ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
THIỀU THỊ CHIÊN
PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA
CƠNG TY TÀI CHÍNH VÀ THỰC TIỄN ÁP
DỤNG TẠI CƠNG TY TÀI CHÍNH VINASHIN
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội – 2013
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
THIỀU THỊ CHIÊN
PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA
CƠNG TY TÀI CHÍNH VÀ THỰC TIỄN ÁP
DỤNG TẠI CƠNG TY TÀI CHÍNH VINASHIN
Chun ngành : Luật Kinh tế
Mã số : 60.38.50
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học : TS Nguyễn Thị Lan Hương
Hà Nội – 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu
khoa học của riêng tơi. Các số liệu, ví dụ, trích dẫn
trong luận văn là trung thực, chính xác. Những kết
luận khoa học của luận văn chưa từng được ai
cơng bố trong cơng trình khoa học nào khác.
Tác giả luận văn
Thiều Thị Chiên
MỤC LỤC
MỤC LỤC ......................................................................................................
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT .........................................................................
LỜI NÓI ĐẦU .............................................................................................. 1
1.Tính cấp thiết của đề tài............................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ........................................................................ 2
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài ......................................................... 3
4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 3
5. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn ................................................ 3
6. Bố cục của luận văn.................................................................................... 4
Chương 1: Tổng quan về cơng ty tài chính và pháp luật về hoạt động tín
dụng của cơng ty tài chính………………………………………………….4
1.1 Khái quát chung về CTTC và hoạt động tín dụng của CTTC ............. 4
1.1.1 Khát quát về CTTC............................................................................ 4
1.1.2 Hoạt động tín dụng và hoạt động tín dụng của CTTC ...................... 11
1.2 Pháp luật về hoạt động tín dụng của CTTC ....................................... 15
1.2.1 Pháp luật về việc huy động vốn của CTTC ...................................... 16
1.2.2 Pháp luật về hoạt động cấp tín dụng của CTTC ............................... 28
1.2.3 Pháp luật về các quy định đảm bảo an toàn trong hoạt động cấp tín
dụng của CTTC ........................................................................................ 41
Chương 2: Thực trạng pháp luật về hoạt động tín dụng của cơng ty tài
chính và thực tiễn áp dụng tại cơng ty tài chính Vinashin………………47
2.1 Thực trạng pháp luật về hoạt động tín dụng của cơng ty tài chính ... 47
2.1.1 Bất cập về cơ chế huy động vốn…………………………………..47
2.1.2 Bất cập trong cơ chế cấp tín dụng .................................................... 48
2.2 Thực tiễn áp dụng pháp luật về hoạt động tín dụng tại CTTC
Vinashin ...................................................................................................... 50
2.2.1 Giới thiệu về cơng ty tài chính Vinashin……………………………50
2.2.2 Khái qt tình hình hoạt động kinh doanh của cơng ty tài chính
Vinashin…………………………………………………………………..52
2.2.3 Thực tiễn áp dụng pháp luật về hoạt động tín dụng tại cơng ty
tài chính
Vinashin………………………………………………………………55
Chương 3: Định hướng hồn thiện pháp luật về hoạt động tín dụng của
cơng ty tài chính và một số kiến nghị trong hoạt động tín dụng của cơng
ty tài chính Vinashin………………………………………………………66
3.1 Định hướng hồn thiện pháp luật về hoạt động tín dụng của CTTC 66
3.2 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động tín dụng
của CTTC ................................................................................................... 67
3.2.1 Về huy động vốn: ............................................................................ 68
3.2.2 Về cấp tín dụng............................................................................... 70
3.2.3 Về mở tài khoản thanh toán ............................................................. 70
3.2.4 Về cơ chế kiểm tra, giám sát hoạt động của các CTTC .................... 71
3.3 Các kiến nghị nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng tại VFC ......... 72
3.3.1 Hồn thiện hệ thống các quy định nội bộ về hoạt động tín dụng và
giám sát chặt chẽ việc sử dụng vốn........................................................... 72
3.3.2 Hoàn thiện cơ chế huy động vốn trong tập đoàn ............................. 73
3.3.3 Xây dựng chính sách huy động vốn từ các nguồn ngồi Tập đồn .. 74
3.3.4 Đa dạng hóa và nâng cao hiệu quả các hình thức cấp tín dụng ......... 74
3.3.5 Cổ phần hóa VFC ........................................................................... 74
KẾT LUẬN ................................................................................................. 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 77
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TT
TỪ VIẾT TẮT
Ý NGHĨA
1
CTTC
Công ty Tài Chính
2
VFC
Cơng ty Tài chính TNHH MTV Cơng nghiệp
tàu thủy
3
TCTD
Tổ chức Tín Dụng
LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài
Trong những năm qua, cùng với công cuộc đổi mới và hội nhập kinh tế,
hoạt động ngân hàng không ngừng tăng trưởng về quy mơ, mạng lưới giao
dịch, năng lực tài chính, năng lực điều hành, sản phẩm ngày càng đa dạng…
Tài chính - ngân hàng đang trở thành một lĩnh vực kinh doanh đầy tiềm
năng, hứa hẹn nhiều thời cơ, lợi nhuận, nhưng cũng ẩn chứa khơng ít rủi
ro…Bên cạnh hệ thống các ngân hàng thương mại, các CTTC là một định chế
tài chính được rất nhiều các tổng cơng ty trong nước và các tập đồn tài chính
lớn trên thế giới quan tâm đầu tư và xin thành lập. Là một quốc gia đang phát
triển, nhu cầu vốn của các doanh nghiệp Việt Nam là rất lớn, khối khách hàng
doanh nghiệp tư nhân loại vừa và nhỏ đang rất cần vốn nhưng khó vay vốn từ
các ngân hàng lớn. Với những thủ tục đơn giản hơn thành lập ngân hàng, vốn
điều lệ khơng q cao thì đây là cơ hội tốt cho các tập đồn, tổng cơng ty lớn
tham gia thị trường tài chính Việt Nam thơng qua việc thành lập các CTTC.
