Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Ảnh hưởng của cinnamaldehyde trong phòng bệnh hoại tử gan tụy cấp tính ở tôm thẻ chân trắng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (596.91 KB, 10 trang )

VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

ẢNH HƯỞNG CỦA CINNAMALDEHYDE TRONG PHỊNG BỆNH
HOẠI TỬ GAN TỤY CẤP TÍNH Ở TÔM THẺ CHÂN TRẮNG
Lê Hồng Phước1*, Bùi Linh Tâm2, Cao Thành Trung1, Đồn Văn Cường1
TĨM TẮT
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá hiệu quả ức chế Vibrio parahaemolyticus và phịng
bệnh hoại tử gan tụy cấp tính của Cinnamaldehye trong điều kiện in vivo và in vitro. Ở môi trường
thạch, Cinnamaldehyde được bổ sung vào thạch Tryptic Soya Agar (TSA) với các nồng độ 40, 50,
60, 70, 80, 90, 100, 110, 120, 130, 140 và 150 ppm. Một lượng bằng nhau của V. parahaemolyticus
được cấy trải trên các đĩa thạch và ủ ở 30oC trong 24 giờ. Kết quả cho thấy ở nồng độ 150 ppm
Cinnamaldehyde ức chế hoàn tồn V. parahaemolyticus mọc trên đĩa thạch. Ở mơi trường canh dinh
dưỡng, Cinnamaldehyde được sử dụng với các nồng độ 40, 50, 60, 70, 80 và 90 ppm. Nồng độ 40
ppm có thể ức chế V. parahaemolyticus sau 3 giờ tiếp xúc. Bổ sung 15ppm Cinnamaldehyde trong
nước nuôi gây chết 100% tơm thí nghiệm sau 3 giờ. Thí nghiệm gây nhiễm với sự có mặt Cinnamaldehyde chưa cho thấy hiệu quả rõ của chất này trong phòng bệnh hoại tử gan tụy cấp tính.
Từ khóa: Cinnamaldehyde, tơm thẻ chân trắng, Vibrio parahaemolyticus

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Kể từ năm 2010 bệnh hoại tử gan tụy
cấp tính (Acute Hepatopancreatic Necrosis
Disease: AHPND) diễn biến khá phức tạp và
gây thiệt hại lớn cho người nuôi. Ở Trung
Quốc AHPND xuất hiện đầu tiên vào năm
2009 nhưng chưa được người nuôi chú ý đến.
Đến năm 2011 bệnh trở nên trầm trọng hơn ở
những trang trại nuôi trên 5 năm và gần biển
(Panakorn, 2012). Các trang trại nuôi tôm ở
Hainan, Guangdong, Fujian và Guangxi bị thiệt
hại trong 6 tháng đầu năm 2011 với khoảng
80%. Ở Malaysia, AHPND được báo cáo đầu
tiên vào cuối năm 2010 tại 2 bang Pahang và


Joho sau đó lan rộng sang các vùng khác làm
giảm sản lượng tôm thẻ chân trắng từ 87.000
tấn trong năm 2010 xuống còn 67.000 tấn

trong năm 2011, sản lượng đến tháng 5/2012
chỉ còn 25.000 tấn.
Năm 2014 AHPND xuất hiện ở 2 tỉnh
phía đơng vịnh Thái Lan. Bệnh được ghi nhận
và gây thiệt hại nặng trên cả tôm sú và tơm
thẻ chân trắng với tỷ lệ chết cao. Tơm có thể
bị nhiễm bệnh trong suốt q trình ni, tập
trung nhiều ở giai đoạn 10-45 ngày thả nuôi
(Flegel., 2012; Lightner, 2012; Prachumwat
và ctv., 2012). Tơm bệnh có dấu hiệu giảm ăn,
dấu hiệu bệnh lý ở giai đoạn đầu thường không
rõ hoặc biểu hiện sưng, nhũn hay nhạt màu gan
tuỵ. Giai đoạn sau biểu hiện rõ bằng sự teo, dai
gan tuỵ, màu sắc nhợt nhạt, dấu hiệu khác cũng
được ghi nhận bao gồm mềm vỏ, sậm màu. Tỷ
lệ tơm chết có thể lên đến 100% trong vài ngày
hoặc kéo dài hơn.

