Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

(Luận văn thạc sĩ) tái thẩm trong tố tụng dân sự việt nam chuyên ngành luật dân sự và tố tụng dân sự 60380103

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (692.81 KB, 109 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

MAI HỒNG ANH

TÁI THẨM TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

MAI HỒNG ANH

TÁI THẨM TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số

: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Ngọc Khánh

Hà nội - 2017


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Mai Hồng Anh


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÁI THẨM

7

TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ


1.1.

Khái niệm tái thẩm dân sự

7

1.2.

Đặc điểm của tái thẩm

9

1.3.

Ý nghĩa của tái thẩm trong tố tụng dân sự

14

1.3.1. Ý nghĩa pháp lý của tái thẩm

14

1.3.2. Ý nghĩa chính trị của tái thẩm

15

1.3.3. Ý nghĩa xã hội của tái thẩm

16


1.4.

Sự hình thành và phát triển của các quy định về tái thẩm

17

trong pháp luật Việt Nam
1.4.1. Sự hình thành và phát triển của tái thẩm trong Luật tổ chức

17

Tịa án nhân dân
1.4.2. Sự hình thành và phát triển của những quy định về tái thẩm

21

trong các văn bản quy phạm pháp luật khác
1.5.

Tái thẩm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự một số

27

nước trên thế giới
1.5.1. Liên bang Nga

28

1.5.2. Cộng hòa Pháp


29

Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN

30

SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ TÁI THẨM

2.1.

Tính chất của tái thẩm

30

2.2.

Kháng nghị theo thủ tục tái thẩm dân sự

31


2.2.1. Căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm

31

2.2.2. Người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm

41


2.2.3. Đối tượng kháng nghị theo thủ tục tái thẩm

47

2.2.4. Thời hạn kháng nghị, thay đổi, bổ sung và rút kháng nghị

49

theo thủ tục tái thẩm
2.2.5. Hình thức kháng nghị và gửi quyết định kháng nghị
2.3.

Xét xử tái thẩm

51
52

2.3.1. Thẩm quyền tái thẩm

52

2.3.2. Hội đồng tái thẩm

55

2.3.3. Những người tham gia phiên tòa tái thẩm

57

2.3.4. Chuẩn bị phiên tòa tái thẩm


59

2.3.5. Thủ tục tiến hành phiên tòa tái thẩm

60

2.3.6. Phạm vi xét xử tái thẩm

62

2.3.7. Thẩm quyền của Hội đồng tái thẩm

63

2.3.8. Quyết định tái thẩm

65

Chương 3: THỰC TIỄN THI HÀNH VÀ KIẾN NGHỊ

67

NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ TÁI THẨM
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

3.1.

Thực tiễn thi hành quy định của pháp luật tố tụng dân sự


67

Việt Nam về tái thẩm
3.1.1. Công tác giải quyết đơn đề nghị xem xét lại bản án, quyết

68

định của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục tái thẩm
3.1.2. Công tác kháng nghị theo thủ tục tái thẩm

73

3.1.3. Thực tiễn hoạt động xét xử tái thẩm

82

3.2.

Kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả tái thẩm trong tố tụng

84

dân sự Việt Nam
3.2.1. Một số kiến nghị về lập pháp

84

3.2.2. Một số kiến nghị về thực hiện chế định tái thẩm

92


KẾT LUẬN

98

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

100


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLTTDS

: Bộ luật tố tụng dân sự

HĐTP

: Hội đồng thẩm phán

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

VKS


: Viện kiểm sát

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

: Viện kiểm sát nhân dân tối cao


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Một bản án được xét xử nghiêm minh, công bằng, đúng pháp luật là
trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng và cũng là mong muốn của cá
nhân, cơ quan, tổ chức khi quyền và lợi ích hợp pháp của họ được bảo vệ một
cách kịp thời và đúng đắn. Tuy nhiên, trên thực tế có tình trạng một số bản án,
quyết định dân sự của Tòa án đã có hiệu lực nhưng vẫn bị phát hiện là có
thiếu sót hoặc sai lầm vì những ngun nhân khác nhau. Khi đó, những bản
án, quyết định kể trên cần phải được xem xét và sửa chữa theo một thủ tục
đặc biệt do pháp luật tố tụng quy định. Việc xét lại bản án , quyết định đã có
hiệu lực khơng chỉ là u cầu đặt ra của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
mà còn là sự thể hiện của nguyên tắc công bằng xã hội

trong hoạt động xét

xử, đảm bảo cho tất cả các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật tuyệt đối khơng được trái pháp luật.
Tái thẩm là một trong hai phương thức xét lại bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật, được quy định thành một chương (chương 19) trong Bô ̣

luâ ̣t tố tu ̣ng dân sự năm 2004 và được sửa đổi, bổ sung năm 2011 theo Luật số
65/2011/QH12, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2012. Trong
thời gian qua, thực tiễn áp dụng thủ tục tái thẩm dân sự đã gặp phải không ít
những vướng mắc, bất cập. Tình hình khiếu nại bản án, quyết định dân sự đã
có hiệu lực pháp luật của người dân đang tăng. Công tác giải quyết đơn khiếu
nại của Toà án các cấp cũng gặp nhiều vấn đề phức tạp, quá tải; nhiều vụ án
kéo dài nên chưa đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân và gây bức xúc
trong dư luận. Nhiều quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về thủ tục tái thẩm
đã bộc lộ những hạn chế, bất cập cần tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện.
Ngày 25 tháng 11 năm 2015, Quốc hội thông qua Bộ luật tố tụng dân sự

