ĐỀ TÀI: THỰC TRẠNG VIỆC SỬ DỤNG TÊN RIÊNG
TIẾNG NƯỚC NGOÀI TRÊN BÁO BẮC NINH
CHƯƠNG MỘT: MỘT SỐ LÝ LUẬN
VỀ NGƠN NGỮ BÁO CHÍ TRUYỀN THƠNG VÀ TÊN RIÊNG
I. Mợt số lý luận về ngôn ngữ và ngôn ngữ báo chí trùn thơng
1. Khái niệm ngơn ngữ:
Ngơn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt và quan trọng bậc nhất của lồi
người, là phương tiện tư duy và cơng cụ giao tiếp xã hội. Ngôn ngữ là một loại hệ
thống tín hiệu bao gồm hai mặt, mặt hình thức và mặt nội dung. Ngơn ngữ bao
gồm ngơn ngữ nói và ngơn ngữ viết, trong thời đại hiện nay, nó là công cụ quan
trọng nhất của sự trao đổi văn hố giữa các dân tộc. Ngơn ngữ là phương tiện giao
tiếp quan trọng nhất của xã hội, và là công cụ tư duy của con người, Ngơn ngữ học
có khía cạnh tâm lý học, ngơn ngữ có vai trị nhiều nhân tố: xã hội, tâm lý, dân tộc.
Ngôn ngữ học tâm lý nghiên cứu những mối quan hệ qua lại giữa nhân cách với
cấu trúc chức năng của hd ngôn ngữ. Về một khía cạnh khá giữa nhân cách với
ngơn ngữ như yếu tố cấu thành hình thành thế giới của con người. Qua nghiên cứu
ngôn ngữ tâm lý học sẽ thấy được đặc điểm tâm lý của một cộng đồng bản ngữ, và
qua đó sẽ thấy được “trong ngữ nghĩa của mỗi ngôn ngữ tự nhiên đều hàm chứa
một cách nhìn thế giới của mỗi cộng đồng bản ngữ đó đối với sự vật hiện tượng
xung quanh họ”. Ngơn ngữ tâm lý học phát hiện ra những đặc điểm và bản sắc tâm
lý, bức tranh thế giới quan của một cộng đồng “thế giới nội quan” hay thế giới bên
ngồi. “Ngơn ngữ là linh hồn của dân tộc”, qua ngôn ngữ mỗi cộng đồng bản ngữ
thể hiện được thế giới quan tâm linh của mình, đồng thời thế giới quan tâm linh
cũng làm ngôn ngữ phát triển, kho tàng kinh sách là một ví dụ điển hình về điều
này.
2. Tính chất của ngơn ngữ báo chí:
Chức năng cơ bản, có vai trị quan trọng hàng đầu của báo chí là thơng tin.
Báo chí phản ánh hiện thực thông qua việc đề cập tới các sự kiện, tức nếu khơng có
sự kiện thì khơng thể có tin tức báo chí. Do đó, nét đặc trưng nhất của ngơn ngữ
báo chí chính là có tính sự kiện. Chính nó đã tạo nên ở ngơn ngữ báo chí những
tính chất sau:
2.1.Tính chính xác:
Đối với ngơn ngữ báo chí, đây là tính chất đặc biệt quan trọng vì báo chí có
chức năng định huwogns dư luận xã hội. Chỉ cần một sơ suất nhỏ trong sử dụng
ngôn ngữ cũng có thể làm cho độc giả hiểu sai thơng tin, thậm chí gây ra những
hậu quả xã hội nghiêm trọng khơng lường trước được.
2.2. Tính cụ thể:
Tính cụ thể của ngơn ngữ báo chí được hiểu là khi nhà báo mô tả, tường
thuật sự việc phải cụ thể, cặn kẽ đến từng chi tiết nhỏ. Có như vậy người đọc mới
có cảm giác như người trong cuộc, đang trực tiếp chứng kiến những gì nhà báo đề
cập tới trong bài báo.