Trung Tâm Quan Trắc Môi Trường & Bệnh Thủy Sản Nam Bộ, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II
Đại học Nông Lâm, Tp. Hồ Chí Minh
* Email:
1
2

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016


65


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

Theo Loc Tran và ctv., (2013) bệnh
hoại tử gan tụy cấp tính do vi khuẩn Vibrio
parahaemolyticus
gây ra, chỉ có Vibrio
parahaemolyticus được phân lập từ dạ dày của
tôm bệnh khi gây bệnh thực nghiệm mới cho
tỷ lệ chết và các dấu hiệu bệnh lý như AHPND
xuất hiện ngoài tự nhiên.
Trong 11 tháng đầu năm 2015 ở nước ta
bệnh hoại tử gan tụy cấp tính xảy ra tại 29 xã,
76 huyện, thị xã thuộc 22 tỉnh/thành phố. Tổng
diện tích bị thiệt hại là 9.103,43 ha. So sánh
cùng kỳ năm 2014 thì số diện tích tơm bệnh
hoại tử gan tụy cấp tính tăng.
Đối với bệnh truyền nhiễm do vi khuẩn có
thể sử dụng kháng sinh để trị bệnh. Tuy nhiên,
việc sử dụng kháng sinh sẽ mang lại nhiều hậu
quả trong đó chủ yếu là kháng kháng sinh và
dư lượng kháng sinh tồn tại trong tôm làm ảnh
hưởng đến xuất khẩu cũng như sức khỏe người
tiêu thụ. Vì vậy việc nghiên cứu các chất thay thế
kháng sinh trong phòng bệnh do vi khuẩn là rất
cần thiết trong nuôi trồng thủy sản. Các nghiên
cứu gần đây cho thấy Cinnamaldehyde là dạng
hương liệu tổng hợp không gây độc thường được

sử dụng trong sản xuất nước giải khát, kẹo cao
su, nước hoa và thức ăn (Adams, 2004). Hợp
chất này có hoạt tính tương tự như brominated
furanones và thiophenones. Chúng tham gia vào
việc bẻ gãy phân tử tín hiệu quorum sensing của
vi khuẩn. Đây là một trong những cách tiếp
cận mới trong phòng bệnh do vi khuẩn. Trong
nghiên cứu này chúng tơi thử nghiệm hiệu quả
của Cinnamaldehyde trong phịng bệnh hoại tử
gan tụy cấp tính ở điều kiện in vivo và in vitro.
Ảnh hưởng của Cinnamaldehyde lên sự phát
triển của nấm Candida albicans được nghiên
cứu bởi nhóm tác giả Taguchi và ctv., (2013). Ở
nồng độ 40 μg/ml chất này có khả năng ức chế
hoàn toàn sự phát triển của Candida albicans.
Cinnamaldehyde và eugenol cũng được được
Suppakul và ctv., (2012) kiểm tra tính kháng
khuẩn đối với vi khuẩn gây bệnh và vi khuẩn
làm hỏng thức ăn. Nhóm tác giả này cũng tìm
được ở nồng độ 50 µl/ml hai chất này có thể hiện
66

tính kháng khuẩn đối với các chủng thí nghiệm.
Cinnamaldehyde, Sporan cùng với acid acetic
cũng đã được Yossa và ctv., (2012) thử tính
kháng khuẩn đối với Escherichia coli O157:H7
và Salmonella trong môi trường lỏng LuriaBertani chứa Cinnamaldehyde hoặc Sporan
riêng lẻ hay phối hợp với acetic acid. Ở nồng độ
800 ppm cinnamaldehyde ức chế hoàn toàn E.
coli O157:H7 và Salmonella.


II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu
- Chủng vi khuẩn gây bệnh hoại tử gan tụy
cấp tính được phân lập từ mẫu tơm bệnh thu tại
tỉnh Sóc Trăng vào tháng 07/2015
- Tơm thẻ chân trắng cỡ 1-2g dùng cho các
thí nghiệm.
- Mơi trường ni cấy tăng sinh vi khuẩn
cho thí nghiệm: TSA (Tryptic Soya Agar), NB
(Nutrient Broth) và các thiết bị nuôi cấy tăng
sinh vi khuẩn (tủ cấy vô trùng, tủ ấm, ly tâm
lạnh…)
- Các thiết bị dụng cụ dùng cho các thí
nghiệm trên tơm: bể kính, bể composite, máy
sục khí,…
- Cinnamaldehyde (Sigma, code 101492477).
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp kiểm tra khả năng ức
chế Vibrio parahaemolyticus phát triển trên
môi trường thạch và lỏng
Chuẩn bị môi trường thạch và lỏng với
các nồng độ khác nhau của Cinnamaldehyde
(chi tiết trong phần bố trí thí nghiệm). Đối
với mơi trường thạch, tiến hành cấy trên mỗi
đĩa thạch 100 µl dịch huyền phù vi khuẩn với
mật độ đã được xác định, ủ đĩa thạch ở 30oC
và đếm khuẩn lạc sau 24h. Đối với môi trường
lỏng sau khi khuẩn bị môi trường với nồng độ

Cinnamaldehyde khác nhau tiến hành cấy V.
parahaemolyticus vào với mật bằng nhau ở
các nghiệm thức, ủ ở 30oC trong tủ ấm lắc 150
vịng/phút. Tiến hành thu mẫu sau các điểm

