Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Bài thảo luận số 01 Tố tụng Hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.28 KB, 24 trang )

Bài thảo luận số 01 TTHS
I. Lí thuyết.
Câu 1: Chức năng TTHS là gì? Phân tích các chức năng TTHS cơ bản?
Chức năng TTHS - một dạng chức năng nhà nước, là những định hướng lớn, cơ bản
nhằm phân định các hoạt động trong lĩnh vực TTHS của các chủ thể khác nhau trong
phạm vi nhất định trên cơ sở phù hợp với mục đích quyền và nghĩa vụ tố tụng của các
bên tố tụng.
TTHS có 3 chức năng cơ bản sau:
+ Chức năng buộc tội: Chức năng buộc tội cịn gọi là chức năng truy cứu trách nhiệm
hình sự, là một dạng hoạt động tố tụng nhằm phát hiện kẻ phạm tội, chứng minh lỗi của
người đó, bảo đảm phán xử và hình phạt đối với người đó. Cụ thể:


Chức năng buộc tội là một dạng hoạt động TTHS.



Chức năng buộc tội đối lập với chức năng bào chữa và cùng tồn tại với chức năng

này.


Chức năng buộc tội tồn tại từ giai đoạn điều tra và sẽ kéo dài cho đến khi bản án

hoặc quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Tức là nó phải trải qua giai đoạn điều
tra và giai đoạn xét xử.


Nội dung của chức năng buộc tội là phát hiện kẻ phạm tội, chứng minh lỗi của người

đó.


Nội dung chức năng buộc tội bao gồm những hoạt động tố tụng nhằm phát hiện người đã
thực hiện hành vi phạm tội, tội phạm đã thực hiện, những tình tiết thể hiện tính chất và
mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, chứng minh lỗi của những người đã thực hiện
tội phạm, động cơ mục đích cũng như những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự. Như vậy, nội dung chức năng buộc tội chính là nội dung các quyền và nghĩa vụ
của các chủ thể buộc tội theo quy định của pháp luật.
1


+ Chức năng bào chữa: Đây là chức năng xuất phát từ quyền bào chữa của người bị
buộc tội, phát sinh ngay sau khi có quyết định buộc tội của cơ quan nhà nước trong cả
quá trình tố tụng gồm điều tra, truy tố, xét xử.
Mục đích của việc thực hiện chức năng bào chữa là trao cho người bị buộc tội cơ hội
được bảo vệ quyền lợi chính đáng trước thủ tục tố tụng, hỗ trợ họ tự vệ trước áp buộc của
bên buộc tội, mang ý nghĩa nhân đạo tạo thế cân bằng cho cả hai bên.
+ Chức năng xét xử: Đây là chức năng cơ bản của TTHS, chức năng xét xử chỉ do Tòa
thực hiện. Khi thực hiện chức năng xét xử, Tòa án giải quyết các vụ án theo thẩm quyền,
xác định tội phạm và hình phạt. Tịa án thực hiện chức năng xét xử qua 3 nội dung chính:


Xác định sự thật khách quan của vụ án, đánh giá một cách khách quan, tổng thể,

tồn diện sự kiện đó.


Đánh giá pháp lý đối với sự việc phạm tội một cách độc lập và công bằng, tiến

hành định tội danh chính xác và phù hợp với hành vi phạm tội và sự việc phạm tội.



Áp dụng các hình thức trách nhiệm hình sự tương xứng với tính chất và mức độ

nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
Câu 2: Mơ hình TTHS là gì? Có những mơ hình TTHS nào đã và đang tồn tại trên
thế giới? Ưu điểm và hạn chế của từng mơ hình TTHS.
* Mơ hình TTHS là cách thức tổ chức hoạt động TTHS quyết định địa vị tố tụng của các
chủ thể tham gia hoạt động TTHS như thế nào và nguồn động lực của hoạt động TTHS là
gì: là hoạt động tích cực của các bên tham gia tranh tụng hay là hoạt động tích cực của
các cơ quan nhà nước mà trước hết là cơ quan Tòa án hay là sự kêt hợp của cả hai.
* Theo quan điểm phổ biến, có 04 mơ hình TTHS sau:
Tố tụng tố cáo.
Tố tụng thẩm vấn.
Tố tụng tranh tụng.
Tố tụng hỗn hợp.
2


* Ưu điểm và hạn chế của từng mơ hình TTHS.
- Tố tụng tố cáo:
Ưu điểm: Chủ thể thực hiện chức năng bào chữa chính là người bị buộc tội. Hơn nữa,
mọi người đều có thể tham gia nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của người bị buộc tội như là
những người thân, bạn bè của người bị buộc tội. Bào chữa mang ý nghĩa nhằm bảo vệ
người bị buộc tội.
Nhược điểm: Để hạn chế tình trạng lợi dụng quyền tố cáo gây thiệt hại đến tính mạng,
danh dự, nhân phẩm, tài sản của người khác, loại hình tố tụng tố cáo đòi hỏi khi tố cáo tội
phạm với nhà chức trách, người tố cáo phải tuyên thệ; nếu người bị tố cáo khơng phạm
tội, người tố cáo có thể bị xử phạt. Điều này đã làm cho việc tố cáo của người bị hại giảm
dần. Dần dần, trong loại hình tố tụng tố cáo, chủ thể buộc tội là cá nhân (người bị hại)
được chuyển giao cho người đại diện lợi ích của nhà vua nên tư tố chuyển sang công tố.
Chủ thể thực hiện chức năng xét xử khơng có sự thống nhất, ở các thời điểm khác nhau

thì cơ quan xét xử cũng được quy định khác nhau.
- Tố tụng thẩm vấn:
Ưu điểm: Tố tụng thẩm vấn ra đời từ những nguyên nhân sau: thứ nhất, từ yêu cầu tăng
cường quyền lực công; thứ hai, do tình hình tội phạm tăng; thứ ba, do thái độ thờ ơ, vô
trách nhiệm của quyền lực công đối với các quyền của con người.
Đặc trưng cơ bản của hoạt động tố tụng này là: đưa công tố của nhà vua thành một chủ
thể bắt buộc của bất cứ vụ án hình sự nào, điều này thừa nhận sự quan tâm của Nhà nước
đối với vụ án và tình hình tội phạm; quy định hai thẩm phán trong suốt quá trình điều tra,
truy tố và xét xử. Phiên tịa xét xử trong loại hình này khơng phải là sự tranh luận giữa
hai bên đối trọng mà là tiếp tục điều tra. Các bên phải cung cấp tất cả các chứng cứ cho
tòa án, sự thật được đánh giá và kết luận trong quá trình xét hỏi.
Nhược điểm: Trong tố tụng thẩm vấn, các cơ quan có thẩm quyền dùng nghiệp vụ điều
tra để xác định hành vi phạm tội của người bị buộc tội, nên không thể công khai rộng rãi,
nhất là đối với người bị buộc tội.
3