Mỗi sự kiện trong báo chí phải gắn liền với một không gian, thời gian xác
định, những con người xác định. Do đó, trong ngơn ngữ báo chí cần hạn chế tối đa
việc sử dụng những ngơn từ có tính chất mơ hồ như: “một người nào đó”, “ở một
nơi nào đó”, “vào khoảng”, “hình như”…
2.3. Tính đại chúng:
Báo chí là một phương tiện truyền thông đại chúng. Tất cả mọi người trong
xã hội, khơng phụ thuộc trình độ, nhận thức, nghề nghiệp, lứa tuổi, địa vị xã hội
đều alf đối tượng phục vụ của báo chí. Đây vừa là nơi họ tiếp nhận thông tin, vừa
là nới để họ bày tỏ ý kiến. Chính vì thế, ngơn ngữ báo chí phải là thứ ngơn ngữ
dành cho đại chúng, có tính phổ cập rộng rãi.
2.4. Tính ngắn gọn:
Ngơn ngữ báo chí cần ngắn gọn, xúc tích. Sự dài dịng có thể làm lỗng
thơng tin, ảnh hưởng đến hiệu quả tiếp nhận của công chúng. Thêm vào đó, nó cịn
làm tốn thời gian của cả người viết lẫn người đọc, dễ dẫn tới những lỗi sai về ngơn
từ.
2.5. Tính định lượng:
Tính định lượng tức là các tác phẩm báo chí thường bị giới hạn về mặt thời
gian hay diện tích xuất hiện trên báo. Vì thế, việc lựa chọn và sắp xếp các thành tố
ngôn ngữ cần kỹ lượng, hợp lý để pahnr ánh đầy đủ lượng sự kiện mà không vượt
quá khung cho phép về thời gian và khơng gian.
2.6. Tính biểu cảm:
Tính biểu cảm trong ngơn ngữ báo chí gắn liền với những từ ngữ mới la,
giàu hình ảnh, in đậm dấu ấn cá nhân. Nếu ngơn ngữ báo chí khơng có tính biểu
cảm, chỉ là chuỗi những thơng tin khơ khan nó khó có thể thu hút được sự chú ý
của độc giả. Tính biểu cảm tác động mạnh mẽ tới tâm hồn người nghe, làm cho họ
có những trạng thái cảm xúc nhất định theo như người viết mong đợi.
2.7.Tính khn mẫu:
Tính khn mẫu của báo chí thường trả lời cho các câu hỏi ai, cái gì, khi
nào, ở đâu, bao giờ, tại sao, như thế nào.
Yếu tố khuôn mẫu không đi một mình. Nó thường được kết hợp với yếu tố
biểu cảm, nên ngơn ngữ báo chí thường mềm mại, hấp dẫn chứ khơng hề khơ khan
như một văn bản hành chính hay một văn bản khoa học.
3. Sự chuẩn mực của ngơn ngữ báo chí:
Chuẩn mực ngơn ngữ là một vấn đề lớn trong ngơn ngữ học. Nó được xem
xét trên hai phương diện: Chuẩn phải mang tính chất quy ước xã hội tức là phải
được xã hội chấp nhận và sử dụng. Mặt khác chuẩn phải phù hợp với quy luật phát
triển nội tại của ngôn ngữ trong từng giai đoạn lịch sử.
Chuẩn ngôn ngữ có những quy luật và cách sử dụng tồn tại khách quan trong
một giai đoạn, trong một công đồng người và mang tính bắt buộc tương đối đối với
các thành viên tỏng cộng đồng. Nhưng do ngôn ngữ luôn vận động nên chuẩn
chung không những không loại trừ mà còn cho phép những biến thể khác nhau
được sử dụng cùng với chuẩn.
Do đó, ngơn ngữ báo chí cũng phải có chuẩn mực riêng của nó.
II. Ngơn ngữ của tên riêng trên báo chí
1. Khái niệm và phân loại:
Tên riêng là những đơn vị địa danh một cá thể người, vật, sự kiện, địa điểm
(quốc gia, thu đô, sông, núi, vùng đất…., tổ chức (tổ chức chính trị - xã hội, cơ
quan, trường học, bệnh viên, công ty, doanh nghiệp….).