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

thời gian khác nhau để đánh giá ảnh hưởng của
Cinnamaldehyde lên V. parahaemolyticus
2.2.2. Chuẩn bị vi khuẩn gây nhiễm
Vibrio parahaemolyticus được phân lập từ
mẫu tơm bệnh hoại tử gan tụy cấp tính được
dùng cho các thí nghiệm gây nhiễm. Vi khuẩn
được giữ giống trong 20% glycerol và giữ ở
-80oC sau đó cấy trên môi trường Thiosulfate
Citrate Bile Succrose Agar (TCBS) và ủ ở 28oC
trong 24 giờ. Khuẩn lạc đơn được chuyển sang
môi trường Nutrient Broth + 2% NaCl tăng sinh
qua đêm ở 28oC với tốc độ lắc 150 vòng/phút.
Vi khuẩn sau khi tăng sinh được chuyển sang
ống ly tâm và ly tâm ở tốc độ 2.200 g trong 15
phút, bỏ dịch nổi, rửa cặn 2 lần với nước muối
sinh lý vô trùng. Mật độ vi khuẩn được xác định
bằng cách đo mật độ quang sau đó tính OD =1
tương ứng với 1,2 x 109 CFU/ml (việc tính tốn
mật độ vi khuẩn dựa trên mật độ quang đã có so
sánh với kết quả thu mẫu cấy trực tiếp và đếm

lượng khuẩn lạc mọc trên đĩa thạch).
2.2.3. Thí nghiệm gây nhiễm
Nước biển ni tơm có độ mặn 20 gL-1 được
xử lý với 30 mgL-1 chlorine trong 3 ngày với sục
khí mạnh sau đó trung hịa bằng Na2S2O3 để loại
trừ dư lượng của chlorine. Tùy theo mục đích
của từng thí nghiệm, sau khi tơm được ni ở
các nghiệm thức khác nhau tiến hành gây nhiễm
với V. parahaemolyticus để đánh giá khả năng
phòng trị của các loại chế phẩm sử dụng. Tôm
được gây nhiễm bằng phương pháp ngâm với
106 CFU/ml V. parahaemolyticus. Sau khi gây
nhiễm tiến hành theo dõi ghi nhận hiện tượng
tơm chết trong vịng 70-10 ngày để đánh giá
hiệu quả của các hợp chất thử nghiệm đối với
bệnh hoại tử gan tụy cấp tính. Tơm chết được
loại ra khỏi bể nuôi kịp thời để tránh trường hợp
tôm chết lâu làm ảnh hưởng xấu đến chất lượng
nước. Mẫu tôm chết được thu (6 con/nghiệm
thức) để tái phân lập V. parahaemolyticus và
kiểm tra bằng phương pháp PCR theo quy trình
của Han và ctv., (2015) để đảm bảo tôm chết do
V. parahaemolyticus gây bệnh hoại tử gan tụy.

2.2.4. Phương pháp phân tích số liệu
Số liệu được tổng hợp bằng phần mềm Excel
và xử lý bằng phần mềm SPSS (Version16)
2.3. Bố trí thí nghiệm

2.3.1. Khảo sát ảnh hưởng của các nồng

độ Cinnamaldehyde lên sự phát triển của V.
parahaemolyticus trên mơi trường thạch
Mục đích của thí nghiệm này nhằm đánh
giá ảnh hưởng của Cinamaldehye đến ức chế sự
phát triển của V. parahaemolyticus trong môi
trường thạch.
Chuẩn bị Cinnamaldehyde với các nồng
độ 40, 50, 60, 70, 80, 90, 100, 110, 120, 130,
140 và 150 ppm trong môi trường thạch TSA.
Tạo dịch huyền phù vi khuẩn sao cho có mật độ
vi khuẩn khoảng 103 CFU/ml sau đó cấy trang
100 µl dịch huyền phù lên đĩa thạch (3 đĩa cho
mỗi nồng độ Cinnamaldehyde). Tiến hành đếm
khuẩn lạc trên các đĩa thạch sau 24h.
2.3.2. Khảo sát ảnh hưởng của các nồng
độ Cinnamaldehyde lên sự phát triển của V.
parahaemolyticus trên môi trường lỏng
Chuẩn bị Cinnamaldehyde với các nồng độ
20, 30, 40, 50, 60, 70, 80, 90 ppm trong 25 ml
mơi trường NB chứa trong bình tam giác 100ml.
Tiến hành cấy V. parahaemolyticus sao cho mật
độ cuối cùng trong mỗi bình tam giác là 104
CFU/ml, ủ trong tủ ấm lắc ở nhiệt độ 28oC với
tốc độ lắc 150 vòng/phút. Thu mẫu mỗi 3 giờ và
kéo dài trong 24 giờ nuôi cấy và cấy trang trên
đĩa thạch để đếm tổng số V. parahaemolyticus.
2.3.3. Thử nghiệm tính độc
Cinnamaldehyde đối với tơm ni

của


Mục đích của thí nghiệm này nhằm kiểm
tra tính độc của Cinnamaldehyde đến tơm ni.
Từ kết quả thí nghiệm sẽ làm cơ sở cho việc sử
dụng liều Cinnamaldehyde để bố trí ảnh hưởng
của chất này đến khả năng phịng bệnh hoại tử
gan tụy cấp tính.
Cho Cinnamaldehyde vào nước các bể
nuôi tôm thẻ chân trắng (trọng lượng 1,8 ±
0,3g) với nồng độ 2; 5; 7,5; 10; 15; 20 ppm

