hiệp biến ‘thời gian chờ’ (thời
gian từ khi đánh dấu đến khi cá được thả vào bể
thí nghiệm), bểj là ảnh hưởng cố định hai bể thí
nghiệm, cá thểk là ảnh hưởng ngẫu nhiên của cá
thể k và eijk là ảnh hưởng của số dư.
Đối với tính trạng khối lượng thu hoạch,
mơ hình tuyến tính hỗn hợp cá thể (Mơ hình
2) dùng để ước tính các thành phần phương sai
= phương sai di truyền cộng gộp,
(bao gồm
là phương sai ảnh hưởng môi trường,

phương sai của số dư, và phương sai kiểu hình
=
+
+
) là:
Khối lượngijkl = µ + ngày đẻi + ×tuổi thu
hoạchijk + cá thểj + cá mẹk + eijk
(Mơ hình 2)


trong đó Khối lượngijkl là khối lượng của cá thể
j khi thu hoạch, µ là trung bình của quần thể,
ngày đẻi là ngày vuốt trứng và gieo tinh của gia
đình của cá thể i trừ đi ngày 01/01/2014, là hệ
số hồi quy của hiệp biến tuổi thu hoạchijk (từ
ngày sinh sản gia đình đến ngày thu hoạch), cá
thểj là ảnh hưởng ngẫu nhiên của cá thể j, cá mẹk
là ảnh hưởng của môi trường ương riêng rẽ của
các gia đình, và eijk là ảnh hưởng của số dư.
Các thành phần phương sai và tương quan
di truyền của tính trạng kháng bệnh và khối
lượng thu hoạch được ước tính bằng các mơ
hình hai biến (Mơ hình 3) nhằm tận dụng tối đa
số liệu. Đối với tính trạng kháng bệnh, các biến
tương tự như Mơ hình 1. Đối với tính trạng khối
lượng thu hoạch, các biến như mơ tả trong Mơ
hình 2. Hiệp phương sai của số dư của 2 tính
trạng được đặt là 0 (zero).
Hệ số di truyền của tính trạng kháng bệnh
Vì tính trạng kháng
được tính là
bệnh là tính trạng nhị phân (được đánh giá thơng

qua tỉ lệ sống của từng cá thể khi thí nghiệm
cảm nhiễm kết thúc, sống = 1, chết = 0) nhưng
lại được xem như một biến liên tục (continous
variable) trong mơ hình tuyến tính, nên hệ số di
truyền được gọi là theo thang quan sát nhị phân
(observed binary scale). Nhằm có được hệ số

theo thang thực liên tục (underlying continous
scale) cho phù hợp với bản chất nhị phân thì
cần được chuyển đổi theo (Dempster và Lerner,
1950) như sau:

trong đó là hệ số di truyền theo thang thực, là
hệ số di truyền theo thang quan sát, p là tỉ lệ của
số cá còn sống vào cuối thí nghiệm cảm nhiễm,
và z là điểm cắt của phân phối chuẩn tương ứng
với p.
Đối với tính trạng khối lượng thu hoạch,
hệ số di truyền là

và ảnh

hưởng của môi trường ương nuôi riêng rẽ là
Tương quan di truyền (rg)
giữa tính trạng kháng bệnh gan thận mủ và khối
lượng thu hoạch được ước tính theo cơng thức
, trong đó

là hiệp phương

sai của ảnh hưởng di truyền cộng gộp của hai
tính trạng,

lần lượt là phương sai của
ảnh hưởng di truyền cộng gộp của tính trạng
kháng bệnh gan thận mủ và tính trạng khối
lượng thu hoạch (Falconer và Mackay, 1996).

III. KẾT QUẢ
3.1. Ni tăng trưởng
Tại thời điểm kết thúc thí nghiệm ni tăng
trưởng, cá đạt khối lượng trung bình 987 ± 249
g sau 230 (220 – 240) ngày nuôi. Tỉ lệ sống đạt
78,6%. Cho từng gia đình, tỉ lệ sống dao động
từ 32,5 – 100%, tương ứng tỉ lệ chết dao động
từ 2,6 – 67,5%. Tăng trưởng của 16 phép ghép
phối được thể hiện ở Bảng 1.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016

13


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

Bảng 1. Thống kê mô tả của các chỉ tiêu khối lượng
và tuổi thu hoạch, khối lượng thu hoạch và tỉ lệ sống của 16 phép ghép phối.
Phép lai

Khối lượng
(Cái × Đực) đánh dấu
(g)

Tuổi thu
hoạch từ
PIT (ngày)

Khối lượng

thu hoạch
(g)