1


mới thay thế Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (đã được sửa đổi, bổ sung năm
2011), nhằm thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách tư
pháp, cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức Tòa án
nhân dân năm 2014 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014; bảo
đảm tính đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật. Thủ tục tái thẩm được
quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 trên cơ sở kế thừa các quy định
của Bộ luật tố tụng dân sự và các văn bản hướng dẫn hiện hành; đồng thời,
sửa đổi, bổ sung quy định nhằm khắc phục khó khăn, vướng mắc trong thực
tiễn. Tuy nhiên Bộ luật tố tụng dân sự mới vẫn chưa giải quyết được triệt để.
Tuy thủ tục tái thẩm trong Bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung và
hồn thiện thêm một bước những vẫn cịn nhiều vấn đề pháp lý liên quan đến
thủ tục này chưa được làm rõ như: Căn cứ kháng nghị tái thẩm, địa vị pháp lý
của người tham gia tố tụng trong thủ tục tái thẩm, thời hạn kháng nghị tái
thẩm, phạm vi xét xử tái thẩm, những vấn đề liên quan đến công tác nghiên
cứu, giải quyết đơn khiếu nại của đương sự đề nghị kháng nghị theo thủ tục
tái thẩm... Vì vậy, vẫn cần phải tiếp tục nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý

luận và thực tiễn của tái thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam để từ đó có
những đề xuất thiết thực, cụ thể nhằm hồn thiện các quy định của pháp luật
về tái thẩm và nâng cao hiệu quả cơng tác tái thẩm của Tịa án, Viện kiểm sát.
Vì những lý do trên, học viên đã chọn đề tài "Tái thẩm trong tố tụng
dân sự Việt Nam" làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến đề tài “Tái thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam”, hiện tại
trong khoa học luật tố tụng dân sự chưa có một cơng trình nghiên cứu khoa
học riêng biệt và chuyên sâu về vấn đề này. Tuy nhiên, có một số cơng trình
nghiên cứu về “Thủ tục xét lại bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp
luật”, “Thủ tục giám đốc thẩm dân sự” có nhiều nét tương đồng với đề tài,

2


chúng ta có thể kể đến:
Luận văn thạc sĩ luật học: "Thủ tục xét lại bản án, quyết định dân sự đã
có hiệu lực pháp luật theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam", của Ngô Anh
Dũng, bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội, 1996; luận án tiến sĩ luật học:
"Thủ tục xét lại bản án, quyết định của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật trong
tố tụng kinh tế, dân sự ở Việt Nam", của Đào Xuân Tiến, bảo vệ tại Viện Nhà
nước và Pháp luật, 2009; luận án tiến sĩ luật học: "Giám đốc thẩm trong tố
tụng dân sự Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn", của Mai Ngọc
Dương, bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội, 2010; ...
Đề tài khoa học cấp bộ của Viện khoa học kiểm sát - Viện kiểm sát nhân
dân tối cao: “Thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam” do Tiến
sĩ Trần Văn Trung làm chủ nhiệm đề tài, 2003; đề tài khoa học cấp Bộ năm
2012 "Thực trạng giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm tại Tòa án
nhân dân tối cao" của TANDTC, do tiến sĩ Nguyễn Huy Du làm chủ nhiệm
đề tài ...

Một số chuyên đề, bài viết của các tác giả đăng trong các sách, báo, tạp
chí chuyên ngành như: "Chế định giám đốc thẩm, tái thẩm và những vấn đề
đặt ra trong việc thi hành", của Trần Anh Tuấn, Tạp chí Luật học, số Đặc san
về tố tụng dân sự năm 2005; "Bàn về Dự thảo Thông tư liên tịch hướng dẫn
Điều 284B Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2011", của Nguyễn
Hồng Nam, Tạp chí TAND, tháng 5, 2012 (kỳ 2) và tháng 6, 2012 (kỳ 1);
chuyên đề "Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự và thủ tục xem xét lại các
quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao", của Trần Anh
Tuấn, trong cuốn Bình luận khoa học BLTTDS sửa đổi năm 2011...
Các cơng trình nghiên cứu trên chỉ nghiên cứu một cách tổng thể về thủ
tục xét lại bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật hoặc tập trung
nghiên cứu về thủ tục giám đốc thẩm mà chưa tập trung nghiên cứu thủ tục tái

3


thẩm trong tố tụng dân sự. Cho đến nay, sau khi Hiến pháp năm 2013, Luật tổ
chức Tòa án nhân dân năm 2014, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
2014 có hiệu lực thi hành, nhất là khi Quốc hội đã thông qua Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015, chưa có cơng trình khoa học nào nghiên cứu một cách đầy
đủ, toàn diện các vấn đề lý luận và thực tiễn về tái thẩm trong tố tụng dân sự
Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nhằm làm rõ những vấn đề lý luận
và thực tiễn về tái thẩm trong tố tụng dân sự, từ đó, phân tích các điểm chưa
hợp lý trong quy định của pháp luật và đưa ra những giải pháp khắc phục
nhằm hạn chế những vướng mắc trong thực tiễn tái thẩm, nâng cao hiệu quả
tái thẩm.
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu trên, luận văn tập trung giải
quyết những vấn đề cụ thể sau:

- Làm rõ một số vấn đề lý luận về tái thẩm trong tố tụng dân sự như:
Khái niệm, đặc điểm pháp lý, ý nghĩa, quá trình hình thành và phát triển của
pháp luật Việt Nam về tái thẩm dân sự.
- Phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam
về tái thẩm.
- Phản ánh thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam về tái thẩm trong phạm vi từ khi Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004
(được sửa đổi, bổ sung năm 2011) có hiệu lực đến trước khi Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành (trước ngày 01/7/2016).
- Tìm hiểu nguyên nhân của những hạn chế trong việc quy định và thi
hành quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về tái thẩm, từ đó đưa
ra các giải pháp cụ thể để nâng cao hiệu quả tái thẩm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài

4


Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận chung về tái
thẩm trong tố tụng dân sự; pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về tái thẩm;
thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về tái thẩm ở Việt
Nam.
Tuy nhiên, trong khuôn khổ phạm vi luận văn thạc sĩ việc nghiên cứu đề
tài chỉ tập trung vào một số vấn đề sau:
- Về mặt lý luận, luận văn nghiên cứu khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và
quá trình phát triển của các quy định về tái thẩm dân sự ở Việt Nam.
- Đối với pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về tái thẩm, luận văn chủ
yếu tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành về tái thẩm được
quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011),
trong đó phân tích và so sánh những điểm tương đồng, những điểm khác biệt
với giám đốc thẩm dân sự, đồng thời phân tích những điểm mới, những quy

định được sửa đổi, bổ sung về tái thẩm dân sự trong Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2015.
- Việc khảo sát thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng
dân sự Việt Nam về tái thẩm chủ yếu thực hiện tại Tòa án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao; các Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân
cấp tỉnh và trong những năm gần đây (trước khi Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015 có hiệu lực thi hành).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về
Nhà nước và pháp luật, về cải cách tư pháp nhằm nâng cao hiệu quả cơng tác
xét xử nói chung và xét xử các vụ án dân sự nói riêng. Trên cơ sở đó, luận văn
sử dụng các biện pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp phân tích,
phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phương

5


pháp lịch sử, phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn… để nghiên cứu vấn
đề này.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu hệ thống, tồn diện các vấn đề về tái
thẩm trong tố tụng dân sự. Làm rõ thêm những vấn đề lý luận về tái thẩm dân
sự; đánh giá đúng thực trạng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt
Nam hiện hành về tái thẩm. So sánh, phân tích, đánh giá những điểm mới,
điểm sửa đổi, bổ sung về tái thẩm dân sự được quy định trong Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2015.
Luận văn cũng giúp người đọc hình dung được thực tiễn cơng tác tái
thẩm của ngành Toà án, Viện kiểm sát trong những năm qua, những mặt còn
tồn tại, nguyên nhân và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
công tác tái thẩm.

Đề xuất một số kiến nghị xây dựng và thực hiện pháp luật tố tụng dân sự
về tái thẩm, góp phần quan trọng vào việc hồn thiện các quy định pháp luật
về tái thẩm, xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành các quy định của pháp
luật tố tụng dân sự về tái thẩm trong thực tiễn áp dụng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tái thẩm trong tố tụng dân sự.
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về
tái thẩm.
Chương 3: Thực tiễn thi hành và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả tái
thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam.

6


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÁI THẨM
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Khái niệm tái thẩm dân sự
Theo pháp luật Việt Nam, thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật được tiến hành theo hai loại thủ tục, đó là thủ tục giám đốc thẩm
và thủ tục tái thẩm. Thủ tục tái thẩm được quy định khá sớm và ln được
hồn thiện cho phù hợp với điều kiện tổ chức của các cơ quan tư pháp nói
chung và Tồ án nói riêng, phù hợp với trình độ quản lý của Nhà nước và ý
thức pháp luật của người dân, phù hợp với thông lệ quốc tế. Các quy định này
đã tạo điều kiện thuận lợi cho Toà án và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
trong việc giải quyết các tranh chấp theo thủ tục tái thẩm, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.
Theo Từ điển Tiếng Việt do giáo sư Hoàng Phê chủ biên và xuất bản

năm 1992 có đưa ra khái niệm: “Tái thẩm là xét lại một bản án đã xử” [44].
Theo khái niệm này thì tái thẩm được hiểu như một hoạt động của chủ thể, đó
là Tồ án. Hoạt động này là hoạt động xét lại một bản án đã xử. Thủ tục phúc
thẩm cũng là xét lại một bản án đã xử, và thủ tục giám đốc thẩm cũng là việc
xét lại một bản án đã xử. Nên khái niệm như trên chưa giúp người đọc thấy
được bản chất của thủ tục tái thẩm và nội hàm của khái niệm “thủ tục tái
thẩm” trong tố tụng dân sự.
Theo tác giả Đinh Văn Quế thì: “Tái thẩm là xét lại bản án hoặc quyết
định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật, nhưng bị kháng nghị vì có những
tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án
hoặc quyết định mà Tồ án khơng biết được khi ra bản án hoặc quyết định
đó” [14, tr.102]. Với khái niệm này, đã thấy được căn cứ kháng nghị tái thẩm
là những tình tiết mới phát hiện nhưng khơng đưa ra được quan điểm của tác