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016

67


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

Cinnamaldehyde. Tiến hành theo dõi hoạt
động của tôm cũng như ghi nhận tỷ lệ chết để
đánh giá.
2.3.4. Thử nghiệm hiệu quả của
Cinnamaldehyde trong phịng bệnh hoại tử
gan tụy cấp tính
Thí nghiệm được bố trí gồm 04 nghiệm
thức trong đó có 02 nghiệm thức đối chứng và

02 nghiệm thức thí nghiệm. Cinnamaldehyde

được cho 1 lần vào nước các bể thí nghiệm

tại thời điểm gây nhiễm. Mỗi nghiệm thức

gồm 3 bể thí nghiệm, mỗi bể chứa 20 tơm cỡ
1,5 ± 0,2g (chi tiết bố trí thí nghiệm được mơ
tả ở Bảng 1). Theo dõi tỷ lệ chết trong vòng 14
ngày sau khi gây nghiễm để đánh giá hiệu quả
của Cinnamaldehyde

Bảng 1. Bố trí thí nghiệm kiểm tra hiệu quả của Cinnamaldehyde
trong phòng bệnh hoại tử gan tụy cấp tính
STT
1

Nghiệm thức
Cinnamaldehyde 5 ppm (ĐC)

Tơm thí nghiệm

20 con/bể x 3 bể

2

Không cinnamaldehyde (ĐC)

20 con/bể x 3 bể

3

Cinnamaldehyde 5 ppm


20 con/bể x 3 bể

4

Không cinnamaldehyde

20 con/bể x 3 bể

III. KẾT QUẢ
3.1. Ảnh hưởng của các nồng độ
Cinnamaldehyde lên sự phát triển của V.
parahaemolyticus trên môi trường thạch
Đối với thí nghiệm trên mơi trường thạch
với các nồng độ Cinamaldehyde cho thấy ở các
nồng độ từ 40-60 ppm không thấy ảnh hưởng
của Cinnamaldehyde đến sự phát triển của V.
parahaemolyticus (Đồ thị 1), mật độ vi khuẩn ở

Ghi chú

Không gây nhiễm với V.
parahaemolyticus
Không gây nhiễm với V.
parahaemolyticus
Gây nhiễm với V.
parahaemolyticus
Gây nhiễm với V.
parahaemolyticus

nhóm đối chứng và các nghiệm thức thí nghiệm

với các nồng độ khác nhau của cinnamaldehyde
khơng có sự khác biệt lớn. Tuy nhiên, ở nồng
độ từ 70-110 ppm có sự giảm nhẹ của số
lượng khuẩn lạc mọc trên đĩa thạch so với đối
chứng. Nồng độ 120-140 ppm giảm đáng kể số
khuẩn lạc trên đĩa thạch và đặc biệt là 150 ppm
Cinnamaldehyde ức chế hoàn toàn sự phát triển
của V. parahaemolyticus.

Đồ thị 1. Kết quả kiểm tra khả năng ức chế V. parahaemolyticus của Cinnamaldehyde trên mơi trường thạch
68

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

3.2. Ảnh hưởng của các nồng độ
Cinnamaldehyde lên sự phát triển của V.
parahaemolyticus trên mơi trường thạch
Ở thí nghiệm trên mơi trường lỏng kết quả
cho thấy Cinnamaldehyde có thể ức chế vi khuẩn
ở nồng độ thấp hơn so với môi trường thạch. Ở
nồng độ từ 40-90 ppm Cinnamaldehye tại thời
điểm 3 giờ sau khi cấy cho thấy số khuẩn lạc

mọc rất ít so với đối chứng (Bảng 2). Tuy nhiên,
ở thời điểm 6 giờ thì các nồng độ 30, 40, 50,
60 ppm có mật độ V. parahaemolyticus không
khác biệt lớn so với đối chứng. Có thể là do các

nồng độ này chưa đủ mạnh để ức chế hoàn toàn
vi khuẩn phát triển. Ở nồng độ 90 ppm mặc dù
khơng ức chế hồn tồn nhưng kết quả khá rõ
ràng là Cinnamaldehyde làm ức chế sự phát
triển của vi khuẩn.