Nhỏ nhất
(g)

Lớn nhất
(g)

Tỉ lệ sống
(%)

CG×CG

22,5

229,9

1.097,0

307,2

2353,6

75,7

CG×TN1

30,8


230,5

999,2

484,0

2231,8

84,3

CG ×TN2

24,0

230,7

1.033,0

528,6

1797,2

80,9

CG×TN3

24,1

231,1


969,6

550,0

1717,4

86,1

TN1×CG

21,1

228,3

916,0

528,1

1674,8

80,2

TN1×TN1

28,9

231,4

893,2


121,0

1987,8

78,0

TN1×TN2

26,2

229,9

853,5

298,6

2014,6

71,9

TN1×TN3

26,3

226,9

916,6

464,2


1466,4

81,9

TN2×CG

26,7

228,5

1.008,7

454,8

1912,8

78,0

TN2×TN1

27,3

231,7

884,3

356,8

1501,0


87,0

TN2×TN2

30,8

229,7

1.040,9

392,6

1735,6

84,6

TN2×TN3

30,1

232,6

953,5

582,2

1928,8

84,9


TN3×CG

29,8

220,2

918,8

482,4

1875,8

73,8

TN3×TN1

23,4

230,8

980,8

553,6

1853,8

78,9

TN3×TN2


19,5

228,8

812,5

398,0

1915,6

70,1

TN3×TN3

23,3

234,8

865,2

446,9

1698,2

80,3

Trung bình

25,0


230,1

987,5

121,0

2353,6

78,6

CG = Chọn giống, TN1 = Tự nhiên 1, TN2 = Tự nhiên 2, TN3 = Tự nhiên 3.

3.2. Thí nghiệm cảm nhiễm
Tổng số cá thí nghiệm là 9,614 cá thể. Đối
với bể 1, cá bắt đầu chết sau 120 giờ (ngày thứ
5); từ ngày thứ 9 số lượng cá chết tăng nhanh,
đến ngày 15 thì giảm dần; đến ngày 21 thì cá
ngừng chết. Đối với bể 2, cá bắt đầu chết sớm
hơn bể 1, sau 28 giờ (ngày thứ 2); cá chết cao
điểm từ ngày 8 đến ngày 17; đến ngày thứ 28
thì cá ngừng chết. Cho cả hai bể, cá chết đều có
14

dấu hiệu lâm sàng của bệnh gan thận mủ như
như xuất huyết tại các vây, gốc vây, hậu mơn,
hốc mắt và vịm miệng và có vô số đốm trắng
trên thận, gan và lách đồng thời các cơ quan này
sưng nhũn. Khi thu mẫu phân lập vi khuẩn xác
định E.ictaluri là nguyên nhân gây chết. Tỉ lệ
sống vào cuối thí nghiệm được minh họa ở Hình

1. Đường ước tính Kaplan – Meier của tỉ lệ sống
theo thời gian được minh họa trong Hình 2.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016


VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II

Hình 1. Tỉ lệ sống của các gia đình khi kết thúc thí nghiệm cảm nhiễm.

Hình 2. Đường biểu diễn Kaplan – Meier của tỉ lệ sống của cá thí nghiệm cảm nhiễm.
3.3. Hệ số di truyền và tương quan di truyền
Hệ số di truyền (kháng bệnh và khối lượng
thu hoạch), ảnh hưởng của môi trường ương
nuôi riêng rẽ (khối lượng thu hoạch) và tương
quan di truyền giữa hai tính trạng được trình bày
trong Bảng 2. Đối với tính trạng kháng bệnh gan
thận mủ, hệ số di truyền ước tính (h2) ở mức

trung bình khá (0,23 ± 0,03 cho observed binary
scale và 0,37 ± 0,05 cho underlying continous
scale). Đối với tính trạng khối lượng thu hoạch
thì h2 (0,35 ± 0,12) và c2 (0,18 ± 0,06) đều ở mức
khá. Tương quan di truyền giữa hai tính trạng là
0,26 ± 0,11, cho thấy có tương quan thuận giữa
kháng bệnh gan thận mủ và tăng trưởng.

Bảng 2. Các thành phần phương sai, hệ số di truyền và ảnh hưởng của môi trường ương nuôi
riêng rẽ của tính trạng kháng bệnh gan thận mủ và khối lượng thu hoạch.
Đối với tính trạng kháng bệnh, số liệu của hai bể thí nghiệm gộp chung.