Cho đến nay, trên báo chí tiếng Việt xuất hiện rất nhiều loại tên riêng, nhưng
có thể quy về thành bốn loại chính:
- Tên riêng tiếng Việt
- Tên riêng tiếng dân tộc
- Tên riêng tiếng nước ngoài
- Tên riêng tiếng nước ngoài và tiếng Việt hoặc ngược lại.
Mỗi loại tên riêng như vậy có những nét đặc thù và được hành chức theo lối
riêng. Do hiện nay chưa có được một mẫu quy chuẩn chung cần thiết cho việc thể
hiện các loại tên riêng trên báo chí cho nên tình hình dăng tỉa cả bốn loại tên riêng
này đều chưa được thống nhất.
Trong số 4 loại tên riêng trên thì loại thứ ba có tần số xuất hiện cao nhất, có
số lượng lớn nhất và được dung thiếu thống nhất nhất trên báo chí. Loại tên riêng
này, tự bản thân nó cũng có nhiều vấn đề cần phải được khảo sát ở cả phương diện
lý luận lẫn phương diện thực tiễn. Chính vì vậy trong khuôn khổ tiểu luận, sẽ tập
trung làm rõ những vấn đề căn bản về loại tên riêng này.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TÊN RIÊNG TIẾNG NƯỚC NGOÀI
TRÊN BÁO BẮC NINH
I. Tên riêng tiếng ngồi:
Cũng như trong các ngơn ngữ khác, tên riêng tiếng nước ngoài trong tiếng
Việt là một hiện tượng tất yếu của tiếp xúc ngôn ngữ trong quá giao lưu giữa các
dân tộc. Tuy nhiên, ở các ngôn ngữ khác nhau, sự hiện diện của tên riêng tiếng
nước ngồi có những mức độ khác nhau đối với người sử dụng. Tiếng Việt là một
ngôn ngữ đơn âm, trong khi tên riêng tiến nước ngoài phần lớn lại thuộc các ngơn
ngữ đa âm. Bên cạnh đó về mặt xã hội và lịch sử, khó khăn đó càng lớn đối với
những độc giả của báo chí vốn khơng hoặc ít biết về một loại ngoại ngữ nào đó. Do
vậy một trong những nhiệm vụ của báo chí là phải giảm thiểu được trở ngịa đó
trong q trình cung cấp thơng tin cho độc giả dưới dạng tên riêng tiếng nước
ngoài. Giảm thiểu khơng có nghĩa là thay thế chúng, là giản lược chúng mà vấn đề
là thể hiện nó như thế nào bằng tiếng Việt trên báo chí cho độc giả Việt Nam.
Là một tờ báo Đảng địa phương nên việc sử dụng tên riêng tiếng nước ngoài
trên Báo Bắc Ninh vẫn còn nhiều hạn chế trong việc thống nhất, chưa có một quy
chuẩn chung. Báo Bắc Ninh ra hàng ngày với 8 trang báo, trong đó trang 7 được sử
dụng để đăng tin, bài quốc tế. Những tin, bài quốc tế đa số được lấy lại từ các trang
báo mạng điện tử như: Dân Trí, Tuổi Trẻ, 24h.com nên việc sử dụng tên riêng tiếng
nước ngồi cịn lộn xộn đơi khi thiếu chính xác, thiếu nhất qn. Những tên riêng
được viết theo âm Hán-Việt vẫn được dùng phổ biến chính thức: Pháp, Mỹ, Anh,
Nhật, Ba Lan, Triều Tiên, Nga. Ngoài tên người, tên đất hiện nay trên Báo Bắc
Ninh còn thấy sự hiện diện với tần số cao trên mặt báo tên các tổ chức quốc tế, các
hãng thơng tấn báo chí, tên nhiều cơng ty, tập đồn tài chính - kinh tế, tổ chức
thương mại của nước ngồi, những tên riêng đó thuộc rất nhiều loại hình ngôn ngữ
khác nhau, không chỉ những tến riêng thuộc những ngôn ngữ vốn quen thuộc với
độc giả Việt nam như tên riêng tiếng Hán, tiếng Nga, tiếng Pháp, tiếng Anh.