Bảng 2. Mật độ vi khuẩn (Log10 CFU/ml) ở các thời điểm thu mẫu khác nhau khi ni cấy
trong mơi trường lỏng có sự hiện diện của Cinnamaldehyde

Giờ sau khi cấy vi khuẩn

Nồng độ
Cinnamaldehyde

3

6

9

12

15

18

21

24


20 ppm

5,22

8,22

8,36

8,43

8,46

8,46

8,27

7,95

ĐC 20 ppm

5,13

8,26

8,30

8,47

8,49


8,45

8,30

7,89

30 ppm

5,01

8,06

8,30

8,42

8,45

8,46

8,33

7,96

ĐC 30 ppm

5,27

7,93


8,24

8,46

8,49

8,48

8,30

7,80

40 ppm

3,58

7,28

7,55

8,33

8,44

8,42

8,30

7,84


ĐC 40 ppm

5,00

8,28

8,32

8,44

8,48

8,47

8,32

7,78

50 ppm

3,59

7,86

8,22

8,33

8,45


8,45

8,30

7,72

ĐC 50 ppm

4,95

8,27

8,35

8,44

8,44

8,44

8,32

7,72

60 ppm

3,48

7,08


7,42

8,16

8,47

8,45

8,26

7,64

ĐC 60 ppm

5,18

8,18

8,34

8,47

8,47

8,47

8,45

7,73


70 ppm

3,36

3,89

4,26

5,77

6,16

6,77

7,20

6,64

ĐC 70 ppm

5,48

8,11

8,16

8,44

8,47


8,48

8,44

7,87

80 ppm

3,19

3,80

3,90

3,67

3,64

4,11

5,07

5,36

ĐC 80 ppm

5,20

8,21


8,33

8,44

8,48

8,44

8,41

7,70

90 ppm

2,76

3,58

3,36

2,19

1,65

1,60

1,40

1,18


ĐC 90 ppm

5,20

8,17

8,35

8,42

8,47

8,44

8,37

7,59

3.3. Độc tính của Cinnamaldehyde đối
với tơm ni

sau 1 giờ tiếp xúc. Liều 10 ppm mặc dù không

Kết quả khảo sát tính độc của
Cinnamaldehyde trên tơm thẻ chân trắng cho
thấy ở liều 15 và 20 ppm gây chết cấp tính tơm

tỷ lệ chết cộng dồn đến 93%. Liều 7,5 ppm cho

chết cấp tính nhưng sau 48 giờ theo dõi cho thấy

tỷ lệ chết 20% mặc dù không gây chết cấp tính.
Như vậy kết quả khảo sát cho thấy ở liều 5 ppm

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016

69


VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II

an tồn đối với tơm (Đồ thị 2). Dựa trên kết quả
thí nghiệm này để làm cở sở chọn nồng độ thích
hợp của Cinnamaldehyde cho việc bố trí thí

nghiệm kiểm tra hiệu quả của Cinnamaldehyde
trong việc phòng bệnh hoại tử gan tụy cấp tính.

Đồ thị 2. Tỷ lệ chết cộng dồn của tơm thẻ chân trắng sau khi cho tiếp xúc
với các nồng độ khác nhau của Cinnamaldehyde

3.4. Hiệu quả của Cinnamaldehyde
trong phòng bệnh hoại tử gan tụy cấp tính
Kết quả thí nghiệm ở Đồ thị 3 cho thấy ở
nghiệm thức không bổ sung Cinnamaldehyde +
khơng gây nhiễm và nghiệm thức có bổ sung 5
ppm Cinnamaldehyde + không gây nhiễm cho
tỷ lệ chết rất thấp (khoảng 10%). Ở hai nghiệm
thức này tôm chết chủ yếu là do lột xác và ăn
nhau. Điều này cho thấy tôm Cinnamaldehyde
ở nồng độ 5 ppm không gây chết tơm ni.

Tuy nhiên ở 2 nghiệm thức thí nghiệm có hoặc
khơng có sự hiện diện của Cinnamaldehyde
nhưng gây nhiễm với V. parahaemolyticus

70

cho tỷ lệ chết khá cao (78,33% ở nghiệm
thức khơng có Cinnamaldehyde và 68,33%
ở nghiệm thức có Cinnamaldehyde). Mặc dù
ở nghiệm thức có Cinnamaldehyde có tỷ lệ
chết thấp hơn nhưng chưa thấy sự khác biệt
có ý nghĩa về mặt thống kê (p > 0,05) về tỷ lệ
tôm chết ở hai nghiệm thức này, nghĩa là chưa
thấy được ảnh hưởng lớn của Cinnamaldehyde
trong phòng bệnh hoại tử gan tụy cấp tính. Kết
quả tái phân lập vi khuẩn cho thấy ở các mẫu
thu đều phân lập được V. parahaemolyticus và
dương tính với phản ứng PCR theo quy trình
của Han và ctv., (2015).