Các hoạt động tố tụng không được phân biệt rõ ràng và được thể hiện ở những mức độ
khác nhau. Đặc biệt, các cơ quan, tổ chức thực hiện chức năng tố tụng không được xác
định cụ thể mà hầu như tập trung vào tồ án. Người bị hại khơng có chức năng buộc tội
mà thay vào đó là người thuộc các cơ quan, tổ chức thực hiện chức năng tố tụng. Người
bị buộc tội bị hạn chế quyền bào chữa, họ không phải là một chủ thể trong quan hệ tố
tụng mà chỉ là khách thể của quan hệ tố tụng.
- Tố tụng tranh tụng:
Ưu điểm: Thứ nhất, mô hình tranh tụng có một quy trình tố tụng, đặc biệt là trong giai
đoạn xét xử, thể hiện tính cơng bằng cao. Điều này được thể hiện qua vai trò bình đẳng
giữa bên buộc tội và bên gỡ tội, giữa công tố viên và luật sư. Cả hai chủ thể này đều có
quyền và nghĩa vụ như nhau trong suốt q trình tố tụng. Thơng qua đối tụng giữa cơng
tố viên và luật sư mà tịa án, gồm đồn bồi thẩm và thẩm phán chủ tọa, phán quyết về sự
thật khách quan và định hình phạt.

Luật sư có thể tham gia đầy đủ vào q trình tố tụng nên tịa án có thêm được một nguồn
thơng tin giá trị để khám phá sự thật khách quan của vụ án thay vì chỉ xem xét các chứng
cứ có trong hồ sơ hình sự của mơ hình thẩm vấn thì đồn bồi thẩm của mơ hình tranh
tụng được tiếp cận chứng cứ của cả bên buộc tội và bên gỡ tội. -=> Giúp tìm ra sự thật
khách quan một cách chính xác hơn. Chất lượng tố tụng vì thế cũng có thể được nâng cao
hơn.
Trong một mơ hình tố tụng tranh tụng có tính cơng bằng cao, người bào chữa và bị cáo
cũng dễ cảm thấy rằng mình đã có một cơ hội tốt và cơng bằng để đi tìm cơng lý. Vì vậy,
họ sẽ ít có xu hướng kháng cáo hơn.
Thứ hai, với sự cơng bằng của quy trình tố tụng, mơ hình tranh tụng thể hiện ở mức độ
cao hơn sự tôn trọng quyền cơ bản của công dân. Vai trò của luật sư giúp giảm đi sự lạm
quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng, quyền được suy đốn vơ tội của người dân được
tơn trọng hơn so với các mơ hình TTHS khá.
Nhược điểm:
4


Thứ nhất, người có nhiệm vụ xét xử tham gia một cách thụ động vào phiên tịa và là
người khơng chun nghiệp, đó chính là thành viên đồn bồi thẩm. Điều này vơ hình
chung gây ra phản tác dụng đối với chính ưu điểm thứ nhất của mơ hình này.
Thứ hai, việc quá đề cao sự đối tụng giữa các lợi ích cá nhân làm cho mơ hình tranh tụng
khơng phản ánh được hết tầm quan trọng của việc bảo vệ lợi ích cơng cộng trong các vụ
án hình sự. Chính điều này dẫn đến việc áp dụng tràn lan hình thức đàm phán nhận tội
dẫn tới khả năng bỏ lọt những tội phạm nghiêm trọng có tác động lớn tới trật tự xã hội
hoặc việc xét xử chúng có tính giáo dục cao.
Thứ ba, trong mơ hình này, năng lực của luật sư có vai trị quyết định tới phán quyết của
đồn bồi thẩm. Điều này dẫn đến tình trạng các luật sư giỏi sẽ được nhiều người muốn
thuê và gây nên bất công cho những người nghèo không có điều kiện để thuê luật sư giỏi,
vốn nổi tiếng là có chi phí cao, điều này gây nên sự bất công cho người nghèo so với
người giàu.

Thứ tư, không kiểm sốt được thời gian xét xử. Trong mơ hình tranh tụng, thẩm phán và
đồn bồi thẩm khơng biết về vụ án từ trước và cũng khơng kiểm sốt một cách toàn diện
đối với thời gian xét xử. Người quyết định thời gian xét xử bao lâu lại chính là các bên
đối tụng, những người thường tận dụng thời gian tối đa tại phiên xét xử để thuyết phục
đoàn bồi thẩm nghe theo lập luận của mình.
Thứ năm, những chứng cứ tuy có giá trị sử dụng cao cho việc xác định sự thật khách
quan nhưng lại có thể bị loại bỏ do vi phạm thủ tục, ví dụ lời khai của các nhân chứng
gián tiếp hay chứng cứ thu thập được nhưng có thủ tục vi phạm quyền cơ bản công dân.
Việc không sử dụng những chứng cứ như vậy có thể dẫn tới khó khăn trong việc đấu
tranh chống một số loại tội phạm, đặc biệt là các tội phạm có tổ chức vốn có cách thức
hoạt động tinh vi, phức tạp.
- Tố tụng hỗn hợp:
Ưu điểm: Loại hình tố tụng hỗn hợp đã có những cải tiến theo hướng dân chủ, tích cực
và được phát triển mạnh mẽ ở nhiều nước thuộc truyền thống luật lục địa như Đức, áo, ý,
5