Đặc biệt khi Ngân hàng Nhà nước nâng điều kiện cấp phép và sau đó quyết
định tạm ngưng việc cấp phép thành lập Ngân hàng thương mại cổ phần thì
phong trào thành lập CTTC lại nở rộ. Hiện tại, tỷ lệ người dân Việt Nam sử
dụng các dịch vụ tài chính, ngân hàng chỉ khoảng 20% trong lúc nguồn vốn
trong dân còn rất lớn. Các CTTC ra đời cũng sẽ góp phần cơ cấu lại thị trường
tiền tệ theo hướng nâng cao sức cạnh tranh và tính thanh khoản cho các tổ
chức tín dụng, đa dạng hố các sản phẩm tài chính-tín dụng, tạo ra nhiều kênh
huy động và phân các nguồn vốn trong xã hội một cách linh hoạt góp phần
thực hiện cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước.
Ở nước ta, phần lớn các CTTC ra đời với mục đích đáp ứng nhu cầu
thu xếp vốn trong nội bộ các tổng cơng ty, tập đồn lớn; hầu hết các tổng
1
cơng ty, tập đồn này thuộc sở hữu của nhà nước. Các CTTC có được một
hành lang pháp lý phù hợp để thúc đẩy hoạt động của mình cũng có nghĩa là
thúc đẩy hoạt động của các tổng công ty và tập đoàn kinh tế nhà nước trước
sức ép cạnh tranh của hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, một thực tế không thể phủ nhận là hoạt động của các CTTC
ở Việt Nam cịn mới mẻ và chưa có định hướng rõ ràng. Đặc biệt, pháp luật
điều chỉnh tổ chức và hoạt động của cơng ty tài chính cịn chưa hồn chỉnh và
đồng bộ, có một số quy định đến nay đã khơng cịn phù hợp. Đặc biệt sự ra
đời của Luật các Tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 đã dẫn đến nhiều thay
đổi quan trọng về tổ chức và hoạt động của CTTC – một định chế tài chính có
vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Hệ thống các CTTC hiện nay đang rất
cần có một hành lang pháp lý phù hợp để hoạt động ngày một hiệu quả hơn.
Với mong muốn đó, tác giả đã chọn đề tài: “Pháp luật về hoạt động tín dụng
của CTTC và thực tiễn áp dụng tại CTTC Vinashin”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
So với các định chế tài chính khác như các ngân hàng, cơng ty chứng
khốn…thì các vấn đề pháp lý về loại hình CTTC ít được quan tâm hơn. Đã
có nhiều cơng trình nghiên cứu pháp luật về tổ chức tín dụng nói chung, tuy
nhiên các nghiên cứu về pháp luật điều chỉnh riêng hoạt động của CTTC thì
chưa có nhiều cơng trình nghiên cứu một cách sâu sắc, hệ thống và đầy đủ về
vấn đề này.
Trong xu thế hội nhập hiện nay, việc nghiên cứu một cách có hệ thống
về vấn đề này mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Những kiến nghị của
đề tài hy vọng sẽ đem lại những kết quả thiết thực cho việc hoàn thiện các quy
định pháp luật của Việt Nam nhằm mục đích đảm bảo một mơi trường pháp lý
phù hợp với đặc thù riêng của hệ thống các CTTC ở Việt Nam.
2
Tác giả hy vọng rằng với sự đầu tư thích đáng, kết quả nghiên cứu sẽ là
một tài liệu tham khảo có giá trị.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận và các quy định pháp
luật điều chỉnh hoạt động tín dụng của CTTC hiện nay và thực tiễn áp dụng
tại CTTC Vinashin. Đặc biệt Luận văn có đi sâu phân tích các quy định mới
được ban hành từ năm 2010 liên quan đến hoạt động tín dụng của CTTC.
Trong nội dung trình bày, tác giả sẽ đưa ra những nhận xét, đánh giá
thực trạng pháp luật về hoạt động tín dụng của CTTC thơng qua việc phân
tích các ưu điểm và bất cập của các quy định pháp luật hiện hành và các
vướng mắc cụ thể trong q trình áp dụng pháp luật tại CTTC Vinashin. Qua
đó tác giả có nêu lên những kiến nghị có thể áp dụng trong việc hoàn thiện
pháp luật điều chỉnh hoạt động tín dụng của CTTC. Đề tài chỉ nghiên cứu
pháp luật về hoạt động tín dụng của CTTC, khơng nghiên cứu pháp luật về
các hoạt động khác cũng như pháp luật về tổ chức của loại hình tổ chức tín dụng.
4. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sẽ sử dụng phương pháp chủ yếu là phân tích các quy định
pháp luật Việt Nam hiện hành, so sánh với thông lệ quốc tế, từ đó rút ra
những ưu điểm và những bất cập, hạn chế trong quy định của pháp luật điều
chỉnh hoạt động tín dụng của các CTTC hiện nay, nhằm tạo một mơi trường
pháp lý hồn thiện cho hệ thống các CTTC phát triển một cách đồng bộ, có
định hướng.
5. Dự kiến những đóng góp mới của Luận văn
Luận văn là một cái nhìn tổng quan, khái quát những quy định của pháp
luật hiện hành về pháp luật điều chỉnh hoạt động tín dụng của CTTC, trong đó
3
bao gồm cả những chính sách pháp luật mới được ban hành trong thời gian
gần đây. Với việc phân tích sự phù hợp và bất cập của các quy định này, luận
văn đưa ra những nhận xét và kiến nghị phù hợp để có thể tạo mơi trường
pháp lý tốt nhất cho hoạt động tín dụng của CTTC nói chung và CTTC
Vinashin nói riêng.