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

Đồ thị 3. Hiệu quả của Cinnamaldehyde trong phòng bệnh hoại tử gan tụy cấp tính
IV. THẢO LUẬN
Theo nghiên cứu của Gde và ctv., (2013) cho
thấy Cinnamaldehyde làm tăng tỷ lệ sống của
ấu trùng tôm càng xanh khi gây nhiễm với tác

nhân gây bệnh Vibrio harveyi. Cinnamaldehyde
và thiophenone có thể mang lại hiệu quả tốt khi
sử dụng liều 1 μM và 10 μM trong nước. Tuy
nhiên khi tăng nồng độ trên 10 μM không làm
tăng tỷ lệ sống mà trái lại gây chết ấu trùng tơm
càng xanh. Điều này cho thấy Cinnamaldehyde
chỉ có thể sử dụng ở liều nhất định nếu tăng
nồng độ sẽ trở nên độc đối với ấu trùng tôm
càng xanh. Kết quả này cũng tương thích với
kết quả thử nghiệm của chúng tơi tìm thấy ở
nồng độ trên 7,5 ppm thì Cinnamaldehyde gây
chết tơm, ở liều 20 ppm có thể gây chết cấp tính
sau khi cho tơm tiếp xúc với Cinnamaldehyde.
Cinnamaldehyde có thể bảo vệ Artemia đối với
tác nhân gây bệnh Vibrio campbellii và cá bơn
với tác nhân gây bệnh Aeromonas hydrophila
và Aeromonas salmonicida (Natrah và ctv.,

2012). Các chất có khả năng làm phân hủy
tín hiệu quorum sensing của vi khuẩn như
Cinnamaldehyde, brominated furanones và
brominated thiophenones có khả năng bảo vệ
Artemia khỏi sự xâm nhiễm của Vibrio harveyi
(Brackman và ctv., 2008; Defoirdt và ctv., 2007,
2012)
Nghiên cứu của Chenia (2015) kiểm tra
tính nhạy cảm của Cinnamaldehyde đối với 36
chủng vi khuẩn Chryseobacterium và 7 chủng
Myroides spp. Phân lập được từ cá hồi, cá rô phi
và 19 chủng Flavobacterium với kết quả cho thấy

Cinnamaldehyde nồng độ ≥250 μg/ml (77,8100%) và kết luận rằng chất này có tiềm năng
để trị bệnh nhiễm khuẩn Chryseobacterium/
Myroides trên cá và có tính thân thiện với mơi
trường, giá cả cũng hợp lý và khi sử dụng khơng
có hiện tượng đề kháng.
Nhóm tác giả Taguchi và ctv., (2013) đã làm
thử nghiệm ảnh hưởng của Cinnamaldehyde lên
sự phát triển của nấm men bằng cách bổ sung

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016

71


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

chất này vào môi trường nuôi cấy Candida
albicans với các nồng độ khác nhau. Kết quả
cho thấy ở nồng độ 10 μg/ml Cinnamaldehyde
ức chế sự phát triển của sợi nấm nhưng không
ảnh hưởng đến sự phát triển của tế bào nói
chung. Ngồi ra ở nồng độ này cũng chưa thấy
ảnh hưởng đến hoạt động trao đổi chất, hình
thái hoặc cấu trúc của tế bào. Ở nồng độ 40 μg/
ml Cinnamaldehyde thể hiện bản chất diệt nấm
bằng việc làm biến đổi màng tế bào và các cấu
trúc bên trong tế bào nấm men. Cinnamaldehyde
và eugenol cũng được Suppakul và ctv., (2012)
thử hoạt tính kháng khuẩn đối với 10 chủng vi
khuẩn gây bệnh và làm hỏng thức ăn và 3 chủng

nấm men bằng phương pháp giếng khuếch tán
trên thạch đục lỗ. Hai chất này được tẩm vào
giấy để thử tính kháng khuẩn trên mơi trường
thạch gần giống như cách thử kháng sinh đồ. Ở
nồng độ 50 µl/ml, Cinnamaldehyde và eugenol
thể hiện tính kháng khuẩn đối với các chủng
thí nghiệm. Với nồng độ ức chế tối thiểu 0,7850 µl/ml, Cinnamaldehyde và eugenol ức chế
tồn bộ các chủng thử nghiệm. Trong số các
chủng thử nghiệm thì Aeromonas hydrophila
và Enterococcus faecalis nhạy cảm nhất đối
với Cinnamaldehyde và eugenol.
Cinnamaldehyde, Sporan cùng với acid
acetic được Yossa và ctv., (2012) thử tính
kháng khuẩn đối với Escherichia coli O157:H7
và Salmonella bằng cách cho vào mơi trường
lỏng Luria-Bertani có vi khuẩn (7 log cfu/
mL) và chứa Cinnamaldehyde hoặc Sporan
(800 và 1.000 ppm) riêng lẻ hay phối hợp với
200 ppm acetic acid và ử 37oC trong 6 giờ.
Số tế bào sống sót được kiểm tra bằng phương