7


giả về việc xác định thủ tục tái thẩm là một giai đoạn tố tụng hay một thủ tục
tố tụng đặc biệt.
Theo Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam của trường Đại học Luật
Hà Nội đã đưa ra khái niệm: “Tái thẩm dân sự là việc xét lại bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật của tồ án bị kháng nghị do mới phát hiện được
tình tiết quan trọng của vụ án mà tòa án và các đương sự đã khơng biết được
khi tồ án giải quyết vụ án” [37, tr.352]. Với khái niệm này, thì đối tượng của
việc xét lại theo thủ tục tái thẩm là những bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật mà phát hiện được những tình tiết mới có ý nghĩa quan trọng đối
với việc giải quyết vụ án nhưng lúc ra bản án, quyết định các đương sự và
Tồ án đã khơng thể biết. Do mới phát hiện được những tình tiết của vụ án mà
trước đó các đương sự và Tồ án đã khơng biết được nên làm bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật của Tồ án trở nên khơng phù hợp với thực tế

khách quan của vụ án, không đúng đắn.
Điều 304 BLTTDS quy định tính chất của tái thẩm, đồng thời cũng chính
là khái niệm pháp lý về tái thẩm: “Tái thẩm là xét lại bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới được
phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Toà
án, các đương sự khơng biết được khi Tồ án ra bản án, quyết định đó” [22].
Khái niệm pháp lý này tiếp tục được BLTTDS năm 2015 kế thừa và quy định
tại Điều 351 [25].
Như vậy, có thể hiểu: Tái thẩm trong tố tụng dân sự là thủ tục tố tụng
đặc biệt của tố tụng dân sự, theo đó Hội đồng tái thẩm xét lại bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật trên cơ sở kháng nghị của người có thẩm quyền
vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung
của bản án hoặc quyết định mà Tòa án, các đương sự đã khơng biết và khơng
thể biết được khi Tịa án ra bản án hoặc quyết định đó, nhằm đảm bảo sự thật

8


của vụ án được xác định khách quan, toàn diện và đầy đủ. Tuy nhiên, để nhận
diện đầy đủ bản chất của tái thẩm cần làm rõ đặc điểm của tái thẩm trong tố
tụng dân sự.
1.2. Đặc điểm của tái thẩm
Tái thẩm là thủ tục đặc biệt trong hoạt động tố tụng dân sự, tính chất đặc
biệt này được hình thành bởi những đặc trưng riêng và thơng qua đó có thể
phân biệt được thủ tục này với các thủ tục tố tụng khác. Tái thẩm có những
đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, đối tượng của tái thẩm là những bản án, quyết định dân sự
của Tồ án đã có hiệu lực pháp luật.
Trước hết, bản án, quyết định của Tòa án được hiểu là văn bản pháp lý
được Tòa án có thẩm quyền tuyên xử hoặc quyết định theo một trình tự tố

tụng do luật định về tính hợp pháp hay không hợp pháp của hành vi hoặc quan
hệ pháp luật phát sinh từ một vụ án cụ thể. Bên cạnh đó, đối với một bản án,
quyết định của Tịa án khơng phải lúc nào cũng có hiệu lực pháp luật ngay lập
tức, tùy vào từng loại bản án, quyết định có thời hạn khác nhau theo luật định.
Chẳng hạn, quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự sẽ có hiệu lực
pháp luật ngay hay bản án dân sự sơ thẩm nếu khơng có kháng cáo, kháng
nghị thì sau 15 ngày kể từ ngày tuyên án sẽ có hiệu lực pháp luật . Với tái
thẩ m chỉ đă ̣t ra vấ n đề kháng nghi ̣đố i với

những bản án, quyết định đã có

hiệu lực pháp luật được cho là không đúng với thực tế khách quan do mới
phát hiện được tình tiết quan trọng của vụ án mà trước đó Tồ án và các
đương sự khơng thể biết được khi giải quyết vụ việc dân sự. Theo quy định
của BLTTDS, các bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật có thể
trở thành đối tượng kháng nghị tái thẩm, bao gồm, bản án, quyết định của Tồ
án cấp sơ thẩm khơng bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đã hết
thời hạn kháng cáo, kháng nghị; bản án, quyết định của Toà án cấp phúc