II. Thực trạng sử dụng tên riêng tiếng nước ngoài trên Báo Bắc Ninh
Việc sử dụng tên riêng tiếng nước ngoài trên báo Bắc Ninh trong những năm
qua nổi lên vấn đề đăng tải tên riêng thiếu nhất quán, lộn xộn. Một số trường hợp
lạm dụng tiếng Anh hoặc sử dụng nửa tiếng Anh, nửa tiếng Việt gây cho bạn đọc
sự khó chịu. Tình trạng này làm cho tiếng Việt bị mất đi sự trong sáng, thậm chí bị
biến dạng. Điều đáng báo động là xu hướng này đang ngày càng thịnh hành, nhất
là thói quen sử dụng tiếng Anh thay cho tiếng Việt ngay cả trong những trường hợp
không cần thiết.
Ví dụ: Chương trình “Về miền Quan họ” được tổ chức tại Bắc Ninh thì sử
dụng là festival mà khơng sử dụng là liên hoan…
Tuy nhiên do sự hội nhập ngày càng sâu rộng với quốc tế, tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội, trong đó có ngơn ngữ cũng tham gia mạnh mẽ vào quá trình
hội nhập ấy. Có những từ tiếng Anh chúng ta khó có thể thay thế bằng các từ thuần
Việt như: fax, mail, website, facebook… Trong trường hợp nếu cố tình thay thế,
chúng ta sẽ có cách diễn đạt dài dịng, thậm chí là khơng chính xác, khơng rõ
nghĩa. Với sự xuất hiện ngày càng dày đặc các từ nước ngoài trên báo nay đã trở
nên quen thuộc với số đơng đã góp phần cho sự diễn đạt chính xác và làm phong
phú thêm cho ngơn ngữ Việt nói chung và ngơn ngữ báo chí nói riêng.
Chúng ta cũng khơng loại trừ việc sử dụng những từ ngữ nước ngoài trong
những trường hợp khơng thể dùng tiếng Việt, hoặc nếu cố tình sử dụng tiếng Việt
sẽ làm cho câu chữ dài dịng, khơng nói hết nghĩa của từ và thuật ngữ. Chẳng hạn
trong việc sử dụng mạng thơng tin điện tử thì dùng mail, fax, hacker, gameshow,
forum … Hoặc trong hệ thống các trang blog hoàn tồn mang tính cá nhân thì
người chủ các blog có thể dùng từ theo ý thích của họ. Chẳng hạn dùng entry,
comment, post, up… thay cho các từ tiếng Việt tương đương, bởi chúng chỉ giới
hạn trong phạm vi cá nhân hoặc trong một bộ phận người dùng. Tuy nhiên, nếu quá
lạm dụng và nhân bản ra với cả các loại hình báo chí chính thống khác thì chắc
chắn là sẽ loạn ngơn ngữ, bởi cái gì cũng có giới hạn của nó.
Việc sử dụng khơng chính xác hoặc sai khi sử dụng từ Hán – Việt hoặc từ
gốc Hán đôi khi vẫn diễn ra. Một số tác giả vẫn sai lầm khi coi yếu điểm (theo Từ
điển là điểm chính, quan trọng nhất) đồng nghĩa với yếu kém, khuyết điểm; hoặc
lạm dụng tính từ khiêm tốn (theo Từ điển là có ý thức và thái độ đúng mức trong
việc đánh giá bản thân, không tự mãn, tự kiêu, không tự cho mình là hơn người) để
phản ánh chiều cao của cơ thể. Cứu cánh, theo Từ điển là danh từ chỉ mục đích
cuối cùng, nhưng có tác giả coi đồng nghĩa với động từ cứu giúp. Sáp nhập là động
từ chỉ việc nhập các đơn vị hành chính hay các cơ quan với nhau làm một nhưng
nhiều tác giả viết là sát nhập…
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Tiếng nói là thứ của cải lâu đời vô
cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải biết giữ gìn nó, q trọng nó, làm cho nó
phổ biến và ngày càng rộng khắp...!”. Tại Đại hội lần thứ III, Hội Nhà báo Việt