72

pháp tráng đĩa. E. coli O157:H7 và Salmonella
không được tìm thấy sau 1 giờ khi có sự hiện
diện của 800 ppm Cinnamaldehyde.
Trong nghiên cứu này đối với môi
trường lỏng thì Cinnamaldehyde thể hiện
tính ức chế với nồng độ thấp hơn so với mơi
trường thạch. Có thể là do trong môi trường

lỏng với điều kiện nuôi cấy lắc làm cho khả
năng tiếp lúc của V. parahaemolyticus với
Cinnamaldehyde nhiều hơn. Hơn nữa trong
môi trường thạch V. parahaemolyticus chỉ tiếp
xúc với Cinnamaldehyde trên bề mặt thạch
nên hiệu quả ức chế của Cinnamaldehyde thấp
hơn so với trong môi trường lỏng. Đối với thí
nghiệm gây nhiễm khi có sự hiện diện của
Cinnamaldehyde cho tỷ lệ chết thấp hơn nhưng
chưa có sự khác biệt lớn so với đối chứng. Các
thí nghiệm tối ưu các điều kiện khác cần được
nghiên cứu thêm để đánh giá hiệu quả phịng
bệnh của Cinnamaldehyde.
V. KẾT LUẬN
Cinnamaldehyde có khả năng ức chế sự
phát triển của Vibrio parahaemolyticus trong
môi trường thạch và môi trường lỏng. Ở môi
trường thạch với nồng độ 150 ppm chất này
ức chế hoàn toàn Vibrio parahaemolyticus mọc
trên môi trường TSA. Đối với môi trường lỏng
ở nồng độ từ 40 ppm cho thấy có khả năng
ức chế Vibrio parahaemolyticus sau 3 giờ nuôi
cấy. Bước đầu cho thấy Cinnamaldehyde gây
chết tôm nuôi cỡ 1-2g với nồng độ từ 7,5 ppm
trở lên và hiệu quả chưa cao trong phòng bệnh
hoại tử gan tụy cấp tính.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016



VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Adams, T.B., 2004. The FEMA GRAS assessment of
cinnamyl derivatives used as flavor ingredients.
Food Chem. Toxicol. 42(2): 157-185
Brackman, G., Defoirdt, T., Miyamoto, C., Bossier,
P., Calenbergh, S.V., Nelis, H., Coenye, T.,
2008. Cinnamaldehyde and cinnamaldehyde
derivatives reduce virulence in Vibrio spp. by
decreasing the DNA-binding activity of the
quorum sensing response regulator luxR. BMC
Microbiol 8 (149): 1–14.
Chenia, H.Y., 2015. Antimicrobial activity
of cinnamaldehyde, vanillin and Kigelia
africana fruit extracts against fish-associated
Chryseobacterium and Myroides spp. Isolates.
Afr J Tradit Complement Altern Med. 12(3):
55-67
Defoirdt, T., Miyamoto, C.M., Wood, T.K.,
Meighen, E.A., Sorgeloos, P., Verstraete,
W., Bossier, P., 2007. The natural furanone
(5Z)-4 bromo-5-(bromomethylene)-3- butyl2(5H)-furanone disrupts quorum sensingregulated gene expression in Vibrio harveyi
by decreasing the DNA-binding activity of the
transcriptional regulator protein luxR. Environ
Microbiol 9: 2486–2495.
Defoirdt, T., Benneche, T., Brackman, G., Coenye,
T., Sorgeloos, P., Scheie, A.A., 2012. A quorum
sensing-disrupting brominated thiophenone
with a promising therapeutic potential to treat

luminescent vibriosis. PLoS One 7 (7): 417-88.
Flegel, T.W., 2012. Historic emergence, impact
and current status of shrimp pathogens in Asia.
Journal of Invertebr Pathol 110: 166-173.
Gde, S.J.Pande, Scheie, A.A., Benneche, T., Wille,
M., Sorgeloos, P., Bossier, P., Defoirdt, T.,
2013. Quorum sensing-disrupting compounds
protect larvae of the giant freshwater prawn
Macrobrachium rosenbergii from Vibrio harveyi
infection. Aquaculture 406-407: 121-124.
Han, J., Tang, K., Tran, L.H., Lightner, D.V., 2015.
Photorhabdus Insect-Related (Pir) Toxin-like
Genes in a Plasmid of Vibrio Parahaemolyticus,
the Causative Agent of Acute Hepatopancreatic
Necrosis Disease (AHPND) of Shrimp. Dis
Aquat Org 113(1): 33-40.

