Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

Áp dụng hình phạt tử hình từ thực tiễn các tỉnh miền trung, việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (320.44 KB, 82 trang )

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình xây dựng đề cương, nghiên cứu và hoàn thành luận văn
thạc sĩ, tác giả đã nhận được rất nhiều sự trợ giúp đến từ các thầy, các cô,
giảng viên Học viện khoa học xã hội - Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt
Nam. Đặc biệt, tác giả trân trọng bày tỏ sự biết ơn tới TS. Lại Viết Quang
người được Học viện phân công hướng dẫn luận văn; đã tận tình, tâm huyết
giúp đỡ hoàn thành đề tài. Qua đây, tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn chân
thành đến các thầy cô đã nhiệt tình giúp đỡ, hỗ trợ tác giả trong quá trình học
tập cũng như trong q trình nghiên cứu hồn thành đề tài luận văn thạc sĩ.
Xin gửi lời cảm ơn trân trọng đến Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng
đã tạo điều kiện hỗ trợ về thông tin, dữ liệu và tài liệu trong quá trình tác giả
thực hiện luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VÀ PHÁP LUẬT VỀ ÁP
DỤNG HÌNH PHẠT TỬ HÌNH............................................................................................. 9
1.1. Một số vấn đề chung về áp dụng hình phạt tử hình................................................ 9
1.2. Cơ sở, căn cứ và các nguyên tắc áp dụng hình phạt tử hình:..........................22
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TỬ HÌNH TẠI
TỊA ÁN NHÂN DÂN CÁC TỈNH MIỀN TRUNG, VIỆT NAM..................36
2.1. Những bất cập trong áp dụng hình phạt tử hình.................................................... 36
2.2. Thực tiễn áp dụng hình phạt tử hình tại Tịa án nhân dân các tỉnh Miền
Trung, Việt Nam............................................................................................................................... 45
CHƯƠNG 3. QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP
ĐẢM BẢO ÁP DỤNG ĐÚNG HÌNH PHẠT TỬ HÌNH TẠI TỊA ÁN
NHÂN DÂN CÁC TỈNH MIỀN TRUNG, VIỆT NAM........................................ 65
3.1. Quan điểm, định hướng về việc áp dụng đúng hình phạt tử hình trong
xét xử các vụ án hình sự.............................................................................................................. 65


3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng hình phạt tử hình tại Tịa án nhân
dân các tỉnh Miền Trung, Việt Nam....................................................................................... 68
KẾT LUẬN....................................................................................................................................... 74
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
- Bộ Luật hình sự:

BLHS

- Bộ Luật tố tụng hình sự:

BLTTHS

- Giám đốc thẩm:

GĐT

- Hội đồng Thẩm phán:

HĐTP

- Hội đồng Thẩm phán

HĐTP

- Hội đồng xét xử:

HĐXX


- Hội thẩm:

HT

- Hội thẩm nhân dân:

HTND

- Nghị định:



- Nghị quyết:

NQ

- Phúc thẩm – Hình sự phúc thẩm:

PT - HSST

- Sơ thẩm – Hình sự sơ thẩm:

ST - HSST

- Tái thẩm:

TT

- Thi hành án hình sự:


THAHS

- Tịa án nhân dân:

TAND

- Tòa án nhân dân tối cao:

TANDTC

- Tòa án quân sự:

TAQS

- Thông tư liên tịch:

TTLT

- Viện kiểm sát nhân dân:

VKSND

- Viện kiểm sát nhân dân tối cao:

VKSNDTC


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Số liệu án tử hình tại Tòa án nhân dân các tỉnh Miền Trung, Việt

Nam giai đoạn từ 2015-2019..................................................................................................... 46
Bảng 2.2: Tỷ lệ bị cáo bị xử tử hình tại từng Tịa án nhân dân các tỉnh Miền
Trung, Việt Nam so với tổng số bị cáo bị xử tử hình tại TAND 12 tỉnh Miền
Trung, Việt Nam từ 2015-2019................................................................................................ 49
Bảng 2.3: Tỷ lệ các tội danh có quy định hình phạt tử hình được TAND các
tỉnh Miền Trung, Việt Nam áp dụng để xét xử các bị cáo từ 2015-2019...........50