9


thẩm; quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm, trừ quyết định của
Hội đồng thẩm phán TANDTC.
Thứ hai, tái thẩm không xét xử lại vụ án mà là xem xét tình tiết mới
được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị.
Như vậy, trước hết phải xem xét tình tiết được phát hiện có phải là tình
tiết mới hay khơng. Tình tiết được coi là mới khi thỏa mãn các điều kiện sau:
Tình tiết đó tồn tại trước khi Tịa án ra bản án, quyết định; được phát hiện sau

khi bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật và Tịa án khơng biết được tình
tiết đó khi ra bản án, quyết định. Sau đó phải xem xét ý nghĩa của tình tiết
mới đối với vụ án. Tình tiết mới phải có ý nghĩa làm thay đổi cơ bản nội dung
của vụ án thì mới là căn cứ để có thể làm phát sinh tái thẩm.
Thứ ba, việc xét lại bản án, quyết định phải dựa trên kháng nghị của
người có thẩm quyền.
Theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, cơ sở làm phát
sinh thủ tục tái thẩm chỉ có thể là kháng nghị của người có thẩm quyền. Tuy
nhiên, nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự là nét đặc thù
trong pháp luật tố tụng dân sự. Vì vậy, đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục tái
thẩm đối với bản án đã có hiệu lực pháp luật là cơ sở ưu tiên hàng đầu để Tòa
án xem xét, kiểm tra lại bản án, quyết định. Không phải đơn đề nghị hoặc văn
bản thông báo nào của đương sự, của cá nhân, cơ quan, tổ chức cũng được
kháng nghị và đưa ra để Hội đồng tái thẩm xem xét mà còn cần dựa trên các
căn cứ kháng nghị theo quy định của pháp luật để người có thẩm quyền ra
quyết định kháng nghị trong thời hạn luật định. Như vậy, quyền đề nghị xem
xét lại theo thủ tục tái thẩm của đương sự chỉ là cơ sở để người có thẩm quyền
kháng nghị xem xét lại bản án, quyết định của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật
chứ không phải là căn cứ để Hội đồng tái thẩm xác định những tình tiết mới

10


có thể làm thay đổi cơ bản nội dung bản án, quyết định của Tịa án đã có hiệu
lực pháp luật. Hội đồng tái thẩm chỉ xem xét lại bản án, quyết định đó tại
phiên tịa tái thẩm trên cơ sở quyết định kháng nghị của người có thẩm quyền
kháng nghị.
Thứ tư, phạm vi tái thẩm bị giới hạn bởi phạm vi của kháng nghị.
Chỉ có phần quyết định của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
bị kháng nghị hoặc có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng nghị mới

được đưa ra xem xét. Phần quyết định của bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật khơng bị kháng nghị hoặc khơng có liên quan đến việc xem xét nội
dung kháng nghị chỉ bị xem xét lại nếu nó xâm phạm đến lợi ích của Nhà
nước, của người thứ ba không phải là đương sự trong vụ án [22, Điều 296].
BLTTDS năm 2015 đã bổ sung thêm trường hợp phần quyết định của bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật khơng bị kháng nghị hoặc khơng có liên
quan đến việc xem xét nội dung kháng nghị cũng sẽ bị xem xét lại nếu nó
xâm phạm đến lợi ích cơng cộng [25, Điều 342].
Thứ năm, phiên tịa tái thẩm khơng mở cơng khai. Về thành phần tham
gia, chỉ đại diện VKS cùng cấp bắt buộc phải có mặt, những người tham gia
tố tụng và những người khác có liên quan đến việc kháng nghị chỉ được tham
gia phiên tòa tái thẩm trong trường hợp Tòa án "xét thấy cần thiết" [22, Điều
292] [25, Điều 338].
Từ những đặc điểm trên, nhận thấy tái thẩm có khá nhiều điểm tương
đồng với thủ tục giám đốc thẩm, bên cạnh đó cũng có nhiều điểm khác biệt,
cụ thể như sau:
* Giống nhau:
- Đối tượng kháng nghị: Đối tượng kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm đều là những bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp
luật.

11


- Chủ thể có quyền kháng nghị: chỉ có Chánh án TAND cấp tỉnh, Viện
trưởng VKSND cấp tỉnh (nay là Chánh án TAND cấp cao, Viện trưởng
VKSND cấp cao), Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC mới có
quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
- Hậu quả khi bị kháng nghị: quyết định kháng nghị giám đốc thẩm, tái
thẩm chưa làm mất hiệu lực pháp luật của bản án hoặc quyết định bị kháng

nghị nếu người có thẩm quyền kháng nghị khơng ra quyết định tạm đình chỉ
thi hành án hoặc quyết định hoãn thi hành án.
- Hiệu lực: Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm sẽ có hiệu lực ngay khi
Hội Đồng giám đốc thẩm, tái thẩm ra quyết định.
Ngoài ra, tái thẩm và giám đốc thẩm vụ án dân sự còn giống nhau ở nội
dung quyết định kháng nghị; thẩm quyền xét xử; Hội đồng xét xử và những
người tham gia phiên tịa; trình tự, diễn biến phiên tòa; phạm vi xét xử; nội
dung quyết định;...
* Khác nhau:
- Về tính chất:
+ Giám đốc thẩm là xét lại bản án, quyết định của Tịa án đã có hiệu lực
pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm
trọng trong việc giải quyết vụ án.
+ Tái thẩm là xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng
bị kháng nghị vì có tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản
nội dung của bản án, quyết định mà Tịa án, các đương sự khơng biết được
khi Tịa án ra bản án, quyết định đó.
- Về căn cứ kháng nghị:
+ Giám đốc thẩm: Kết luận trong bản án, quyết định khơng phù hợp với
những tình tiết khách quan trong vụ án. Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố
tụng hoặc có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật.