Bỉ. Thực chất, tố tụng hỗn hợp là loại hình hỗn hợp giữa tố tụng xét hỏi, tố tụng tranh
tụng và cả một chút của tố tụng tố cáo.
Ở giai đoạn xét xử, phiên tịa được tiến hành cơng khai, quyền bình đẳng trước phiên tịa
và quyền bào chữa của người bị buộc tội được đảm bảo, bên buộc tội và bên bị buộc tội
có quyền và nghĩa vụ như nhau trong việc đưa ra các chứng cứ và các u cầu. Lúc này,
tịa án đóng vai trị là người trọng tài bảo đảm cho các bên thực hiện quyền và nghĩa vụ
của mình.
Nhược điểm: Ở giai đoạn trước xét xử, các hoạt động tố tụng phần nhiều được tiến hành
bí mật, hạn chế sự tham gia của những người tham gia tố tụng. Mọi hoạt động đều được
ghi thành văn bản, người bị buộc tội hầu như bị tách khỏi quá trình tố tụng.
Câu 3: Nêu đặc điểm để nhận diện mơ hình TTHS VN hiện nay? VN nên đổi mới
mơ hình TTHS theo hướng nào? Tại sao?
* Đặc điểm nhận diện mơ hình TTHS VN:

- Có 4 kiểu mơ hình TTHS:
Mơ hình TTHS buộc tội (tố cáo).
Mơ hình TTHS xét hỏi.
Mơ hình TTHS tranh tụng.
Mơ hình TTHS pha trộn (hỗn hợp).
- Đặc điểm nhận diện gồm:


Mục tiêu của TTHS: Xác định sự thật khách quan vụ án.



Phương pháp tố tụng sử dụng trong quá trình giải quyết vụ án:

Phương pháp quyền uy: Điều chỉnh quan hệ giữa cơ quan có thẩm quyền THTT với
người TGTT.
Phương pháp phối hợp, chế ước: Điều chỉnh quan hệ giữa cơ quan có thẩm quyền THTT
với nhau.
6




Sự phân chia chức năng tố tụng: Chức năng buộc tội, chức năng bào chữa, chức

năng xét xử phân chia cho các chủ thể khác nhau.


Vị trí, vai trị của các chủ thể tố tụng: Chia các chủ thể quan hệ tố tụng thành cơ


quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng.
=> Các chủ thể độc lập, có hai bên tranh tụng đối trọng nhau là bên buộc tội và bên bào
chữa: tranh tụng.
Phát sinh quan hệ PL TTHS phụ thuộc vào ý chí của nhà nước: xét hỏi.


Cách thức, giai đoạn:

Ở giai đoạn xét xử, phiên tịa được tiến hành cơng khai, quyền bình đẳng trước phiên tịa
và quyền bào chữa của người bị buộc tội được đảm bảo, bên buộc tội và bên bị buộc tội
có quyền và nghĩa vụ như nhau trong việc đưa ra các chứng cứ và các u cầu. Lúc này,
tịa án đóng vai trị là người trọng tài bảo đảm cho các bên thực hiện quyền và nghĩa vụ
của mình.
Gồm các giai đoạn: Khởi tố, điều tra: Cơ quan điều tra
Truy tố: VKS
Xét xử, thi hành án: Tịa án
=> Mơ hình TTHS hiện nay của nước ta là mơ hình pha trộn.
* Định hướng đổi mới mơ hình TTHS VN: Hồn thiện mơ hình pha trộn theo hướng
thiên về tranh tụng .
Mơ hình TTHS pha trộn là cơ sở lý luận về khả năng tiếp nhận và giao thoa giữa các mơ
hình TTHS khác nhau, là tiếp nhận những yếu tố tích cực của các mơ hình nên khơng
phải chuyển đổi mơ hình khác và cần nâng cao tính tranh tụng.
Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm cho thấy tranh tụng chủ yếu xuất hiện
trong xét xử. Cần thiên về tranh tụng trong suốt quá trình tố tụng, xuất hiện chức năng
buộc tội thì song song chức năng bào chữa. Cần mở rộng tối đa tính tranh tụng của phiên
tịa sơ thẩm để lấy lại niềm tin của người dân về công lý, về cơ quan Tịa án. Đó cũng
7


chính là một trong những mục tiêu của cải cách tư pháp đang được tiến hành ở nước ta

hiện nay.
Các bên cần được quyền ngang nhau về khả năng thu thập cứng cứ. Cần tăng cường
những bảo đảm cho tính cơng khai của hoạt động điều tra. Cơ quan có thẩm quyền THTT
được thực hiện hoạt độg tố tụng mang tính quyền lực Nhà nước để thu thập chứng cứ,
cịn người tham gia tố tụng như người bào chữa thì vai trò hạn chế, thực hiện hoạt động
tố tụng nhưng không được hậu thuẫn bằng quyền lực nhà nước nên vai trò trong tranh
tụng hạn chế => Xét hỏi và tranh luận tại phiên tịa phải bảo đảm sự bình đẳng của các
bên và khả năng của các bên trong việc trình bày quan điểm, chứng cứ của mình.
Câu 4: Đánh giá quy định của BLTTHS 2015 về nguyên tắc “Suy đốn vơ tội”.
Thứ nhất, chỉ có Tịa án mới có thẩm quyền phán quyết, xác định một người có tội bằng
bản án kết tội có hiệu lực pháp luật.
Thứ hai, nghĩa vụ chứng minh thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải
tuân thủ nghiêm ngặt trình tự, thủ tục luật định.
Tại Điều 15 Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định về ngyên tắc xác định sự thật vụ
án như sau: “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng.
Người bị buộc tội có quyền nhưng khơng buộc phải chứng minh là mình có tội.”.
Chứng minh tội phạm là một quá trình diễn ra ở cả ba giai đoạn điều tra – truy tố – xét
xử. Ba giai đoạn này độc lập nhưng lại có cơ chế giám sát, chế ước, bổ sung cho nhau
nhằm bảo đảm việc kết tội được chính xác, khơng làm oan người khơng phạm tội
Thứ ba, việc truy tố, xét xử phải tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
Nội dung này nhấn mạnh yêu cầu về mặt thủ tục pháp lý, là dấu hiệu quan trọng nhất của
chế độ pháp quyền, theo đó, thủ tục cơng khai, minh bạch là đòi hỏi số một cho việc bảo
vệ quyền con người chống lại sự truy bức tùy tiện.
Thứ tư, phải đảm bảo xem xét các tình tiết vụ án 1 cách khách quan, đầy đủ.