Tính trạng
Kháng bệnh gan thận mủ

0,082

-

0,276

0,364

h2± se

c2± se

0,37± 0,05

-

Tăng trưởng
20784
10740 28450
59974
0,35 ± 0,12
0,18 ± 0,06
= phương sai di truyền cộng gộp, = phương sai môi trường ương nuôi riêng rẽ, = phương sai của số
dư, = phương sai kiểu hình, h2= hệ số di truyền, c2= ảnh của môi trường ương nuôi riêng rẽ, se = sai số
chuẩn. Đối với tính trạng kháng bệnh gan thận mủ, số liệu trình bày là của underlying continuous scale.
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016


15


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

IV. THẢO LUẬN
Trong nghiên cứu này, hệ số di truyền ước
tính của tính trạng kháng bệnh gan thận mủ trên
cá giống thuộc các nguồn vật liệu ban đầu là 0,37
± 0,05. Với hệ số di truyền ở mức trung bình khá,
kết hợp với biến dị kiểu hình lớn (độ lệch chuẩn
20,0% và hệ số biến thiên 33,5%) cho phép nhận
định quần thể ban đầu sẽ đáp ứng tích cực khi
được chọn lọc. Nói cách khác, chọn lọc sẽ làm gia
tăng khả năng kháng bệnh gan thận mủ trên cá tra
giống ở những thế hệ tiếp theo. Hệ số di truyền
ước tính của tính trạng kháng bệnh gan thận mủ
(gây ra bởi vi khuẩn E. ictaluri) trong nghiên cứu
này thấp hơn so với tính trạng kháng bệnh do vi
khuẩn Aeromonas salmonicida trên cá hồi Đại Tây
Dương (0,43– 0,59) (Ødegård và ctv., 2007), 0,62
(Kjøglum và ctv., 2008), (0,47) (Gjerde và ctv.,
2009), tương đương Aeromonas hydrophila trên
cá rôhu (Labeo rohita) (0,03 – 0,39) (Mahapatra và
ctv., 2008), nhưng cao hơn trên cá chép (Cyprinus
carpio) (0,04) (Ødegård và ctv., 2010) và cao hơn
Vibrio anguillarum trên cá tuyết (Gadus morhua)
(0,08) (Kettunen và ctv., 2007).
Trong hiểu biết của nhóm tác giả, hầu như
chưa có cơng bố nào trên thế giới về tương quan di

truyền giữa tăng trưởng và kháng bệnh vi khuẩn.
Đối với bệnh do ký sinh trùng, tương quan di
truyền giữa tính trạng kháng bệnh rận cá và tăng
trưởng trên cá hồi là tương quan thuận nhưng thấp
(0,14) (Kolstad và ctv., 2005) hoặc tương quan
nghịch (-0,02 đến -0,32) (Yáñez và ctv., 2014).
Trong nghiên cứu này, tương quan ở mức trung
bình khá cho thấy có thể cải thiện hai tính trạng
kháng bệnh và tăng trưởng đồng thời, hoặc ít ra thì
khi cải thiện tính trạng kháng bệnh cũng sẽ khơng
ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng. Do đó, dựa
trên kết quả của nghiên cứu này thì quần thể ban
đầu cho chọn giống cá tra kháng bệnh gan thận mủ
cũng có thể được chọn lọc theo hướng kết hợp cải
thiện tăng trưởng.
Trong nghiên cứu này, sự sống sót của cá tra
giống trong một thí nghiệm cảm nhiễm đối với vi
khuẩn Edwardsiella ictaluri gây bệnh gan thận
mủ được mơ hình hóa và được phân tích bằng mơ
hình tuyến tính. Sự sống sót của cá giống trong thí
nghiệm cảm nhiễm được phân tích như biến nhị
phân trong suốt thời gian thí nghiệm, tức là cá thể
16

cịn sống vào cuối thí nghiệm được mã hóa là 1,
ngược lại được mã hóa là 0. Về ngun tắc thì biến
nhị phân dạng đầu tiên (tính đến thời điểm cuối thí
nghiệm) khơng tận dụng hết tồn bộ số liệu sẵn
có, vì tốc độ chết của các cá thể là khác nhau (có
cá thể chết nhanh, có cá thể chết chậm). Trong khi