6. Bố cục của Luận văn
Bố cục của Luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Tổng quan về cơng ty tài chính và pháp luật về hoạt động
tín dụng của cơng ty tài chính
Chương 2: Thực trạng pháp luật về hoạt động tín dụng của Cơng ty tài
chính và thực tiễn áp dụng pháp luật về hoạt động tín dụng của Cơng ty tài
chính Vinashin
Chương 3: Định hướng hoàn thiện pháp luật và một số kiến nghị trong
hoạt động tín dụng của Cơng ty tài chính Vinashin
Chương 1
Tổng quan về Cơng ty tài chính và pháp luật về hoạt động tín dụng
của Cơng ty tài chính
1.1 Khái qt chung về Cơng ty tài chính và hoạt động tín dụng của Cơng
ty tài chính
1.1.1 Khát qt về Cơng ty tài chính
a. Khái niệm, đặc điểm của Cơng ty tài chính
Trên thế giới, thuật ngữ “Cơng ty tài chính” khơng cịn gì mới lạ, các
nhà tư bản đã q quen với các hoạt động, cũng như vai trị của nó trên thị
trường tài chính tiền tệ. Cơng ty tài chính (CTTC) cùng các Ngân hàng
thương mại có tầm quan trọng rất lớn và được coi như là xương sống của nền
4
kinh tế.
Có thể nói sự ra đời của CTTC là một tất yếu khách quan của nền kinh
tế thị trường, nó tồn tại và hoạt động tuân theo các quy luật của nền kinh tế
với chức năng luân chuyển và điều tiết vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu.
Trên thế giới, ở các nước tư bản, các CTTC xuất hiện rất sớm và phát
triển với tốc độ nhanh chóng. Cùng với sự ra đời này, pháp luật các nước đều
có những quy định pháp lý làm nền tảng cho các CTTC tồn tại và hoạt động.
Ở Thụy Điển, các CTTC được thành lập từ giữa năm 1960 phát triển
mạnh vào những năm 1970 và hiện nay CTTC là một trong những nhân tố
quan trọng thực hiện chính sách tín dụng của Nhà nước. Ngay từ khi nền kinh
tế đòi hỏi sự ra đời của các CTTC các nhà lập pháp Thụy Điển cũng đã có
ngay các quy định pháp luật quy định chức năng hoạt động cũng như phạm vi
hoạt động của nó.
Ở Nhật Bản, các CTTC được hình thành từ giữa những năm 50 nhằm hỗ
trợ vốn cho các cơ sở kinh doanh nhỏ và đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ cho lợi
ích tiêu dùng của người dân Nhật Bản. Cho tới nay đã có hàng loạt các CTTC ra
đời, nhiều công ty đã nổi lên và chiếm các vị trí quan trọng trong hệ thống các tổ
chức tài chính Nhật Bản, chi phối hoạt động của nhiều lĩnh vực kinh tế, không
những trong phạm vi đất nước Nhật Bản mà còn vươn ra thế giới với tư cách là
những tập đồn tài chính khổng lồ. Cùng với sự phát triển của CTTC thì sự điều
chỉnh của pháp luật đối với CTTC ngày càng hoàn thiện hơn.
Như vậy có thể thấy tùy đặc điểm và tình hình nền kinh tế mỗi nước mà
các CTTC có thể có phạm vi hoạt động khác nhau song chúng vẫn hoạt động
với mục đích chính là ln chuyển, khơi thơng dịng vốn, thúc đẩy vòng chu
chuyển và tăng hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế.
Ở Việt Nam, so với hệ thống Ngân hàng thì CTTC là một mơ hình
5
TCTD khá mới. Sự ra đời hệ thống ngân hàng tại Việt Nam được đánh dấu
bằng sắc lệnh số 15/SL ngày 06/5/1951 do Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa ký. Kể từ khi thành lập, trải qua nhiều giai đoạn phát triển, tới nay
hệ thống Ngân hàng đã được phân chia thành Ngân hàng Nhà nước với chức
năng quản lý điều tiết nền kinh tế tiền tệ và các Ngân hàng chuyên doanh
khác. Trong khi đó, CTTC chỉ mới được chính thức thừa nhận thơng qua
Pháp lệnh ngân hàng, Hợp tác xã tín dụng và CTTC do Hội đồng Nhà nước
ban hành ngày 24/5/1990. Theo đó “CTTC, cơng ty quốc doanh hoặc cổ phần
hoạt động chủ yếu là cho vay để mua bán hàng hóa dịch vụ bằng nguồn vốn
của mình hoặc vay trong dân cư”
Những năm cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX cho thấy
mức độ khát vốn nghiêm trọng của nền kinh tế Việt Nam. Các doanh nghiệp
thuộc mọi quy mơ, hình thức, thành phần đều thiếu vốn. Nhu cầu điều tiết vốn
trên thị trường làm nảy sinh hàng loạt các quỹ tín dụng với rất nhiều điểm tương đồng với CTTC là huy động tiền gửi trong dân cư và hỗ trợ các doanh
nghiệp nhỏ.
Cùng sự lớn mạnh của nền kinh tế, sự biến chuyển của thị trường trong
nước và quốc tế năm 1997, Quốc hội nước ta đã ban hành Luật các TCTD quy
định về tổ chức, hoạt động của các TCTD và hoạt động ngân hàng của các tổ
chức khác ở Việt Nam. Tại Luật các TCTD ngày 12/12/1997 CTTC chưa
được định nghĩa đầy đủ, song được xếp vào TCTD phi ngân hàng. TCTD phi
ngân hàng được thực hiện một số hoạt động ngân hàng như là nội dung kinh
doanh thường xuyên nhưng không được nhận tiền gửi khơng kỳ hạn, khơng
làm dịch vụ thanh tốn. TCTD phi ngân hàng gồm CTTC, cơng ty cho th
tài chính và các TCTD phi ngân hàng khác. Tiếp đó để cụ thể hóa cách thức
tổ chức và phạm vi hoạt động của CTTC, năm 2002 Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 79/2002/NĐ-CP quy định về tổ chức và hoạt động của CTTC.