8


Đảm bảo xem xét vụ án tình tiết vụ án một cách khách quan thì cơ quan điều tra, viện
kiểm sát, tòa án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật vụ án một cách

khách quan, tồn diện khơng bị chi phối bới ý chí của người khác và không xem xét vụ
án một cách phiến diện, đảm bảo xem xét tình tiết vụ án vụ án một cách đầy đủ là bất cứ
vụ án nào cũng phải được chứng minh theo thủ tục đầy đủ theo quy định của luật tố tụng
hình sự.


Suy đốn vô tội là một nguyên tắc tiến bộ. Nguyên tắc này bảo vệ chính sách nhân

đạo của pháp luật hình sự và lợi ích của người bị truy cứu trách nhiệm hình sự là khi cơ
quan tố tụng khơng chứng minh được hành vi phạm tội thì phải suy đốn theo hướng
ngược lại nhằm xác định sự thật vụ án một cách đúng đắn chính xác nhất, từ đó xem xét
bị cáo có tội hay khơng có tội để đưa ra một bản án xét xử đúng người đúng tội.
Ngoài ra, ngun tắc suy đốn vơ tội cũng đặt ra yêu cầu cao hơn cho những người tiến
hành tố tụng trong việc chứng minh tội phạm. Vì vậy, việc bảo đảm ngun tắc suy đốn
vơ tội trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam cần được coi là một trong những nguyên
tắc trụ cột và là một nhu cầu cấp thiết nhằm thực hiện đúng đắn, kịp thời chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về cải cách tư pháp trong điều
kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Câu 5: Phân tích ngun tắc “Khơng ai bị kết án hai lần vì một tội phạm”.
Khơng ai bị kết án hai lần vì một tội phạm là một trong những nguyên tắc mới được quy
định trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 tại điều 14.
Thứ nhất, đây là nguyên tắc mới được bổ sung trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
Nguyên tắc này bắt nguồn từ Điều 14 Cơng ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị
1966 mà Việt Nam đã tham gia: "Không ai bị đưa ra xét xử hoặc bị trừng phạt lần thứ hai
về cùng một tội phạm mà người đó đã bị kết án hoặc đã được tuyên trắng án phù hợp với
pháp luật và thủ tục tố tụng hình sự của mỗi nước".
Nguyên tắc này cũng đã cụ thể hóa Điều 31 Hiến pháp Việt Nam 2013: Không ai bị kết
án hai lần vì một tội.
9



Thứ hai, nguyên tắc này thể hiện tinh thần nhân đạo và bảo vệ quyền con người, quyền
công dân trong tố tụng hình sự. Các cơ quan tiến hành tố tụng không được khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử và kết án đối với một người mà hành vi của người đó đã bị kết án bằng
bản án có hiệu lực pháp luật của tịa án. Trong q trình giải quyết vụ án nếu xác định
được hành vi phạm tội đã bị xử lý bằng quyết định, bản án đã có hiệu lực pháp luật thì
phải đình chỉ vụ án.
Trường hợp xem xét lại tính có căn cứ và hợp pháp của bản án, quyết định của Tòa án có
hiệu lực pháp luật khơng phải là xét xử lần thứ hai đối với hành vi phạm tội mà họ đã
được xét xử, không vi phạm nguyên tắc này. Việc xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm là thủ tục có tính chất tương đối đặc biệt để khắc phục sai lầm trong bản án, quyết
định có hiệu lực pháp luật của Tòa án và đưa ra phương án khắc phục những sai lầm này
không phải xét xử lần nữa với người đã bị kết án.
Câu 6: Phân tích những quy định của BLTTHS 2015 nhằm thực hiện nguyên tắc
“Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội”?
Trên cơ sở quy định tại khoản 4 Điều 131 Hiến pháp năm 2013 thì nguyên tắc Bảo đảm
quyền bào chữa của người bị buộc tội được quy định tại Điều 16 BLTTHS 2015.
* Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa:
- Khi tự bào chữa cho mình, người bị buộc tội sử dụng các quyền mà pháp luật TTHS cho
phép để chứng minh bản thân vô tội, sự thật không đúng như hồ sơ vụ án hay chứng minh
giảm nhẹ TNHS cho mình được quy định từ Điều 58 đến Điều 61 BLTTHS 2015.
- Nếu người bị buộc tội không tự bào chữa thì có thể nhờ luật sư hoặc người khác bào
chữa. Người khác có thể là bào chữa viên nhân dân, người đại diện hợp pháp của người
bị buộc tội, trợ giúp viên pháp lí.
Các quyền cụ thể như:


Được thơng báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;




Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
10




Tự bào chữa, nhờ người bào chữa;



Đề nghị chủ tọa phiên tịa hỏi hoặc tự mình hỏi người tham gia phiên tòa nếu được

chủ tọa đồng ý; tranh luận tại phiên tịa;


Nói lời sau cùng trước khi nghị án;



Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án;

* Nhiệm vụ của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng:
Đảm bảo cho người bị buộc tội thực hiện tốt quyền bào chữa: Cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm:
Thơng báo người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ người bào chữa và giải thích
quyền và nghĩa vụ, bảo đảm cho người bị buộc tội thực hiện đầy đủ quyền bào chữa,
quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của Bộ luật này.
Tạo điều kiện cho người bào chữa tham gia vào giải quyết vụ án và thực hiện quyền,
nghĩa vụ của mình được quy định tại Điều 73 BLTTHHS 2015 nhằm hỗ trợ người bị buộc

tội về pháp lý
* Bào chữa chỉ định:
Để đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của người bị buộc tội trong những trường hợp
do pháp luật quy định: Điều 76 BLTTHS 2015 quy định những trường hợp bắt buộc cơ
quan có thẩm quyền THTT phải chỉ định người bào chữa, yêu cầu hoặc đề nghị Đồn luật
sư phân cơng tổ chức hành nghề luật sư, Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước, Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên mặt trận cử người bào chữa nếu
người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ không mời người bào
chữa:
* Quyền tự bào chữa và quyền nhờ người bào chữa có thể tồn tại song song:

11


Quyền bào chữa của người bị buộc tội bao gồm quyền tự bào chữa và quyền nhờ người
bào chữa. Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa đồng thời vẫn có quyền nhờ người bào
chữa. Trong trường hợp nhờ người bào chữa thì họ vẫn có quyền tự bào chữa.
Câu 7: Trình bày cơ sở của việc ghi nhận nguyên tắc “Tranh tụng trong xét xử được
bảo đảm” trong BLTTHS 2015
* Cơ sở pháp lý:
- Sự thể hiện của vấn đề tranh tụng trong các văn kiện của Đảng là tiền đề và là cơ sở để
tiến tới hoàn thiện hệ thống pháp luật về tố tụng nói chung điển hình là hồn thiện
BLTTHS về ngun tắc tranh tụng.
-Ngun tắc tranh tụng được thừa nhận chính thức trong một văn bản pháp lý của Nhà
nước, tại Khoản 5 Điều 103 Hiến pháp 2013 quy định: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét
xử được bảo đảm”. Đây là định hướng chỉ đạo cho việc tiếp tục quy định nguyên tắc
tranh tụng trong BLTTHS.
- Nguyên tắc tranh tụng được thể hiện tại Điều 26 BLTTHS 2015: Trong quá trình khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bị buộc tội, người bào
chữa và những người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra

chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án tạo
ra cơ sở pháp lý định hướng cho các quy định cụ thể trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015 nhằm đảm bảo cho các bên có điều kiện để tranh tụng hiệu quả.
Quy định kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, những người tham gia tố tụng khác thực
hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình và tranh tụng dân chủ, bình đẳng trước Tịa án thì
Tịa án phải có trách nhiệm “tạo điều kiện”. Để tranh tụng có hiệu quả thì một trong
những điều kiện quan trọng nhất là các bên buộc tội và bên bào chữa phải thật sự bình
đẳng với nhau và Tịa án phải đứng ở vị trí trung gian, độc lập, khách quan, là trọng tài
bảo đảm cho hai bên thực hiện chức năng của mình.
- Điều 13 Luật TCTAND 2014 quy định: Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo
đảm. Tịa án có trách nhiệm bảo đảm cho những người tham gia tố tụng thực hiện quyền
12


tranh tụng trong xét xử. Việc thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử theo quy định
của luật tố tụng.
* Cơ sở lý luận:
-

Thể chế hóa chủ trương cải cách tư pháp của Đảng.

-

Tăng cường tranh tụng trong tố tụng hình sự, nhằm bảo đảm quyền con người,

chống oan sai, nhanh chóng xác định sự thật khách quan của vụ án.
-

Phán quyết Tịa án đúng đắn, khách quan,cơng bằng.


-

Góp phần thay đổi nhận thức, hành vi, nâng cao trình độ người có thẩm quyền

THTT.
II. Nhận định.
Câu 1: Quan hệ pháp luật TTHS chỉ phát sinh khi có quyết định KTVAHS của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền.
Nhận định sai.
Quan hệ pháp luật TTHS phát sinh khơng chỉ khi có quyết định KTVAHS của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền. Ngồi ra, cịn phát sinh khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng ra quyết định tố tụng hoặc thực hiện hành vi tố tụng theo quy định pháp luật TTHS.
VD: : Quan hệ pháp luật TTHS phát sinh khi cơ quan có thẩm quyền THTT ra quyết định
tạm giữ người là phát sinh quan hệ giữa người bị tạm giữ với cơ quan có thẩm quyền
THTT.
Quan hệ pháp luật TTHS phát sinh khi cơ quan có thẩm quyền THTT thực hiện hành vi
bắt người phạm tội quả tang là phát sinh quan hệ giữa người bị bắt với cơ quan có thẩm
quyền THTT.
Câu 2: Quan hệ pháp luật TTHS xuất hiện sau và trên cơ sở pháp luật hình sự.
Nhận định sai.

13


Quan hệ pháp luật tố tụng hình sự liên quan mật thiết với quan hệ pháp luật hình sự. Khi
một người thực hiện hành vi phạm tội thì xuất hiện quan hệ pháp luật hình sự giữa người
đó với Nhà nước.
Sự tồn tại của quan hệ pháp luật tố tụng hình sự khơng phải là cơ sở khẳng định sự tồn tại
của quan hệ pháp Luật hình sự. Để xác định có tồn tại QHPL hình sự hay khơng thì phải
phát sinh quan hệ PLTTHS

Quan hệ pháp luật tố tụng hình sự phát sinh từ khi cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện
các hoạt động tố tụng hình sự như thực hiện các hoạt động điều tra (khám nghiệm tử thi,
khám nghiệm hiện trường, trưng cầu giám định, yêu cầu định giá,…). Căn cứ theo quy
định tại khoản 3 Điều 147 BLTTHS 2015 thì các hoạt động điều tra này có thể được thực
hiện ở giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm (trước khi quyết định khởi tố vụ án hình
sự). Do đó, Quan hệ pháp luật tố tụng hình sự có thể xuất hiện trước khi có quyết định
khởi tố vụ án hình sự.
Câu 3: Quan hệ giữa người bào chữa và người bị buộc tội thuộc đối tượng điều
chỉnh của luật TTHS.
Nhận định sai.
Đối tượng điều chỉnh của luật TTHS là những quan hệ xã hội phát sinh thay đổi hoặc
chấm dứt trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Bao gồm: Quan hệ giữa cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng với người tham gia
tố tụng hay quan hệ giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng với nhau.
Căn cứ Điểm đ Khoản 1 Điều 4 thì người bị buộc tội gồm người bị bắt, người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo. Căn cứ Khoản 4,5,6,7, 17 Điều 55 BLTTHS 2015 thì người bào chữa và
người bị buộc tội là người tham gia tố tụng. Quan hệ giữa người bào chữa và người bị
buộc tội là quan hệ giữa người tham gia tố tụng với nhau, khơng thuộc hai nhóm quan hệ
trên nên không thuộc đối tượng điều chỉnh của luật TTHS.
CSPL: Điểm đ Khoản 1 Điều 4, Khoản 4,5,6,7, 17 Điều 55 BLTTHS 2015.
Câu 4: Quan hệ giữa CQĐT và nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự là quan hệ
pháp luật TTHS.
14