đó, tỉ lệ sống theo ngày thì có tính đến thời gian cá
chết (tức là, chặn = censoring) dựa trên hàm phân
tích mối nguy (Ducrocq và Sưlkner, 1998). Tuy
nhiên, mơ hình tuyến tính được ưu tiên lựa chọn
vì tính đơn giản và kết quả của nó dễ biện luận của
nó (Ødegård và ctv., 2011).
Các ước tính trong nghiên cứu đều khác biệt
có ý nghĩa so với zero. Điều này chứng tỏ là số
liệu đạt yêu cầu, tức là, cấu trúc gia đình, số lượng
gia đình và số lượng cá thể/gia đình là đạt yêu cầu
để cho phép ước tính đạt độ chính xác cần thiết.
Ngồi ra, tỉ lệ chết cũng đạt yêu cầu cho phân
tích số liệu thí nghiệm cảm nhiễm bệnh trên đối
tượng thủy sản. Theo Ødegård và ctv., (2011), thí
nghiệm cảm nhiễm sẽ được dừng lại khi tỉ lệ chết
đạt khoảng 40%, hoặc quan trọng hơn, là khi tỉ lệ
chết không tăng lên nữa. Trường hợp thứ hai được
ghi nhận rất rõ trong nghiên cứu này.
V. KẾT LUẬN
Hệ số di truyền ước tính của tính trạng gan
thận mủ trên cá tra là 0,37 ± 0,05. Với biến dị kiểu
hình của tỉ lệ sống khi kết thúc thí nghiệm cảm
nhiễm khá lớn (hệ số biến thiên = 33,5%) cho phép
nhận định chọn giống kháng bệnh gan thận mủ là
có triển vọng. Sau khi thành lập quần thể ban đầu,
cần tiếp tục chọn giống theo phương pháp chọn
lọc gia đình kết hợp. Tương quan di truyền thuận
(0,26 ± 0,11) giữa tính trạng kháng bệnh gan thận
mủ và tính trạng tăng trưởng cho thấy có thể chọn
giống cải thiện cả hai tính trạng đồng thời.

LỜI CẢM ƠN
Nghiên cứu được thực hiện trong khuôn khổ
đề tài ‘Nghiên cứu chọn giống cá tra kháng bệnh
gan thận mủ’ thuộc Chương trình Trọng điểm cấp
Nhà nước KC.06. của Bộ Khoa học và Công nghệ.
Chân thành cám ơn Trại Nghiên cứu Thực nghiệm
Thủy sản Gị Vấp, Trung tâm Cơng nghệ thức ăn
và Sau Thu hoạch Thủy sản (Viện Nghiên cứu
Nuôi trồng Thủy sản II) đã tạo điều kiện thực hiện
thí nghiệm cảm nhiễm.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
Từ Thanh Dung, M. Crumlish, H.W. Ferguson,
N.T.N. Ngọc, N.Q. Thịnh, D.T.M.T., 2003.
Xác định vi khuẩn gây bệnh đốm trắng trên
gan cá tra nuôi thâm canh ở Đồng bằng Sông
Cửu Long. Tuyển tập báo cáo khoa học về ni
trồng thủy sản, hội nghị khoa học tồn quốc lần
thứ 2, Viện nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I.
Nhà Xuất bản Nông nghiệp, 411-420.
Nguyễn Mạnh Thắng, 2007. Kết quả nghiên cứu
vaccine phịng bệnh đốm trắng cho cá tra, Báo
cáo tóm tắt kết quả nghiên cứu năm 2006-2007.
Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II.

Tài liệu tiếng Anh
Crumlish, M., Dung, T., Turnbull, J., Ngoc, N.,
Ferguson, H., 2002. Identification of Edwardsiella ictaluri from diseased freshwater catfish,
Pangasius hypophthalmus (Sauvage), cultured
in the Mekong Delta, Vietnam. Journal of fish
diseases. 25, 733-736.
Dempster, E.R., Lerner, I.M., 1950. Heritability
of threshold characters. Genetics. 35, 212-236.
Ducrocq, V., Sölkner, J., 1998. The Survival Kita Fortran package for the analysis of survival
data, Proc. 6th World Congr. Genet. Appl. Livest. Prod., Armidale, Australia, pp. 447-448.
Falconer, D.S., Mackay, T.F., 1996. Introduction
to quantitative genetics (4th Ed).
Gilmour, A., Gogel, B., Cullis, B., Welham, S.,
Thompson, R., Butler, D., Cherry, M., Collins,
D., Dutkowski, G., Harding, S., 2015. ASReml
user guide. Release 4.1 structural specification.
VSN International Ltd, Hemel Hempstead,
HP1 1ES, UK www. vsni.co.uk.
Gjerde, B., Evensen, Ø., Bentsen, H.B., Storset,
A., 2009. Genetic (co)variation of vaccine
injuries and innate resistance to furunculosis
(Aeromonas salmonicida) and infectious salmon anaemia (ISA) in Atlantic salmon (Salmo
salar). Aquaculture. 287, 52-58.
Kettunen, A., Serenius, T., Fjalestad, K.T., 2007.
Three statistical approaches for genetic analy-

sis of disease resistance to vibriosis in Atlantic
cod (Gadus morhua L.)1. Journal of Animal
Science. 85, 305-313.
Kjøglum, S., Henryon, M., Aasmundstad, T.,