Nam, Người đã phê bình khuyết điểm của các báo là: Bài báo thường quá dài,
thường nói một chiều và đơi khi thổi phồng các thành tích, ít hoặc khơng nói đúng
mức đến khuyết điểm, đưa tin tức nhiều khi thiếu thận trọng, lộ bí mật, có khi quá
lố bịch…và “Khuyết điểm nặng nhất là dùng chữ nước ngồi q nhiều và nhiều
khi dùng khơng đúng”. Bác cho rằng “có những chữ ta khơng có sẵn và khó dịch
đúng, thì cần phải mượn chữ nước ngồi. Ví dụ: Độc lập, Tự do, Giai cấp, Cộng
sản, v.v…”, cịn những tiếng ta có thì khơng nên mượn tiếng nước ngồi, ví dụ
khơng nên gọi xe lửa là “hoả xa”, máy bay là “phi cơ”, đường lớn là “đại lộ”, giúp
đỡ là “hỗ trợ”, Nhà nước hoặc nước nhà là “quốc gia”…
Nhưng những năm gần đây việc dùng tiếng nước ngoài (nhiều khi khơng
phiên âm) trong các tác phẩm báo chí ngày càng nhiều, như: tuổi teen, mời khách
VIP, các fan của ca sĩ, nhạc hot, vụ scandal...làm cho câu văn rối rắm, khó hiểu,
khơng ít độc giả cảm thấy khó chịu. Nhiều trường hợp do tác giả không hiểu sâu
sắc ý nghĩa của những từ mình dùng nên có khi sai lệch, gây phản cảm cho người
đọc. Hiện nay, tên riêng tiếng nước ngồi trên báo chí xuất hiện nhiều dạng: Viết
nguyên dạng; viết theo tiếng Anh và tiếng Pháp (đã phổ biến trên sách báo nước
ngoài) đối với những tên riêng không dùng văn tự La Tinh; phiên âm (có dùng dấu
ngang nối và dấu thanh hoặc khơng); viết dưới dạng chuyển từng con chữ từ
nguyên dạng sang con chữ Việt tương đương (chuyển tự); viết dưới dạng tắt theo
quy ước quốc tế hoặc vừa dịch vừa viết tắt; hoặc viết kết hợp dịch – dạng tắt –
chưa nguyên dạng; viết theo âm Hán – Việt; viết dưới dạng dịch nghĩa v.v…
Tình trạng lộn xộn nhất mà Báo Bắc Ninh cũng như các báo chí khác của
Việt Nam tập trung vào 3 hình thức: phiên âm, để nguyên dạng, chuyển tự trong đó
chuyện phiên âm là vấn đề gây tranh cãi số một. Bởi cách phiên âm được thể hiện
dưới nhiều hình thức cực kỳ lộn xộn: viết liền hay viết rời; có dùng dấu ngang nối
hoặc viết liền; có dùng dấu thanh hay khơng dùng dấu thanh; phiên âm từ nguyên
ngữ hay qua một ngôn ngữ trung gian; sử dụng hay không sử dụng các chữ cái
trong hệ ký tự La Tinh khơng có trong bảng chữ cái tiếng Việt; sử dụng hay không
sử dụng phụ âm kép…
Hiện nay trên Báo Bắc Ninh vẫn còn sự mâu thuẫn giữa tên tiếng Anh và tên
gốc. Phần lớn các tên nước ngoài được ghi bằng tiếng Anh, nhưng một số thì lại
ghi theo tiếng Việt, như Libăng ít khi thấy trên báo ghi là Lebanon, Campuchia
không thấy ghi là Cambodia theo tiếng Anh… Vậy là hình thành 2 cách ghi tồn tại
song song: ghi theo tiếng Anh hoặc ghi theo tiếng Việt. Do khơng chuẩn hóa nên
cách ghi cũng hết sức lộn xộn
III. Nguyên nhân của thực trạng
Những năm qua, tên riêng tiếng nước ngoài đã được thể hiện theo các dạng
sau:
- Viết nguyên dạng:Australia, New York…
- Viết theo tiếng Anh và tiếng Pháp đối với những tên riêng
không dùng văn tự La Tinh: Boris Yelsin, Ucraine, Saudi Arabia…
- Phiên âm có dùng dấu ngang nối và dấu thanh hoặc không:
Mát-xcơ-va/ Ma-xcơ-va; Malayxia/Ma-lay-xi-a…
- Viết dưới dạng chuyển từng con chữ từ nguyên dạng sang chữ
Việt tương đương: K azaxctah/Kazakhxtan.