12


+ Tái thẩm: phát hiện được tình tiết mới trong vụ án mà đương sự không
thể biết được trong quá trình giải quyết vụ án, có cơ sở chứng minh kết luận
của người giám định, lời dịch của người phiên dịch khơng đúng sự thật hoặc
có sự giả mạo chứng cứ, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên cố ý
làm sai lệch hồ sơ vụ án hoặc cố ý kết luận trái pháp luật.

- Về thời hạn kháng nghị:
+ Giám đốc thẩm: 3 năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp
luật, trừ trường hợp đương sự vẫn tiếp tục có đơn đề nghị, hoặc bản án, quyết
định xâm phạm nghiêm trọng đến lợi ích của đương sự, người thứ ba, Nhà
nước và phải kháng nghị để khắc phục sai lầm thì sẽ được kéo dài thêm 2
năm.
+ Tái thẩm: 1 năm kể từ ngày người có thẩm quyền kháng nghị biết
được căn cứ cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm.
- Về thẩm quyền của Hội đồng xét xử:
Nếu như hội đồng giám đốc thẩm có quyền huỷ bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại hoặc phúc thẩm lại thì hội đồng tái
thẩm chỉ có thẩm quyền hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật dể
xét xử sơ thẩm lại theo thủ tục chung.
Như vậy, việc tách riêng thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm như hiện nay là
hợp lý vì như đã phân tích ở trên, hai thủ tục này khác nhau về tính chất, dẫn
đến các quy định về cơ chế xử lý và hậu quả pháp lý là khác nhau. BLTTDS
đã có những quy định khá rõ ràng, và chi tiết về thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm nhưng pháp lý là một ngành khoa học đặc thù nên xung quanh những
vấn đề mà luật đã quy định cịn có nhiều ý kiến trái chiều. Những quan điểm
khác nhau cũng như những luận điểm mà các nhà nghiên cứu đưa ra sẽ góp
phần xây dựng và hồn thiện hơn các quy định của pháp luật TTDS về hai thủ
tục này.

13


1.3. Ý nghĩa của tái thẩm trong tố tụng dân sự
1.3.1. Ý nghĩa pháp lý của tái thẩm
Tái thẩm có ý nghĩa pháp lý đặc biệt trong tố tụng dân sự. Tái thẩm khắc
phục sai lầm về sự việc trong bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, bảo

đảm giải quyết vụ án khách quan, cơng bằng, góp phần bảo đảm quyền con
người, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự,
góp phần bảo đảm sự tồn tại của nguyên tắc Nhà nước pháp quyền trong mỗi
quốc gia.
Tái thẩm ý nghĩa với hoạt động lập pháp. Khi tiến hành tái thẩm, Tòa án
có điều kiện phát hiện những chỉ dẫn mới của các ngành khoa học khác có
liên quan cũng như của khoa học pháp lý có thể sử dụng trong quá trình xác
định sự kiện thực tế đã xảy ra trên thế giới khách quan trên cơ sở đó đưa ra
các kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
Thứ nhất, tái thẩm dân sự bảo đảm tính pháp chế xã hội chủ nghĩa của
công tác xét xử.
Việc xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo
thủ tục tái thẩm giúp cho Tòa án khắc phục được những thiếu sót trong bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật không phụ thuộc vào thời gian của bản
án, quyết định có hiệu lực pháp luật và được thi hành từ bao giờ [37, tr.353].
Chính vì lẽ đó mà tái thẩm là cơ sở pháp lý để khẳng định tính đúng đắn của
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật; là cơ sở để hủy bỏ bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật; từ đó chấm dứt tố tụng đối với vụ án hoặc khơi
phục lại trình tự tố tụng đối với vụ án nhằm xác định chính xác sự thật khách
quan của vụ án, giúp vụ án được giải quyết một cách đúng đắn, cơng bằng
nhất.
Thứ hai, tái thẩm cịn có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động lập pháp.
Thông qua công tác tái thẩm, Tòa án phát hiện những bất hợp lý của

14


pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng dân sự, kiến nghị với cơ quan lập
pháp kịp thời sửa đổi, bổ sung pháp luật thực định cho phù hợp với yêu cầu
của thực tiễn. Tái thẩm là một hoạt động thực tiễn của ngành Tòa án nhằm