Korsgaard, I., 2008. Selective breeding can
increase resistance of Atlantic salmon to furunculosis, infectious salmon anaemia and infectious pancreatic necrosis. Aquaculture Research. 39, 498-505.
Kolstad, K., Heuch, P.A., Gjerde, B., Gjedrem, T.,
Salte, R., 2005. Genetic variation in resistance
of Atlantic salmon (Salmo salar) to the salmon
louse Lepeophtheirus salmonis. Aquaculture.
247, 145-151.
Mahapatra, K.D., Gjerde, B., Sahoo, P.K., Saha,
J.N., Barat, A., Sahoo, M., Mohanty, B.R.,
Ødegård, J., Rye, M., Salte, R., 2008. Genetic
variations in survival of rohu carp (Labeo rohita, Hamilton) after Aeromonas hydrophila
infection in challenge tests. Aquaculture. 279,
29-34.
Ødegård, J., Olesen, I., Gjerde, B., Klemetsdal,
G., 2007. Positive genetic correlation between
resistance to bacterial (furunculosis) and
viral (infectious salmon anaemia) diseases in
farmed Atlantic salmon (Salmo salar). Aquaculture. 271, 173-177.
Ødegård, J., Baranski, M., Gjerde, B., Gjedrem,
T., 2011. Methodology for genetic evaluation
of disease resistance in aquaculture species:
challenges and future prospects. Aquaculture
Research. 42, 103-114.
Ødegård, J., Olesen, I., Dixon, P., Jeney, Z.,
Nielsen, H.-M., Way, K., Joiner, C., Jeney, G.,
Ardó, L., Rónyai, A., 2010. Genetic analysis
of common carp (Cyprinus carpio) strains. II:
Resistance to koi herpesvirus and Aeromonas
hydrophila and their relationship with pond
survival. Aquaculture. 304, 7-13.

Yáñez, J.M., Lhorente, J.P., Bassini, L.N., Oyarzún, M., Neira, R., Newman, S., 2014. Genetic
co-variation between resistance against both
Caligus rogercresseyi and Piscirickettsia salmonis, and body weight in Atlantic salmon
(Salmo salar). Aquaculture. 433, 295-298.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016

17


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

POSITIVE GENETIC CORRELATION BETWEEN
RESISTANCE TO Edwardsiella ictaluri AND GROWTH IN
STRIPED CATFISH (Pangasianodon hypophthalmus):
IMPLICATION FOR LONG-TERM SELECTION
Trinh Quoc Trong1*, Nguyen Huynh Duy1, Nguyen Thanh Vu1, Le Hong Phuoc1,
Nguyen Thi Hien2, Ngo Hong Ngan1, Tran Huu Phuc1, Nguyen Thi Dang1,
Nguyen The Vuong1, Pham Dang Khoa1, Le Trung Dinh1
ABSTRACT
A challenge test for resistance to Edwardsiella ictalurii on striped catfish (Pangasianodon hypophthalmus) was conducted on 9,614 fingerlings (15 – 25 g of body weight) originated from 177
families that belongs to 4 groups (1 group that has been selecting for fast growth rate, and 3 groups
of wild fish). Juvenile fish were reared and tagged at the National Breeding Center for Freshwater
Aquaculture (Tien Giang province), and thereafter were transferred to the Aquaculture Experimental Station in Go Vap district, Ho Chi Minh City, for the challenge test using the so-called ‘cohabitant’ method. Accumulated mortality after 40 days was found to be of 39%. Heritability estimate
for resistance to E. ictaluri was medium to high, 0.23 ± 0.05 (observed binary scale) or 0.37± 0.05
(underlying continuous scale). Genetic correlation between growth rate (indicated by harvest body
weight) and resistance to E. ictaluriwas 0.26 ± 0.11, indicating that selection for resistant to E. ictaluri will not impair growth in striped catfish.
Keywords: striped catfish, Edwardsiella ictaluri, heritability, genetic correlation, disease resistance.

Người phản biện: TS. Nguyễn Văn Sáng

Ngày nhận bài: 26/7/2016
Ngày thông qua phản biện: 10/8/2017
Ngày duyệt đăng: 05/9/2016

National Breeding Centre for Southern Freshwater Aquaculture, Research Institute for Aquaculture No. 2
Southern Monitoring Center for Aquaculture Environment and Epidemics, Research Institute for Aquaculture No.2
* Email:

1
2

18

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016



×