- Viết dưới dạng tắt theo quy ước quốc tế: UNESCO, FAO,
ADB… hoặc vừa dịch vừa viết tắt: LHQ (Liên hợp quốc), hoặc vừa kết
hợp dịch, dạng tắt và chữ nguyên dạng.
- Viết theo âm Hán – Việt: Ý, Úc, Hà Lan, Luân Đôn…
- Viết dưới dạng định nghĩa: Báo Sự thật, Tin tức, Tuần tin tức…
- Viết theo lối nửa vời hoặc là vừa phiên âm vừa viết nguyên
dạng: Ả-rập Saudi, hoặc vừa phiên âm vừa chuyển chữ: Lev Tonstooi,
hoặc là nửa dịch nghĩa, nửa phiên âm: Thượng Karabắc…
Như vậy là những kiểu viết như trên đã đưa tên riêng tiếng nước ngồi trên
báo chí đến tình trạng lơn xộn, đáng lo ngại. Trong đó riêng kiểu phiên âm đã tạo
ra nhiều biến thể nhất cho tên riêng và do vậy tên riêng đã vốn không rành rẽ đã
ngày càng trở nên rối rắm hơn. Nguyên nhân chính vẫn là các báo cùng dung kiểu
phiên âm nhưng trong những trường hợp cụ thể khác nhau các tên riêng ấy lại được
xử lý khác nhau, ít nhất là theo các dạng sau:
- Viết rời từng tiếng/âm tiết, dung dấu ngang nối hoặc viết liền.
- Đánh dấu thanh trên những tiếng/âm tiết có thể được hoặc khơng được làm
như vậy.
- Đặt dấu mũ trên một vài con chữ như ê, ô hoặc khong làm như vậy.
- Phiên âm qua một ngôn ngữ trung gian.
- Phiên âm âm vị học hoặc phiên âm ngữ âm học
- Phiên âm có kết hợp một số cải tiến cách viết phụ âm (dùng f thay cho ph,
thay d bằng z) hoặc chấp nhận một số tổ hợp phụ âm như xtr (Ơ-xtrây-li-a hoặc
khơng dùng làm như vậy tức là chỉ dùng 26 con chữ Latinh đơn giản, không dùng
thêm bất cứ con chữ nào hoặc dấu phụ nào.
IV. Giải pháp
Nhà nước nên ban hành tiêu chuẩn đọc – viết tên nước ngồi cho các đài
phát thanh, truyền hình, các tòa soạn báo của cả nước, quy định rõ cách viết tên
phiên âm, như trong các từ đa âm tiết thì có gạch nối giữa các âm tiết khơng, viết
hoa các chữ cái nào,… Quan trọng hơn là yêu cầu các báo đài phải thực hiện viết
ra phiên âm tiếng Việt, nếu cần thiết thì có thể mở ngoặc tên tiếng nước ngồi, có
quy định riêng về tên của các tổ chức quốc tế. Nếu các cơ quan truyền thông này vi
phạm thì sẽ có hình thức kỉ luật.
Nhà nước cần thống nhất cách đọc bảng chữ cái, từ tiểu học đến các cơ quan
truyền thơng báo chí.
u cầu các phương tiện truyền thông dịch tên (hoặc tạm dịch nếu chưa rõ
nội dung) phim, album ca nhạc… ra tiếng Việt, cần thiết thì mở ngoặc chú thích
thêm tên gốc. Nhiều khi bộ phim không phải của Anh Mĩ sản xuất, nhưng vẫn cứ
thích dùng tên tiếng Anh (như phim Lost in Beijing chẳng hạn – tại sao không dịch
từ tên tiếng Trung, thành “trái táo”?).