Nhận định đúng.
CSPL: Điểm a Khoản 1 Điều 4, Điểm a Khoản 1 Điều 34, Khoản 9 Điều 55 BLTTHS
2015.
Vì thành phần quan hệ pháp luật TTHS gồm cơ quan có thẩm quyền THTT, người có
thẩm quyền THTT, người tham gia tố tụng và các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác theo

quy định pháp luật. Trong đó cơ quan điều tra là cơ quan THTT là cơ quan có thẩm quyền
THTT, nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự là người tham gia tố tụng. Như vậy giữa
cơ quan điều tra và nguyên đơn dân sự trong VAHS đã phát sinh quan hệ pháp luật
TTHS.
Câu 5: QHPL mang tính quyền lực nhà nước là QHPL tố tụng hình sự.
Nhận định sai.
Quan hệ pháp luật tố tụng hình sự thỏa các điều kiện về chủ thể: người THHT, CQ THTT,
người tham gia tố tụng và các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác theo quy định pháp luật;
khách thể: lợi ích nhất định mà các bên tham gia quan hệ hướng tới; đối tượng điều chỉnh
QH TTHS.
QHPL mang tính quyền lực nhà nước cịn có thể là QHPL khác ví dụ như QHPL TTHC,
QHPLHS đều có sự tham qua CQNN, được đảm bảo thực hiện bằng tính quyền lực nhà
nước.
Câu 6: Phương pháp phối hợp – chế ước chỉ điều chỉnh các mối quan hệ giữa cá cơ
quan THTT.
Nhận định sai.
Vì phương pháp phối hợp- chế ước điều chỉnh mối quan hệ giữa các cơ quan có thẩm
quyền THTT với nhau. Mà căn cứ Điểm a Khoản 1 Điều 4 BLTTHS 2015 thì CQ có
thẩm quyền THTT gồm CQ THTT và CQ được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra.
CSPL: Điểm a Khoản 1 Điều 4, Khoản 1 Điều 35 BLTTHS 2015.
15


Câu 7: Quan hệ giữa điều tra viên với người bào chữa được điều chỉnh bởi phương
pháp quyền uy.
Nhận định đúng.
- Theo quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều 34 và Điểm b Khoản 1 Điều 4BLTTHS 2015
thì điều tra viên là người tiến hành tố tụng nên là người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
- Theo quy định tại Khoản 17 Điều 55 BLTTHS 2015 thì người bào chữa là người tham

gia tố tụng.
Theo đó phương pháp quyền uy điều chỉnh quan hệ giữa người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng với người tham gia tố tụng phát sinh, thay đổi, chấm dứt trong quá trình giải
quyết vụ án.Tức cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng sẽ được ra các
lệnh, quyết định và bản án có giá trị bắt buộc, các biện pháp cưỡng chế nhà nước với
người tham gia tố tụng.
CSPL:
+ Điểm b khoản 1 Điều 4, Điểm a Khoản 2 Điều 34 BLTTHS 2015.
+ Khoản 17 Điều 55 BLTTHS 2015.
Câu 8: Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án chỉ được quy định trong pháp luật
TTHS.
Nhận định đúng.
Vì xác định sự thật của vụ án chính là việc cơ quan tiến hành tố tụng phải làm rõ những
chứng cứ xác định có tội, vơ tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ. Do vậy
để đảm bảo việc xử lý vụ án được công minh, không để lọt tội phạm, trừng phạt thích
đáng những người có hành vi phạm tội đồng thời khơng làm oan người vơ tội thì việc
xác định sự thật của vụ án là một trong những điều kiện tiên quyết. Đây là nguyên tắc
xuyên suốt, là nội dung và bản chất và mục đích hoạt động TTHS.
-Đối với TTDS và TTHC thì mục đích nhằm bảo vệ quyền, lợi ich hợp pháp của chủ thể.
16


Câu 9: Nguyên tắc xét xử công khai được áp dụng cho tất cả phiên tịa hình sự.
Nhận định sai.
Căn cứ Điều 25 BLTTHS 2015 thì trường hợp ngoại lệ sau bộ luật quy định thì Tịa án có
thể xét xử kín và phải tun án cơng khai: Trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước,
thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người dưới 18 tuổi hoặc để giữ bí mật đời tư
theo yêu cầu chính đáng của đương sự.
Quy định này phù hợp nhằm bảo đảm những bí mật nhà nước, lợi ích của đương sự, thể

hiện sự tôn trọng của pháp luật đối với bí mật đời tư, nhân phẩm, danh dự của đương sự
trong vụ án.
Câu 10: Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm chỉ có trong Luật TTHS.
Nhận định sai.
Nguyên tắc này là dựa trên nền tảng nguyên tắc quy định tại khoản 5 Điều 103 Hiến pháp
năm 2013 đã ghi nhận: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”.
Hiến pháp là đạo luật gốc, văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất. Do vậy, khi Hiến pháp
quy định về nguyên tắc bảo đảm tranh tụng thì những quy định trong bộ luật, luật, các
văn bản dưới luật chưa rõ ràng, không thống nhất phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, tạo
sự thống nhất trong việc vận dụng pháp luật, đặc biệt đòi hỏi cần xây dựng quy định cụ
thể về phương thức bảo đảm ngun tắc tranh tụng trong xét xử.
Ngồi ra, cịn được quy định tại Điều 13 Luật TCTAND 2014. Tòa án có trách nhiệm bảo
đảm cho những người tham gia tố tụng thực hiện quyền tranh tụng trong xét xử.
Như vậy, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm khơng chỉ có trong Luật
TTHS mà nó cịn có trong Hiến pháp, Luật TCTAND 2014.
Câu 11: Kết quả kiểm tra đánh giá chứng cứ tại phiên toà là căn cứ duy nhất để toà
án đưa ra bản án quyết định.
Nhận định sai.

17


Vì căn cứ theo Điều 26 BLTTHS ngồi kết quả kiểm tra đánh giá chứng cứ tại phiên tồ
thì kết quả tranh tụng tại phiên toà cũng là căn cứ để tồ án đưa ra bản án quyết định. Vì
BLTTHS đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm để các chủ thể đều
có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu trong
quá trình tranh tụng.
CSPL: Điều 26 BLTTHS.
Câu 12: Người THTT và người TGTT có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân
tộc mình.