6
Theo đó CTTC đã được định nghĩa đầy đủ: “CTTC là loại hình TCTD phi
ngân hàng, với chức năng là sử dụng vốn tự có, vốn huy động và các nguồn
vốn khác để cho vay, đầu tư, cung ứng các dịch vụ tư vấn về tài chính, tiền tệ
và thực hiện một số dịch vụ khác theo quy định của pháp luật, nhưng khơng
được làm dịch vụ thanh tốn, khơng được nhận tiền gửi dưới một năm”. Có
thể thấy so với Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng, CTTC (ngày
24/5/1990), CTTC khơng cịn bị bó hẹp trong hai hình thức là cơng ty quốc
doanh và cơng ty cổ phần, các hoạt động nghiệp vụ cũng được mở rộng hơn.
Năm 2010, Quốc hội ban hành Luật các TCTD số 47/2010/QH12 thay
thế Luật các TCTD 1997 với nhiều quy định mới về tổ chức và hoạt động của
các TCTD. Theo quy định tại Khoản 4, Điều 4 Luật các TCTD 2010 thì
CTTC được xếp vào các TCTD phi ngân hàng:
“TCTD phi ngân hàng là loại hình TCTD được thực hiện một hoặc một
số hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật này, trừ các hoạt động nhận
tiền gửi của cá nhân và cung ứng các dịch vụ thanh toán qua tài khoản của
khách hàng. TCTD phi ngân hàng bao gồm CTTC, cơng ty cho th tài chính
và các TCTD phi ngân hàng khác”
Hệ thống các TCTD ở Việt Nam được phân chia thành hai loại, đó là:
ngân hàng và các TCTD phi ngân hàng. Tuy được quy định dưới các hình
thức khác nhau với tên gọi và phạm vi hoạt động nghiệp vụ khác nhau nhưng
chúng đều nằm trong hệ thống TCTD.CTTC mang đầy đủ các đặc trưng của
một TCTD nói chung:
- Thứ nhất, CTTC là doanh nghiệp có đối tượng kinh doanh trực tiếp là
tiền tệ.
Tiền tệ là một hàng hoá đặc biệt được tách ra từ trong thế giới hàng hoá
làm vật ngang giá chung thống nhất. Nó được dùng để biểu hiện và đo lường
7
giá trị của hàng hoá khác, làm phương tiện lưu thơng, phương tiện thanh tốn,
phương tiện cất trữ. Chính do sản phẩm kinh doanh là tiền tệ đã tạo ra sự khác
biệt cơ bản giữa TCTD nói chung và CTTC nói riêng với các doanh nghiệp
khác. Do các chức năng của mình, tiền tệ là một sản phẩm kinh doanh có tính
nhạy cảm với thị trường hơn bất cứ một lĩnh vực kinh doanh nào khác. Mọi
biến động của nền kinh tế ngay lập tức sẽ ảnh hưởng tới giá trị đồng tiền và
hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ. Chính vì các
hoạt động của CTTC cũng bị biến động theo, thiếu tính ổn định, mang tính
nhạy cảm và rủi ro rất lớn.
- Thứ hai, CTTC là doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh chính, chủ
yếu, thường xuyên và mang tính nghề nghiệp là hoạt động ngân hàng.
Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân
hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín
dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Đây là dấu hiệu cơ bản để phân biệt
doanh nghiệp là TCTD với các loại hình doanh nghiệp kinh doanh trong các lĩnh
vực khác, kể cả các doanh nghiệp có hoạt động ngân hàng khơng thường xun
như các cơng ty bảo hiểm, cơng ty kinh doanh chứng khốn. Đặc điểm này có ý
nghĩa quyết định đến cơ chế điều chỉnh của pháp luật đối với tổ chức và hoạt
động của các CTTC. Những tác động tích cực và tiêu cực của hoạt động kinh
doanh của các TCTD có tính dây chuyền. Chẳng hạn khi một CTTC cho vay
khơng thu hồi được vốn dẫn tới tình trạng khơng thể thanh tốn cho khách hàng
khi đến hạn. Điều này có thể gây tâm lý hoang mang cho không chỉ khách hàng
của CTTC đó mà cả các khách hàng của các TCTD khác, dẫn đến hiện tượng
khách hàng đồng loạt tới các TCTD rút tiền gửi, đẩy các TCTD vào tình trạng
thiếu khả năng chi trả, gây ra sự mất ổn định cho cả nền kinh tế.
- Thứ ba, CTTC là loại hình doanh nghiệp chịu sự quản lý nhà nước
8
của Ngân hàng Nhà nước và thuộc phạm vi áp dụng pháp luật ngân hàng.
Tuy vậy, CTTC có những đặc điểm riêng mà dựa vào đó có thể nhận
biết, phân biệt chúng với các loại hình TCTD khác. Sự phân biệt này là cần
thiết và quan trọng vì trong nền kinh tế thị trường, các TCTD có mối quan hệ
mật thiết, tác động qua lại với nhau. Do đó phạm vi hoạt động mà pháp luật
quy định cho từng loại hình TCTD cần rõ ràng để tránh sự chồng chéo, khiến
cho hiệu quả mà chúng mang lại cho nền kinh tế bị giảm sút. Sự phân biệt
ranh giới, phạm vi hoạt động nghiệp vụ của từng loại hình TCTD cũng giúp
Nhà nước dễ dàng hơn trong việc quản lý, có các biện pháp điều chỉnh phù
hợp và kịp thời. Từ đó đảm bảo cho một hệ thống tài chính lành mạnh, là cơ
sở cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế thị trường non trẻ ở nước ta
hiện nay.
b. Vai trị của CTTC
Ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, CTTC là một định chế
tài chính khơng thể thiếu và ngày càng có vai trị to lớn. Đó là một kênh huy
động vốn có tính chuyên nghiệp cao, sử dụng vốn hiệu quả. Thông qua CTTC
luồng vốn của thị trường được lưu thông, thúc đẩy sự chu chuyển, nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế quốc dân. Bên cạnh đó, CTTC cịn là
một kênh dẫn vốn quan trọng từ các dòng đầu tư nước ngoài. Với khả năng
chuyên nghiệp về kinh doanh vốn, CTTC có thể thu xếp vốn cho các dự án
lớn từ những nhà đầu tư trong nước, quốc tế...