kiểm nghiệm những lý luận của khoa học pháp lý và các văn bản pháp luật, là
cơ sở cho việc hoàn thiện, bổ sung và nâng cao hoạt động lý luận trong khoa
học pháp lý và trong hoạt động xây dựng pháp luật.
Thứ ba, thơng qua hoạt động tái thẩm Tịa án cấp trên cịn có thể tổng
kết, rút kinh nghiệm cơng tác xét xử, hướng dẫn xét xử cho Tòa án cấp dưới,
góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ xét xử.
Hướng dẫn xét xử và áp dụng thống nhất pháp luật là cơng tác rất quan
trọng của ngành Tịa án. Các quyết định tái thẩm là nguồn tư liệu thực tế
phong phú để TANDTC làm cơ sở đưa ra những kết luận, tổng kết kinh
nghiệm xét xử cho các Tòa án địa phương hàng năm, nhằm nâng cao chất
lượng xét xử, hạn chế những sai sót của Tịa án cấp dưới. Thông qua công tác
tái thẩm, TANDTC ban hành các văn bản hướng dẫn xét xử cho các Tòa án
cấp dưới. Do vậy, tái thẩm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với Tòa án, nhất
là TANDTC trong việc thực hiện chức năng quan trọng là hướng dẫn xét xử
đối với các Tòa án cấp dưới. Các quyết định tái thẩm được công bố công khai
cũng là nguồn tư liệu quý giá để các Thẩm phán tham khảo và rút kinh
nghiệm trong quá trình xét xử, tránh lặp lại những sai lầm tương tự. Ngồi ra,
thơng qua cơng tác tái thẩm TANDTC còn đánh giá được chất lượng Thẩm
phán, để từ đó có kế hoạch cho việc đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ
ngành TAND phù hợp với năng lực, đạo đức [5, tr.19].
1.3.2. Ý nghĩa chính trị của tái thẩm
Quy định về tái thẩm góp phần đáp ứng những đòi hỏi của Nhà nước
pháp quyền và là một trong những cơ chế để đảm bảo việc kiểm tra, giám sát
pháp luật.

15


Khi phát hiện những tình tiết mới trong bản án hoặc quyết định đã có
hiệu lực pháp luật, Tồ án có thẩm quyền tái thẩm sẽ huỷ bản án hoặc quyết

định đó để xét xử lại hoặc đình chỉ vụ án. Thơng qua hoạt động của mình, các
Tồ án này đã góp phần giáo dục ý thức pháp luật cho các cán bộ làm công
tác xét xử. Những vụ án xét xử theo thủ tục tái thẩm được nêu trong các hội
nghị tổng kết ngành, hội thảo về xét xử giúp cán bộ làm cơng tác xét xử nói
chung có được nhận thức đúng đắn và tôn trọng pháp luật hơn. Thông qua tái
thẩm, TANDTC sẽ hướng dẫn việc áp dụng pháp luật một cách đúng đắn,
thống nhất, tránh việc nhận thức pháp luật sai lầm và áp dụng pháp luật một
cách tuỳ tiện. Khơng chỉ có ý nghĩa giáo dục ý thức pháp luật đối với cán bộ
làm công tác xét xử mà nó cịn góp phần giáo dục ý thức pháp luật cho những
người có liên quan đến vụ việc và người dân nói chung.
Vấn đề bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân
được coi là yêu cầu trung tâm của nội dung Nhà nước pháp quyền, thể hiện
bản chất tốt đẹp của Nhà nước ta. Toà án trong hoạt động của mình phải đảm
bảo việc xét xử được đúng đắn, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhân
dân. Tuy Tồ án cấp tái thẩm khơng trực tiếp xét xử vụ án, không trực tiếp
khôi phục các quyền và lợi ích hợp pháp đã bị xâm phạm nhưng bằng việc
huỷ những bản án, quyết định sai, tạo cơ sở pháp lý để vụ án được phục hồi
và xét xử lại đã góp phần khắc phục những vi phạm, bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của nhân dân.
Tái thẩm có nhiệm vụ xét lại những bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật, vô hiệu các bản án, quyết định sai trái, đảm bảo việc xét xử hợp
pháp và hợp hiến. Với mục đích này, tái thẩm góp phần đảm bảo thực hiện
nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảm bảo tính thống nhất, ổn định, chặt
chẽ của Nhà nước và pháp luật.
1.3.3. Ý nghĩa xã hội của tái thẩm

16


Tái thẩm góp phần đảm bảo cơng bằng xã hội, củng cố lòng tin của nhân

dân vào hoạt động xét xử của Tồ án, góp phần đảm bảo uy tín của cơ quan tư
pháp.
Việc đảm bảo pháp luật được giải thích và áp dụng thống nhất là điều
kiện quan trọng để hành vi của công dân được điều chỉnh bởi một hệ thống
pháp luật thống nhất, đảm bảo nguyên tắc mọi cơng dân đều bình đẳng trước
pháp luật. Thủ tục tái thẩm cho phép người dân được quyền đề nghị kháng
nghị một khi phát hiện những căn cứ làm cho việc xét xử trước đó là sai lầm,
dẫn đến quyền và lợi ích của họ bị xâm phạm. Những bản án, quyết định này
có thể bị huỷ nếu có căn cứ, trình tự tố tụng để giải quyết vụ án sẽ được khôi
phục lại. Những quy định này giúp người dân tin tưởng hơn vào pháp luật,
đồng thời góp phần củng cố lòng tin của người dân vào cơ quan tư pháp.
1.4. Sự hình thành và phát triển của các quy định về tái thẩm trong
pháp luật Việt Nam
1.4.1. Sự hình thành và phát triển của tái thẩm trong Luật tổ chức Tòa
án nhân dân
Những quy định về tái thẩm trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân bao
gồm những quy định liên quan đến thẩm quyền kháng nghị cũng như thẩm
quyền tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án các
cấp, từ Tòa án nhân dân tối cao cho đến các Tòa án địa phương khác.
Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 là Luật tổ chức Tòa án nhân dân
đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, những quy định về
thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật được ghi nhận một
cách chính thức và đầu tiên tại văn bản này. Theo đó, xét về thẩm quyền của
Tịa án, Luật tổ chức TAND năm 1960 trao cho Tòa án nhân dân tối cao thẩm
quyền xét lại những bản án, quyết định của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật
nhưng bị phát hiện là có sai lầm. Các Tịa án cấp dưới chỉ được quyền xét lại