Nhận định sai.
Căn cứ theo Điều 29 BLTTHS 2015: “ Tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng hình sự
là tiếng Việt. Người tham gia tố tụng có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc
mình, trường hợp này phải có phiên dịch.”
Theo đó chỉ có người tham gia tố tụng có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc
mình. Cịn người THTT bắt buộc dùng tiếng Việt. Vì áp dụng BLTTHS trên lãnh thổ Việt
Nam, căn cứ theo quy định pháp luật VN. Quy định này tạo điều kiện cho người tham gia
tố tụng hình sự khả năng tích cực tham gia vào việc xem xét, giải quyết vụ án để thực
hiện các nghĩa vụ của mình. Các cơng dân được dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc
mình trước các cơ quan tiến hành tố tụng thì dễ dàng tiến hành những tình tiết, sự việc
của vụ án, có khả năng sử dụng tất cả các phương tiện để tự bào chữa. Đó cũng là một
trong những điều kiện để Toà án xác định chân lý khách quan về vụ án, của việc ra quyết
định hợp pháp và có căn cứ, đồng thời có ý nghĩa giáo dục và phòng ngừa rất lớn đối với
mọi người tham gia phiên toà xét xử.
III. Bài tập.
Bài tập 1: Trong lúc đang trộm cấp tài sản của D, A bị B phát hiện và đuổi theo nhưng
không bắt được. Một thời gian sau, B tình cờ biết được A đang cư trú tại phường X nên
đã tố giác với cơ quan công an nơi đây. Công an phường X tiến hành kiểm tra, xác minh
sơ bộ và chuyển hồ sơ cho CQĐT công an quận. Vụ án được khởi tố, Điều tra viên N
18


người được phân công trực tiếp tiến hành các hoạt động điều tra dưới sự kiểm sát của
Kiểm sát viên M. Vì A là người chưa thành niên nên được chỉ định luật sự C làm người
bảo chữa. CQĐT nhận thấy A có nhiều tình tiết giảm nhẹ, phạm tội ít nghiệm trọng, đã tự
nguyện khắc phục hậu quả, nên quyết định miễn TNHS và áp dụng biên pháp hòa giải tại
cộng đồng. Điều tra viên N được phân công chủ trì việc hịa giải giữa bị can A, cha mẹ A
và bị hại D. Trong biên bản hòa giải, các bên đã thỏa thuân về vấn đề bồi thường thiệt
hại, bị can A xin lỗi người bị hại D.
Câu 1: Xác định tất cả QHXH giữa các chủ thể trong vụ án trên thuộc đối tượng

điều chỉnh của TTHS?
-

Cơ quan công an phường X là cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt

động điều tra theo điểm e Khoản 1 Điều 35 BLTTHS 2015.
-

Cơ quan điều tra công an quận là cơ quan tiến hành tố tụng theo điểm a Khoản 1

Điều 34 BLTTHS 2015.
-

Điều tra viên N và kiểm sát viên M là người tiến hành tố tụng theo quy định tại

điểm a, b Khoản 2 Điều 34 BLTTHS 2015.
-

B là người báo tin về tội phạm nên theo khoản 1 Điều 55 BLTTHS B là người

tham gia tố tụng.
-

A là người bị buộc tội thì có thể là người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo

nên theo Điểm đ Khoản 1 Điều 4, Khoản 4,5,6,7 Điều 55 thì A là người tham gia tố tụng
-

B là bị hại nên theo quy định tại khoản 8 Điều 55 BLTTHS B cũng là người tham


gia tố tụng.
-

Luật sư C là người bào chữa nên theo quy định tại Khoản 17 Điều 55 BLTTHS

2015 Luật sư C là người tham gia tố tụng.
Đối tượng điều chỉnh của luật TTHS là những quan hệ phát sinh thay đổi hoặc chấm dứt
trong quá trình giải quyết vụ án gồm quan hệ giữa cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng với người tham gia tố tụng hay quan hệ giữa
các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng với nhau nên chỉ các quan hệ sau đây thuộc
đối tượng điều chỉnh của TTHS:
19


- QHXH giữa cơ quan có thẩm quyền tiến hành điều tra, người có thẩm quyền tiến hành
điêu tra với người tham gia tố tụng gồm:
+ QHXH giữa cơ quan công an phường X và B.
+ QHXH giữa điều tra viên N và A, B, cha mẹ A
+ QHXH giữa CQĐT với A, B
+ QHXH giữa CQĐT với luật sư C.
QHXH giữa Cơ quan điều tra công an quận và VKS.
- QHXH giữa cơ quan có thẩm quyền tiến hành điều tra, người có thẩ quyền tiến hành
điêu tra với nhau gồm:
+ QHXH giữa cơ quan công an phường X và cơ quan điều tra công an quận.
+ QHXH giữa điều tra viên N và kiểm sát viên M.
Câu 2: Xác định phương pháp điều chỉnh của luật TTHS đối với từng QHXH?
* Phương pháp điều chính quyền uy: Quan hệ giữa cơ quan tiến hành tố tụng, người có
thẩm quyền THTT với những người tham gia tố tụng. Các quyết định của cơ quan tiến
hành tố tụng, người có thẩm quyền THTT có giá trị bắt buộc với những người tham gia tố
tụng.

+ QHXH giữa cơ quan công an phường X và B.
+ QHXH giữa điều tra viên N và A, B, cha mẹ A
+ QHXH giữa CQĐT với A, B
+ QHXH giữa CQĐT với luật sư C.
+ QHXH giữa Cơ quan điều tra công an quận và VKS.
* Phương pháp phối hợp – chế ước điều chỉnh mối quan hệ giữa các CQ THTT, người có
thẩm quyền THTT có nhiệm vụ phối hợp với nhau tiến hành các hoạt động của mình theo
quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Cơ quan cơng an X và cơ quan cơng an quận có sự phối hợp với nhau cùng giải quyết vụ
án, điều tra viên N và kiểm sát viên M vừa phối hợp vừa giám sát kiểm tra.