Sự tồn tại của CTTC trong hệ thống tài chính cũng tạo ra sự cạnh tranh
mạnh mẽ giữa các chủ thể của thị trường tài chính, mang lại xung lực mới cho
sự phát triển thị trường tài chính nói riêng và thị trường nói chung.
Ở nước ta, CTTC đã sớm khẳng định được vai trò quan trọng trong việc
tạo lập thêm một kênh tài trợ tín dụng mới, hữu hiệu cho các đơn vị thành
9
viên trong tập đoàn và mở rộng phục vụ tổ chức, các nhân ngoài tập đoàn. Sự
ra đời các CTTC ở Việt Nam chủ yếu nhằm mục tiêu ban đầu là huy động và
điều hoàn nguồn vốn trong nội bộ tổng công ty, phục vụ sự phát triển của
tổng công ty trong một ngành, lĩnh vực nhất định (sau này phát triển thành các
tập đoàn kinh tế).
Hoạt động của các CTTC đồng thời cịn góp phần làm phong phú thêm
các dịch vụ tài chính - ngân hàng, đáp ứng nhu cầu phát triển đa dạng của thị
trường tài chính tiền tệ trong nền kinh tế thị trường. Cá biệt, một số CTTC đã
đạt những kết quả khả quan, tạo được vị thế trên thị trường, là các đối tác tin
tưởng của các định chế tài chính lớn trong nước và quốc tế.
Ở Việt Nam hiện nay có 18 CTTC đang hoạt động, trong đó có 12 cơng ty
trực thuộc các tổng cơng ty, tập đồn hiện có vốn chi phối của Nhà nước. Lợi thế
lớn nhất, vốn là xuất phát điểm để hình thành các CTTC trực thuộc tập đồn,
tổng công ty nhà nước là việc tận dụng vị thế "người nhà" để làm chức năng luân
chuyển nguồn lực tài chính giữa các đơn vị thành viên, đầu mối giúp thu xếp vốn
và tận dụng nguồn vốn nhàn rỗi giá rẻ ngay trong hệ thống.
Xét theo đặc thù trên thì 17 CTTC đang tồn tại ở Việt Nam, với thế
mạnh chủ yếu dựa vào vị thế "người nhà" trong cùng hệ thống. Tuy nhiên, giờ
đây, lợi thế này đang mất dần và CTTC phải cạnh tranh gay gắt với hệ thống
ngân hàng. Thực tế này buộc các CTTC phải thay đổi để để tồn tại, nhất là khi
vị thế của chính các cơng ty này trong cơng ty mẹ đang bị lung lay.
Như vậy, có thể thấy, khi nền kinh tế càng phát triển thì vai trị của
trung gian tài chính càng quan trọng. Cùng với các ngân hàng thương mại,
CTTC cũng góp phần tạo thêm một kênh dẫn vốn cho nền kinh tế, đáp ứng được nhu cầu vay vốn trung và dài hạn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các
doanh nghiệp nhỏ và vừa, phục vụ nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng của cá nhân...
10
c. Mơ hình hoạt động của CTTC
Theo quy định tại Nghị định số 79/2002/NĐ-CP về tổ chức và hoạt
động của CTTC thì CTTC được thành lập và hoạt động tại Việt Nam dưới các
hình thức :
- CTTC Nhà nước: là CTTC do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ
chức quản lý hoạt động kinh doanh.
- CTTC cổ phần: là CTTC do các tổ chức và cá nhân cùng góp vốn theo
quy định của pháp luật, được thành lập dưới hình thức Cơng ty cổ phần.
- CTTC trực thuộc của TCTD: là CTTC do một TCTD thành lập bằng
vốn tự có của mình và làm chủ sở hữu theo quy định của pháp luật, hạch tốn
độc lập và có tư cách pháp nhân.
- CTTC liên doanh: là CTTC được thành lập bằng vốn góp giữa bên Việt
Nam gồm một hoặc nhiều TCTD, doanh nghiệp Việt Nam và bên nước ngoài
gồm một hoặc nhiều TCTD nước ngoài, trên cơ sở hợp đồng liên doanh.
- CTTC 100% vốn nước ngoài: là CTTC được thành lập bằng vốn của
một hoặc của nhiều TCTD nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Việt Nam hiện nay có 18 CTTC đang hoạt động, trong đó có 08 Cơng
ty cổ phần có vốn góp của nhà nước, 04 công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên 100% vốn nhà nước và 06 công ty 100% vốn nước ngồi.
1.1.2 Hoạt động tín dụng và hoạt động tín dụng của CTTC
a. Hoạt động tín dụng
Tín dụng ra đời từ rất sớm, gắn liền với sự ra đời và phát triển của sản
xuất hàng hóa. Tín dụng xuất phát từ chữ Credit trong tiếng Anh có nghĩa là
lịng tin, sự tin tưởng, tín nhiệm. Tín dụng được diễn giải theo ngôn ngữ Việt
Nam là sự vay mượn.
11
Trong thực tế tín dụng hoạt động rất phong phú và đa dạng, nhưng ở
bất cứ dạng nào tín dụng cũng thể hiện hai mặt cơ bản: (1) Người sở hữu một
số tiền hoặc hàng hoá chuyển giao cho người khác sử dụng trong một thời
gian nhất định và (2) Đến thời hạn do hai bên thoả thuận, người sử dụng hoàn
lại cho người sở hữu một giá trị lớn hơn. Phần trăm tăng thêm được gọi là
phần lời hay nói theo ngơn ngữ kinh tế là lãi suất.