Bắt buộc các doanh nghiệp trong nước sử dụng tên tiếng Việt cho giao dịch
trong nước, khuyến khích các doanh nghiệp nước ngồi sử dụng tên tiếng Việt cho
sản phẩm khi giao dịch tại Việt Nam.
Đề nghị Nhà nước cũng nên có các qui định chặt chẽ, các cơ quan nhà nước,
chính phủ, các tổ chức, Viện Ngơn ngữ có trách nhiệm đề xuất cụ thể xây dựng
chuẩn ngơn ngữ nói chung và sử dụng từ nước ngồi nói riêng trong hệ thống các
loại văn bản, nhất là văn bản của nhà nước, trong trường học, trên báo chí …
Xét trên khía cạnh báo chí truyền thơng thì cần lưu tâm tới những điểm sau:
- Cần chú ý đến tình chất tức thời và rộng rãi của báo chí, đối với người làm
báo phải viết đơn giản, gọn, nhanh và nhất quán đễ đọc được chuẩn đối với phát
thanh viên và dễ đọc, dễ nhớ đối với cơng chúng.
- Báo chí chủ yếu phục vụ nhân dân, do vậy cần chú ý đến tâm lý ngôn ngữ
và truyền thống ngôn ngữ, khi gặp tên riêng tiếng nước ngồi nhiều âm tiết thì cần
sử dụng hình thức khu biệt, sử dụng dấu ngang nối để tách âm tiết.
- Cơ quan Báo Bắc Ninh nói riêng và báo chí nói chung cần tiến hành điều
tra xã hội học với đối tượng là công chúng độc giả chính của mình về khả năng của
họ trong tiếp nhận tên riêng tiếng nước ngoài, nên sớm soạn thảo và thống nhất về
quy định cho viêc dùng tên riêng tiếng nước ngồi trên báo chí tiếng Việt. Quy
định này sẽ tạo sự nhất quán cho những người làm báo có cơ sở để sử dụng hợp lý
hơn tên riêng tiếng nước ngoài.
Đối với nhà báo cần nắm vững những kiến thức cơ bản vê sử dụng tiếng Việt
bao gồm: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và phong cách.
- Nhà báo cần hạn chế tối đa việc vay mượn từ của nước ngồi. Nó khơng
chỉ gây cản trở đối với độc giả khơng biết ngoại ngữ mà cịn làm cho bài báo khó
hiểu khi dung sai nghĩa của từ.
- Nhà báo cần có một trình độ ngoại ngữ nhất định. Nó mang đến cho đội
ngũ làm báo nhiều ích lợi trong xu thế tồn cầu hóa hiện nay.
KẾT LUẬN
Sự bất cập trong việc sử dụng tên riêng và tên riêng tiếng nước ngồi trên
Báo Bắc Ninh là tình trạng chung của nhiều cơ quan báo chí hiện nay. Trong thực
trạng của tiếng Việt hiện hành khơng thể có giải pháp tối ưu duy nhất để áp dụng
cho tất cả các trường hợp, mà cần tiếp cận từ nhiều phía. Theo đó, chúng ta phải
tìm ra một quy tắc nhất quán để áp dụng và cần được nghiên cứu kĩ lưỡng. Sử dụng
5 ngơn ngữ chính thức của Liên hiệp quốc để viết tên đất tên người nước ngoài
theo nguyên gốc tiếng Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc và Tây Ban Nha trong các văn
bản tiếng Việt chính là một quy tắc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ngơn ngữ báo chí (2009), Vũ Quang Hào, Nhà xuất bản Thông tấn.
2. Ngôn ngữ học xã hội: những vấn đề cơ bản (1999), Nguyễn Văn Khang,
Nhà xuất bản Khoa học xã hội.
3. Bộ Giáo dục (1984), Quy định về chính tả tiếng Việt và về thuật ngữ tiếng
Việt ban hành kèm theo Quyết định số 240/QĐ ngày 05-3-1984.
4. Từ điển Hán Việt, Đào Duy Anh, Nhà xuất bản Văn hóa-Thơng tin
5. Ngữ pháp Việt Nam phần câu, Diệp Quang Ban, Nhà xuất bản Đại học Sư
phạm