20


Bài tập 2: A (là người nước ngoài) bị CQĐT tỉnh X khởi tố vụ án và khởi tố bị can về tội
trộm cắp tài sản. Trong quá trình tố tụng, A nhờ luật sư B bào chữa cho mình. Vì A khơng
sử dụng được tiếng Việt nên cơ quan có thẩm quyển đã nhờ C phiên địch cho A. Sau khi
kết thúc giai đoạn điều tra, CQĐT đã làm bản kết luận điều tra và đề nghị VKS truy tố A
về tội trộm cắp tài sản. VKS đã làm bản cáo trạng để truy tố A về tội danh trên. Sau đó
Tịa án tiến hành xét xử sơ thẩm và tuyên phạt A 05 năm tù.
Câu 1: Trong quá trình giải quyết vụ án có thể phát sinh quan hệ giữa những chủ
thể nào?
Căn cứ theo Điều 34 và Điều 55 BLTTHS 2015 thì:
- Trong quá trình giải quyết vụ án đã phát sinh quan hệ giữa cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng và người tham gia tố tụng hình sự. Đó là quan hệ giữa A (bị can) với cơ
quan điều tra, A với Viện kiểm sát.
+ A bị CQĐT tỉnh X khởi tố vụ án và khởi tố bị can về tội trộm cắp tài sản => Quan hệ
giữa bị can A với CQĐT.
+ VKS đã làm bản cáo trạng để truy tố A về tội danh trên => Quan hệ giữa bị can A với
VKS.

- Quan hệ giữa những người tham gia tố tụng hình sự: A với B (luật sư bào chữa), A với
C (người phiên dịch cho A).
+ A nhờ luật sư bào chữa cho mình.
+ A khơng sử dụng được Tiếng Việt nên CQĐT đã nhờ C phiên dịch cho A.
- Quan hệ giữa cơ quan tiến hành tố tụng với nhau đó là cơ quan điều tra với Viện kiểm
sát.
+ Qua quá trình điều tra, CQĐT đã làm bản kết luận điều tra và đề nghị VKS truy tố A về
tội trộm cắp tài sản.
+ Tòa án tiến hành xét xử và ra bản án: Quan hệ giữa Toà án với VKS
Quan hệ giữa Tòa án với A
21


Câu 2: Trong những quan hệ đó, quan hệ nào thuộc đối tượng điều chỉnh của luật
TTHS?
A là bị can nên theo Khoản 6 Điều 55 BLTTHS là người TGTT.
Cơ quan điều tra, VKS , Tòa án: Căn cứ Điểm a, b, c Khoán Điều 34 BLTTHS là
CQTHTT.
Luật sư B là người bào chữa nên theo quy định tại Khoản 17 Điều 55 BLTTHS 2015.
Luật sư C là người tham gia tố tụng.
C là người phiên dịch nên theo Khoản 16 Điều 55 BLTTHS là người TGTT.
* Trong các quan hệ trên đã phát sinh 2 nhóm quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của
luật TTHS đó là:
- Quan hệ giữa cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng với người tham gia tố tụng:
+ Quan hệ giữa A với cơ quan điều tra tỉnh X; với VKS; với Tòa án;
+ Quan hệ giữa B với cơ quan điều tra tỉnh X; với VKS; với Tòa án;
+ Quan hệ giữa C với cơ quan điều tra tỉnh X; với VKS; với Tòa án;
- Quan hệ giữa các cơ quan có thẩm quyền tố tụng với nhau:
+ Quan hệ giữa cơ quan điều tra với VKS
+ Quan hệ giữa Toà án với VKS

Câu 3: Xác định phương pháp điều chỉnh đối với từng quan hệ thuộc đối tượng
chỉnh của luật TTHS?
* Phương pháp quyền uy:
+ Quan hệ giữa A với cơ quan điều tra tỉnh X; với VKS; với Tòa án;
+ Quan hệ giữa B với cơ quan điều tra tỉnh X; với VKS; với Tòa án;
+ Quan hệ giữa C với cơ quan điều tra tỉnh X; với VKS; với Tòa
* Phương pháp phối hợp – chế ước.
+ Quan hệ giữa cơ quan điều tra với VKS
22


+ Quan hệ giữa Toà án với VKS
Bài tập 3: A sinh năm 1976, cư trú tại huyện X, tỉnh Y, là người Hoa gốc Việt (trình độ
văn hóa lớp 1/10), có hành vi mua bán 1,75kg ma túy, bị công an phát hiện và bắt quả
tang. Tại bản án hình sự sơ thẩm, TAND tỉnh Y tuyên A tử hình về tội mua bán trái phén
chất ma túy.
Câu 1: Giả sử A là người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam và thuộc đối
tượng được hưởng các đặc quyền ngoại giao hoặc quyền ưu đãi, miễn trừ về lãnh sự
theo pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên thì vụ án
được giải quyết như thế nào?
Căn cứ theo khoản 2 Điều 5 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và căn cứ theo
khoản 2 Điều 3 BLTTDS 2015 thì A phạm tội đặc biệt nghiêm trọng nhưng A lại thuộc
đối tượng được hưởng các đặc quyền ngoại giao hoặc quyền ưu đãi, miễn trừ về lãnh sự
theo pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên nên vấn đề trách
nhiệm hình sự của họ được giải quyết theo quy định của điều ước quốc tế hoặc theo tập
quán quốc tế đó. Trường hợp điều ước quốc tế đó khơng quy định hoặc khơng có tập
qn quốc tế, thì trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết bằng con đường ngoại giao.
Câu 2: Nếu A không sử dụng thông thạo Tiếng Việt và đề nghị có người phiên dịch
cho mình thì u cầu này có được chấp nhận không?
Căn cứ theo Điều 70 BLTTHS 2015: “Người phiên dịch, người dịch thuật là người có khả

năng phiên dịch, dịch thuật và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng yêu cầu
trong trường hợp có người tham gia tố tụng không sử dụng được tiếng Việt hoặc có tài
liệu tố tụng khơng thể hiện bằng tiếng Việt.”
Như vậy chỉ có CQTHTT mới có quyền yêu cầu người phiên dịch tham gia tố tụng, A đề
nghị có người phiên dịch cho mình sẽ được CQTHTT quyết định u cầu được chấp nhận
hay khơng. Cịn A tự đề nghị thì khơng được chấp nhận.
Câu 3: Giả sử A khơng có khả năng nhờ luật sư bào chưa thì CQTHTT sẽ giải quyết
như thế nào?
23


A sinh năm 1976 nên A là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và độ tuổi theo
luật định, nhưng hình phạt đối với hành vi của A thực hiện là tử hình, đây là khung hình
phạt cao nhất mà bộ luật hình sự quy định. Do vậy theo điểm a Khoản 1 Điều 76
BLTTHS 2015 nếu A khơng có khả năng nhờ luật sư bào chữa thì CQTHTT phải chỉ định
người bào chữa cho A.

24



×