Trong đời sống, có nhiều hình thái tín dụng khác nhau. Tuy nhiên căn
cứ vào chủ thể trong quan hệ tín dụng, tín dụng được chia thành các loại: tín
dụng thương mại, tín dụng Nhà nước và tín dụng ngân hàng.
+ Tín dụng thương mại: Là quan hệ tín dụng giữa các nhà doanh nghiệp
được biểu hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hố. Hành vi mua bán chịu
hàng hóa được xem là hình thức tín dụng - người bán chuyển giao cho người
mua quyền sử dụng vốn tạm thời trong một thời gian nhất định, và khi đến
thời hạn đã được thỏa thuận, người mua phải hoàn lại vốn cho người bán dưới
hình thức tiền tệ và cả phần lãi cho người bán chịu.
Trong nền kinh tế thị trường, hiện tượng thừa thiếu vốn của các nhà
doanh nghiệp thường xuyên xảy ra, vì vậy hoạt động của tín dụng thương mại
một mặt đáp ứng nhu cầu vốn của những nhà doanh nghiệp tạm thời thiếu
vốn, đồng thời giúp cho các doanh nghiệp tiêu thụ được hàng hố của mình.
Mặt khác sự tồn tại của hình thức tín dụng này sẽ giúp cho các nhà doanh
nghiệp chủ động khai thác được nguồn vốn nhằm đáp ứng kịp thời cho hoạt
động sản xuất kinh doanh.
+ Tín dụng nhà nước: Là quan hệ tín dụng giữa nhà nước với doanh
nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội và các cá nhân. Tín dụng nhà nước xuất
hiện nhằm thỏa mãn những nhu cầu chi tiêu của ngân sách nhà nước trong
điều kiện nguồn thu khơng đủ để đáp ứng; nó cịn là cơng cụ để nhà nước hỗ
12
trợ cho các ngành kinh tế yếu kém, ngành mũi nhọn và khu vực kinh tế kém
phát triển, và là công cụ quan trọng để nhà nước quản lý, điều hành vĩ mơ.
+ Tín dụng ngân hàng: Là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các TCTD
khác với các nhà doanh nghiệp và cá nhân. Trong nền kinh tế ngân hàng đóng
vai trị là một tổ chức trung gian, trong quan hệ tín dụng nó vừa là người cho
vay đồng thời là người đi vay. Với tư cách là người đi vay, ngân hàng nhận
tiền gửi của các nhà doanh nghiệp, cá nhân hoặc phát hành chứng chỉ tiền gửi,
trái phiếu để huy động vốn trong xã hội. Với tư cách là người cho vay, nó
cung cấp tín dụng cho các nhà doanh nghiệp và cá nhân. Khác với tín dụng
thương mại, được cung cấp dưới hình thức hàng hố, tín dụng ngân hàng
được cung cấp dưới hình thức tiền tệ - bao gồm tiền mặt và bút tệ.
b. Hoạt động tín dụng của CTTC
Hoạt động tín dụng của CTTC là hình thức tín dụng ngân hàng. Do đó,
hoạt động tín dụng của CTTC mang đầy đủ các đặc điểm của tín dụng ngân
hàng. Cụ thể như sau:
- Về chủ thể, một bên tham gia giao dịch là TCTD có đủ điều kiện theo
quy định của pháp luật. Chủ thể này tham gia giao dịch với tư cách là bên cho
vay (chủ nợ) và có quyền địi hồn trả từ bên vay (con nợ) khi hợp đồng đáo hạn.
- Về nguồn vốn, các TCTD khi cấp tín dụng cho khách hàng dựa vào
nguồn vốn tự có và nguồn vốn huy động của tổ chức, cá nhân. Đặc điểm này cho
phép phân biệt hoạt động tín dụng của các TCTD với hoạt động tín dụng của
Ngân hàng nhà nước với đặc tính nguồn vốn cho vay là vốn dự trữ phát hành.
- Về phương tiện cho vay: Tín dụng ngân hàng thực hiện cho vay dưới
hình thức tiền tệ. Đây là đặc điểm phân biệt tín dụng ngân hàng với tín dụng
thương mại.
13
Tuy nhiên, đối với CTTC, hoạt động tín dụng có sự khác biệt nhất định
so với các ngân hàng thương mại.
Thứ nhất, trong khi CTTC chỉ được thực hiện một số hoạt động ngân
hàng như nội dung kinh doanh thường xun thì ngân hàng thương mại được
thực hiện tồn bộ các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác
liên quan. Ngân hàng thương mại được huy động vốn bằng tất cả các loại tiền
gửi: tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, của tất cả
chủ thể là tổ chức và cá nhân... trong khi đó TCTD là CTTC chỉ được phép
nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên của tổ chức, cá nhân theo Luật các
TCTD số 07/1997/QH10 và hiện nay là chỉ được nhận tiền gửi của tổ chức
(theo luật các TCTD số 47/2010/QH12). Nói cách khác Ngân hàng thương
mại thường thu gom những món tiền nhỏ để cho vay với món tiền lớn, cịn
CTTC thường đi vay những món tiền lớn để cho vay cả những món tiền nhỏ.
Vì lẽ đó, hoạt động cho vay của CTTC rất thích hợp với doanh nghiệp và
người tiêu dùng.
Thứ hai, CTTC khơng được thực hiện dịch vụ thanh tốn như ngân
hàng thương mại. Nghĩa là không được phép cung ứng các phương tiện thanh
tốn, khơng được thực hiện dịch vụ thanh tốn trong nước cho khách hàng,
khơng được thực hiện các dịch vụ thu hộ và chi hộ...