17



đối với những bản án, quyết định của Toà án địa phương và việc xét lại chỉ
được thực hiện một khi các Tòa án cấp dưới này được Tòa án nhân dân tối
cao phân, giao nhiệm vụ xét lại. Một cách cụ thể Điều 12 Luật tổ chức TAND
năm 1960 quy định:
Những bản án và q uyế t định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật ,
nế u phát hiện có sai lầm thì đươ ̣c xét lại.
Đối với bản án và quyế t định của các Tòa án nhân dân địa phương
đã có hiệu lực pháp luật nhưng phát hiện có sai lầm thì Tịa án nhân
dân tối cao có quyề n xét

lại hoă ̣c giao cho Tòa án nhân dân cấp

dưới xét lại.
Đối với những bản án và quyế t định của Tòa án nhân dân tối cao đã
có hiệu lực pháp luật , nế u phát hiện có sai lầm thì Chánh án Tịa án
nhân dân tối cao đưa ra Ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
xét định.
Đối với những bản án và quyế t định đã có hiệu lực pháp luật của
Tịa án mình hoă ̣c Tịa án cấp dưới nế u phát hiện có sai lầm thì Tịa
án nhân dân địa phương có qù n nêu lên để Tịa án nhân dân tối
cao xét định.
Mặc dù Điều luật này không quy định cụ thể việc xét lại thực hiện theo
thủ tục giám đốc thẩm hay tái thẩm, tuy nhiên căn cứ vào tính chất của giám
đốc thẩm thì đây là quy định dành cho thủ tục giám đốc thẩm chứ không phải
tái thẩm. Như vậy, ở văn bản này cơ bản quy định về tái thẩm vẫn chưa xuất
hiện.
Cùng với sự ra đời của Hiến pháp năm 1980 là Luật tổ chức TAND năm
1981, đây không chỉ là văn bản thay thế mà căn bản nó cịn kế thừa những
quy định của Luật Tổ chức TAND năm 1960. Đặc biệt đến giai đoạn này, lần
đầu tiên cụm từ “thủ tục tái thẩm” xuất hiện trong một văn bản luật chính


18


thức. Đồng thời, những quy định về giám đốc thẩm và tái thẩm cũng trở nên
rõ ràng hơn , một cách cụ thể nhất. Điều 12 Luật tổ chức TAND năm 1981
quy định: “Những bản án và quyế t định đã có hiệu lực pháp luật được xét lại
theo thủ tục giám đốc thẩm, nế u thấy có vi phạm pháp luật , hoặc được xét lại
theo thủ tục tái thẩm, nế u phát hiện những tình tiế t mới”. Thơng qua quy định
này có thể thấy, việc xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm sẽ được thực hiện nếu
như có vi phạm pháp luật chứ khơng phải là “phát hiện có sai lầm” như ở
Luật tổ chức TAND năm 1960, đồng thời bổ sung thêm việc xét lại theo thủ
tục tái thẩm nếu phát hiện những tình tiết mới. Việc thay đổi này đã tạo tiền
đề cho sự phát triển của những quy định về tái thẩm cũng như giám đốc thẩm
ở các văn bản sau này . Ở Luật tổ chức TAND năm 1981 Tòa án nhân dân tối
cao vẫn mang thẩm quyền cao nhất trong việc xét lại bản án , quyết định của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật , tuy nhiên thẩm quyền xét lại được mở rộng
ra đối với các Tòa án cấp dưới . Chẳng hạn: Theo quy định tại khoản 4 Điều
33 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm

1981 thì Ủy ban thẩm phán Tịa án

nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp tương đương được trao
cho thẩm quyền “Giám đốc thẩm hoặc tái thẩm những bản án và quyế t định
đã có hiệu lực pháp luật của các Tòa án nhân dân huyện , quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh”. Thêm vào đó , Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh , thành phố
trực thuộc trung ương có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối
với những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tịa án nhân dân
cấp dưới, tạm đình chỉ việc thi hành án nếu thấy cần thiết theo khoản 4 Điều
35 Luật tổ chức TAND năm 1981. Tuy nhiên, Luật tổ chức TAND năm 1981

không có quy định nào về thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm. Như
vậy, nhìn chung những quy định về giám đốc thẩm , tái thẩm ngày càng trở
nên cụ thể và nguyên tắc hơn . Việc mở rộng thẩm quyền xét lại bản án cũng
như quyết định đã có hiệu lực pháp luật mang ý nghĩa quan trọng bởi lẽ, trong

19


×