Lightner, D.V., Redman, R.M., Pantoja, C.R.,
Noble, B.L., Loc Tran, 2012. Early Mortality
Syndrome. Global aquaculture advocate
2/2012, p40
Loc, T., Nunan, L., Redman, R.M., Mohney, L.L.,
Pantoja, C.R., Fitzsimmons, K., Logambal,
S.M., Venkatalakshmi, S., Michael, R.D.,
2013. Determination of the infectious nature
of the agent of acute hepatopancreatic necrosis
syndrome affecting penaeid shrimp. Dis Aquat
Org 105: 45–55.
Natrah, F.M.I., Iftakharul, M.A., Pawar, S.,
Harzevili, A.S., Nevejan, N., Boon, N.,

Sorgeloos, P., Bossier, P., Defoirdt, T., 2012.
The impact of quorum sensing on the virulence
of Aeromonas hydrophila and Aeromonas
salmonicida towards burbot (Lota lota L.)
larvae. Vet Microbiol 159: 77–82
Panakorn, S., 2012. Opinion article: more on early
mortality syndrome in shrimp. Aqua Culture
Asia Pacific, 8 (1): 8-10.
Prachumwat, A.A., Thitamadee, S., Sriurairatana,
S., Chuchird, N., Limsuwan, C. Jantratit,
W., Chaiyapechara, S., Flegel, T.W., 2012.
Shotgun sequencing of bacteria from AHPNS,
a new shrimp disease threat for Thailand.
Poster, National Institute for Aquaculture
Biotechnology, Mahidol University, Bangkok,
Thailand (Poster available for free download at
www.enaca.org)
Suppakul, P., Chonhenchob, V., SanlaEad, N., 2012. Antimicrobial Activity of
Cinnamaldehyde and Eugenol and Their
Activity after Incorporation into Cellulosebased Packaging Films. Pakaging Technology
and Science 25 (2): 7–17
Taguchi, Y., Hasumi, Y., Abe, S., Nishiyama, Y., 2013.
The effect of cinnamaldehyde on the growth and the
morphology of Candida albicans. Medical Molecular
Morphology 46(1): 8-13
Yossa, N., Jitendra, P., Dumitru, M., Patricia,
M., Charles, M., Gary, B., Martin, L.Y., 2012.
Antibacterial activity of Cinnamaldehyde and Sporan
against Escherichia Coli O157:H7 and Salmonella.
Journal of Food Processing and Preservation ISSN

1745-4549. doi:10.1111/jfpp.12026

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016

73


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

EFFECT OF CINNAMALDEHYDE ON PREVENTION OF ACUTE
HEPATOPANCREATIC NECROSIS DISEASE IN Penaeus
vannamei SHRIMP
Le Hong Phuoc1*, Bui Linh Tam2, Cao Thanh Trung1, Doan Van Cuong1
ABSTRACT
This study was conducted to evaluate the effect of Cinnamaldehye on prevention of Acute Hepatopancreatic Necrosis Disease (AHPND) in Penaeus vannamei shrimp. In vivo and in vitro tests
were performed to test the effect of Cinnamaldehyde on Vibrio parahaemolyticus and on the prevention of AHPND. In agar medium, Cinnamaldehyde was added to Tryptic Soya Agar (TSA) at
concentrations of 40, 50, 60, 70, 80, 90, 100, 110, 120, 130, 140, and 150 ppm. Equal amounts of
V. parahaemolyticus suspension were plated on TSA plates which contained the above mentioned
concentrations of Cinnamaldehyde and were incubated at 30oC for 24 hours. The concentration of
150 ppm Cinnamaldehyde completely inhibited the growth of Vibrio parahaemolyticus. In broth
medium, Cinnamaldehyde was added to Nutrient broth at concentrations of 40, 50, 60, 70, 80, and
90 ppm. This componud was able to inhibit the growth of V. parahaemolyticus at a concentration of
40 ppm at 3 hours post-innoculation. In addition, Cinnamaldehyde was toxic to Penaeus vannamei
shrimp. Hundred percent shrimp mortality was obtained when adding 15 ppm Cinnamaldehyde in
the culture water. Application of Cinnamaldehyde in challenge test showed a slight protection of
Penaeus vannamei shrimp against V. parahaemolyticus.
Keywords: Cinnamaldehyde, shrimp, Vibrio parahaemolyticus

Người phản biện: ThS. Ngô Thị Ngọc Thủy
Ngày nhận bài: 06/9/2016

Ngày thông qua phản biện: 12/9/2016
Ngày duyệt đăng: 15/9/2016

Southern Monitoring Center for Aquaculture Environment and Epidemics, Research Institute for Aquaculture No.2
Nong Lam university, HCMC.
* Email:
1
2

74

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 8 - THÁNG 9/2016



×