Thứ ba, các ngân hàng thương mại có phạm vi, chức năng hoạt động
lớn hơn CTTC. Hoạt động của ngân hàng thương mại tập trung vào các đối
tượng khách hàng từ cá nhân đến các doanh nghiệp với các hoạt động huy
động vốn không kỳ hạn và mọi kỳ hạn, được mở tài khoản thanh toán và thực
hiện chức năng thanh toán cho khách hàng, được thực hiện hoạt động tín dụng
và cung cấp các sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Như vậy, ngân hàng thương
mại hoạt động chủ yếu với chức năng bán lẻ. Để thực hiện chức năng bán lẻ,
14
ngân hàng thương mại thiết lập hệ thống các chi nhánh, phòng giao dịch rộng
khắp tại các địa bàn ngân hàng hoạt động. Còn đối với CTTC, do bị hạn chế
về việc huy động nguồn vốn, hạn chế về việc khơng được mở tài khoản thanh
tốn nên đối tượng khách hàng của CTTC không lớn như ngân hàng thương
mại. Mạng lưới hoạt động của CTTC gọn nhẹ, CTTC chỉ mở các chi nhánh,
văn phòng đại diện, phòng giao dịch tại các địa bàn tập trung khách hàng của
công ty.
1.2 Pháp luật về hoạt động tín dụng của CTTC
Để CTTC xuất hiện, tồn tại và hoạt động hiệu quả ngoài những yếu tố
như sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp và hộ
gia đình, trình độ của đội ngũ cán bộ …thì pháp luật điều chỉnh tổ chức hoạt
động của CTTC đóng vai trị hết sức quan trọng. Có thể coi pháp luật là yếu
tố quan trọng hàng đầu làm cơ sở để CTTC phát triển một cách ổn định và an
toàn, bảo vệ quyền lợi các bên.
Nhà nước bằng các văn bản pháp luật đã định hình nên mơ hình tổ chức
của CTTC nhưng để mơ hình này thực sự đi vào thực tiễn hoạt động có hiệu
quả thì phải quy định cho nó các chức năng nhiệm vụ, phạm vi hoạt động rõ
ràng. Sự quy định pháp luật về CTTC do đó là vô cùng cần thiết. Nằm trong
hệ thống các tổ chức trung gian tài chính, lấy hoạt động Ngân hàng là hoạt
động kinh doanh chủ yếu, CTTC là nơi diễn ra q trình tích tụ, điều hịa
nhiều loại nguồn vốn, góp phần thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Mặt
khác, các quan hệ nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng phần lớn tiềm ẩn nguy cơ
rủi ro cao, tác động có tính dây chuyền đến lợi ích của nhiều loại chủ thể
trong nền kinh tế. Do vậy sự ổn định và phát triển của hệ thống các TCTD
trong đó có CTTC là một trong những điều kiện cơ bản ảnh hưởng tới quá
trình phát triển của nền kinh tế - xã hội.
15
Pháp luật về hoạt động tín dụng được hiểu là tất cả các quy định của
pháp luật liên quan đến hoạt động tín dụng của CTTC, và có thể chia thành
hai phần:
- Pháp luật về việc huy động vốn để cấp tín dụng của CTTC.
- Pháp luật về các hình thức cấp tín dụng của CTTC như: cho vay, chiết
khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác.
Việc ban hành các quy định pháp luật về CTTC là yêu cầu khách quan
và rất cần thiết. Pháp luật về CTTC giúp chính CTTC biết mình được phép
làm gì, khơng được phép làm gì, và làm như thế nào. Việc này tạo nên một
chuẩn mực pháp lý để các hoạt động của CTTC ăn khớp với guồng quay của
bộ máy tài chính quốc gia, thực hiện tốt các chính sách tiền tệ của ngân hàng
Nhà nước, tạo điều kiện tốt nhất cho Nhà nước quản lý tổ chức và hoạt động
của CTTC, từ đó nhanh chóng có những biện pháp quản lý và điều chỉnh phù
hợp với yêu cầu của thực tế. Thực hiện tốt các quy định của pháp luật, các
CTTC cũng tránh được các tranh chấp phát sinh trong quá trình hoạt động
giữa chúng với cá chủ thể khác trong nền kinh tế.
1.2.1 Pháp luật về việc huy động vốn của CTTC
Vốn kinh doanh của các CTTC chủ yếu là từ nguồn huy động. Vì thế
nghiệp vụ huy động vốn là nghiệp vụ kinh doanh quan trọng trong các nghiệp
vụ kinh doanh của các CTTC. Trong các thời điểm khác nhau, có nhiều thay
đổi về pháp luật điều chỉnh hoạt động huy động vốn của CTTC. Tuy nhiên,
nhìn chung, qua Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và CTTC ngày 23
tháng 5 năm 1990, Luật các TCTD số 07/1997/QH10, Luật các TCTD số
47/2010/QH12 thì CTTC được huy động vốn với các hình thức: Nhận tiền gửi,
phát hành giấy tờ có giá, vay vốn giữa các TCTD và tiếp nhận vốn uỷ thác.
16
a) Huy động vốn bằng nhận tiền gửi
Nhận tiền gửi là hình thức huy động vốn dễ dàng, nhanh chóng, đơn
giản, tiện lợi, thường xun, tốn ít chi phí. Thơng qua hoạt động này đem lại
cho CTTC một nguồn vốn để cấp tín dụng và tiến hành các hoạt động kinh
doanh khác như: Cấp tín dụng, đầu tư… Thơng qua nhận tiền gửi, các CTTC
được nhiều khách hàng biết đến, từ đó mở rộng được các hoạt động kinh
doanh, nắm bắt được những thơng tin, tư liệu về tình hình tài chính của các tổ
chức kinh tế và cá nhân có quan hệ tín dụng với CTTC, tạo điều kiện cho
CTTC có căn cứ xác định mức vốn cho vay đối với khách hàng đó.
Trước đây, theo Luật các TCTD 1997, các Ngân hàng thương mại được
huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi từ các tổ chức, cá nhân với mọi kỳ
hạn, còn CTTC được phép nhận tiền gửi từ các tổ chức, cá nhân với kỳ hạn từ
một năm trở lên. Quy định này nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh doanh
của các CTTC. Do các khoản tiền gửi trung và dài hạn là các khoản vốn nhàn rỗi
của các tổ chức và cá nhân nên nó mang tính ổn định cao. Thời gian gửi dài giúp
các CTTC có thời gian thu xếp sử dụng vốn huy động đạt hiệu quả, đảm bảo khả
năng chi trả của các TCTD và đảm bảo lợi ích của người gửi tiền.
Luật các TCTD số 47/2010/QH12 được ban hành và thay thế Luật các
TCTD số 07/1997/QH10 với quy định mới về hoạt động nhận tiền gửi của
CTTC. Theo đó, trong khi các Ngân hàng thương mại vẫn được phép nhận
tiền gửi của các tổ chức, cá nhân dưới mọi hình thức như trước đây thì CTTC
chỉ được nhận tiền gửi của tổ chức. Nói cách khác, kể từ ngày Luật các TCTD
số 47/2010/QH12 có hiệu lực, CTTC khơng cịn được nhận tiền gửi của các
khách hàng là cá nhân. Đối với việc nhận tiền gửi của tổ chức, Luật các
TCTD không quy định về kỳ hạn nhận tiền gửi, do đó có thể hiểu CTTC được
nhận tiền gửi của tổ chức cho mọi kỳ hạn.
17
Với quy định mới này, ranh giới phân biệt hoạt động giữa ngân hàng và
TCTD phi ngân hàng được làm rõ hơn. Tiêu chí phân biệt này cũng phù hợp
với thông lệ áp dụng tại hầu hết các nước và tạo điều kiện để một mặt giảm bớt
được rủi ro cho hệ thống ngân hàng, mặt khác cho phép các CTTC, cơng ty cho
th tài chính được mở rộng phạm vi cung ứng các dịch vụ ngân hàng khác của
mình do các quy định về an toàn sẽ được áp dụng ở mức độ thấp hơn so với các
ngân hàng thương mại là những tổ chức nhận tiền gửi của dân cư và tham gia
vào hệ thống thanh toán. Trên thực tế, việc các CTTC không được nhận tiền
gửi của cá nhân sẽ đảm bảo an toàn trong cho nhân dân trong việc gửi tiền tại
các TCTD. Bởi vì tiền gửi là của cải chủ yếu, thuộc sở hữu của số đơng dân cư,
là lợi ích của những người gửi tiền nhỏ, có ít thơng tin, hạn chế năng lực về
lĩnh vực tài chính ngân hàng. “Làn sóng” người gửi tiền làm sụp đổ từng ngân
hàng hay hệ thống ngân hàng cũng chủ yếu do họ tạo nên.
Ngoài ra, theo quy định tại Thông tư số 01/2013/TT-NHNN sửa đổi
Thông tư số 21/2012/TT-NHNN quy định về hoạt động cho, đi vay; mua, bán
có kỳ hạn giấy tờ có giá giữa TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngồi thì việc
gửi tiền, nhận tiền gửi giữa các TCTD, trong đó có các CTTC đã bị siết chặt.
Theo đó, CTTC khơng được thực hiện các hoạt động nhận tiền gửi (trừ tiền
gửi thanh toán và các giao dịch gửi tiền, nhận tiền gửi có kỳ hạn tối đa là 03
tháng) của các TCTD và chi nhánh ngân hàng nước ngồi khác kể từ ngày
Thơng tư này có hiệu lực thi hành. Ngồi ra, việc nhận tiền gửi từ các TCTD
khác của CTTC phải được thực hiện tại trụ sở chính của CTTC và chỉ được
thực hiện khi đáp ứng các điều kiện: Phải có quy định nội bộ về quy trình
nghiệp vụ, quy trình quản lý rủi ro đối với các hoạt động nhận tiền gửi; Tại
thời điểm thực hiện giao dịch nhận tiền gửi khơng được có các khoản nợ q
hạn từ 10 ngày trở lên tại TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác, trừ
trường hợp được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cho phép nhận tiền gửi.
18
Do đó, có thể thấy rằng, việc huy động vốn bằng hình thức nhận tiền
gửi của CTTC đã bị giới hạn so với các quy định trước đây và các CTTC sẽ
gặp những khó khăn nhất định trong q trình huy động vốn để cấp tín dụng.
b) Huy động vốn bằng phát hành các loại giấy tờ có giá
Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức
phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời gian
nhất định, điều kiện trả lãi và những điều kiện khác.
Căn cứ vào thời hạn phát hành, giấy tờ có giá được phân thành giấy tờ
có giá ngắn hạn và giấy tờ có giá dài hạn. Giấy tờ có giá ngắn hạn là giấy tờ
có giá có thời hạn dưới một 1 năm bao gồm kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi ngắn
hạn, tín phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác. Giấy tờ có giá dài hạn là
giấy tờ có giá có thời hạn từ một năm trở lên, bao gồm trái phiếu, chứng chỉ
tiền gửi dài hạn và các giấy tờ có giá dài hạn khác.
Ngồi ra, giấy tờ có giá cịn được phân thành giấy tờ có giá ghi danh và
giấy tờ có giá vơ danh. Giấy tờ có giá ghi danh là giấy tờ có giá phát hành
theo hình thức chứng chỉ hoặc ghi sổ có ghi tên người sở hữu. Giấy tờ có giá
vơ danh là giấy tờ có giá phát hành theo hình thức chứng chỉ không ghi tên
người sở hữu. Giấy tờ có giá vơ danh thuộc quyền sở hữu của người nắm giữ
giấy tờ có giá.
Theo Điều 46 Luật các TCTD 1997, giống như các Ngân hàng thương
mại, các CTTC được phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá
khác để huy động vốn của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước sau khi
được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chấp thuận. Tuy nhiên, Luật các TCTD
2010 đã có sự phân biệt giữa hai loại hình TCTD này. Theo đó, Ngân hàng
thương mại được phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu
để huy động vốn từ các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài (Điều 98),
19