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tử hình là hình phạt đã có lịch sử từ lâu đời, là loại hình phạt đặc biệt,
nghiêm khắc nhất trong hệ thống các hình phạt được quy định trong Bộ luật
Hình sự. Đó là một hiện tượng xã hội mang tính khách quan, do điều kiện
Kinh tế xã hội cụ thể của một quốc gia quy định. Xu thế phát triển của nhân
loại là tiến tới loại bỏ hình phạt tử hình ra khỏi hệ thống các hình phạt trong
pháp luật hình sự. Phần lớn pháp luật hình sự các quốc gia Châu Âu và nhiều
nước có nền kinh tế tiên tiến trên thế giới khơng cịn quy định hình phạt tử
hình, phù hợp với những yêu cầu cụ thể về quyền sống, (quyền con người)
trong Luật nhân quyền quốc tế, trong Cơng ước quốc tế về quyền dân sự,
chính trị (ICCPR) được Đại hội đồng Liên hiệp quốc thông qua năm 1966, có
hiệu lực năm 1976, Việt Nam phê chuẩn năm 1982.
Mục đích của hình phạt là kết quả thực tế cuối cùng do Nhà nước đặt ra
và mong muốn đạt được; mục đích của hình phạt tử hình là ngăn ngừa người
bị kết án phạm tội mới (phòng ngừa riêng), ngăn ngừa người khác phạm tội
(ngăn ngừa chung). Đây không chỉ là vấn đề có tính pháp lý mà cịn là vấn đề
liên quan đến chính trị, chủ quyền quốc gia, văn hóa, xã hội, đạo đức, tơn
giáo, gây nhiều tranh cãi với rất nhiều quan điểm khác nhau trên thế giới cũng
như ở Việt Nam; là chủ đề có tính thời sự, nóng bỏng, các nước phương Tây
khơng ít lần gây khó dể với chúng ta, thậm chí là cái cớ, lợi dụng nhân quyền
để can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam.

So với các yêu cầu cụ thể về quyền sống (quyền con người) trong Luật
nhân quyền quốc tế, Pháp luật hình sự chúng ta vẫn còn một khoảng cách. So
với điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam hiện tại và trong tương lai của xu
thế tồn cầu hóa kinh tế và pháp luật thì chính sách hình sự (về hình phạt tử
hình) của chúng ta cần phải chọn lựa bước đi phù hợp vừa đảm bảo chủ quyền
quốc gia, nền kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa, bảo đảm quyền con người,
1


vừa bảo đảm hội nhập quốc tế; một bài toán khó phải tìm lời giải cả về
phương diện lý luận, pháp luật lẫn phương diện thực tiễn áp dụng pháp luật về
hình phạt tử hình.
* Xét về phương diện lý luận, pháp luật:
Có thể nói đã có hàng trăm cơng trình nghiên cứu trong nước và quốc tế
với rất nhiều quan điểm khác nhau tranh cãi về hình phạt tử hình. Các tranh
cãi chủ yếu xoay quanh vấn đề tính đạo đức và tính pháp lý của hình phạt tử
hình, có nên bỏ tử hình ra khỏi hệ thống hình phạt hay không. Đây là vấn đề
hết sức thời sự, có tính cấp bách cần phải được luận giải một cách khoa học.
* Về phương diện áp dụng pháp luật về hình phạt tử hình:
Trong thời gian qua, Tịa án cả nước đã tuyên án tử hình hàng nghìn bị
cáo. Trong đó, Tịa án nhân dân các tỉnh Miền Trung, Việt Nam đã xét xử
tuyên án tử hình 19 bị cáo. Việc xét xử của các Tòa án cơ bản đúng người,
đúng tội, đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội và hậu quả do bị cáo gây
ra. Tuy nhiên vẫn còn những sai lầm, hạn chế trong việc đánh giá chứng cứ,
xác định tính chất, mức độ hành vi phạm tội, hậu quả vụ án, các tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, từ đó quyết định hình phạt khơng chính
xác. Vì vậy việc xét xử tun án tử hình hay khơng tử hình một con người
phạm tội là việc hệ trọng, liên quan đến quyền con người, cần phải chính xác,
đây là một địi hỏi có tính cấp bách.
Từ những bất cập về phương diện lý luận, pháp luật và những hạn chế,

thiếu sót trong thực tiễn áp dụng pháp luật về hình phạt tử hình tại Tịa án nhân
dân các tỉnh Miền Trung, Việt Nam, cần có những giải pháp khoa học để khắc
phục trên cơ sở lấy thực tiễn kiểm nghiệm lý luận và pháp luật. Chính vì lẽ đó,
tác giả chọn đề tài “Áp dụng hình phạt tử hình từ thực tiễn các tỉnh miền Trung,
Việt Nam” với cách tiếp cận xã hội học, xã hội pháp luật làm nền tảng nghiên
cứu để góp phần luận giải những tồn tại từ các phương diện nêu trên.

2


2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Có thể nói dưới góc độ bảo vệ quyền con người, hình phạt tử hình là
một đề tài được rất nhiều nhà khoa học trong nước và quốc tế nghiên cứu với
nhiều quan điểm trái chiều nhau. Có thể viện dẫn một số cơng trình tiêu biểu
sau đây:
* Trong cuốn sách “Quyền sống và hình phạt tử hình” của Viện chính
sách công và pháp luật thuộc Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
(sách tham khảo), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - sự thật, 2015, các tác giả
sau đây đã nghiên cứu sâu về chủ đề này:
- GS.TSKH Lê Văn Cảm trong bài “Sửa đổi các quy định về hình phạt
tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam” đã đặt ra tính cấp thiết phải nghiên
cứu chủ đề này, giới thiệu các nhóm quan điểm duy trì, hạn chế và loại bỏ
hình phạt tử hình, gợi ý các giải pháp hoàn thiện và tiến tới loại bỏ hình phạt
tử hình ra khỏi pháp luật hình sự Việt Nam.
- GS.TSKH Đào Trí Úc, PGS.TS Vũ Cơng Giao trong bài “Quyền sống
trong Luật quốc tế và pháp luật Việt Nam” đã bàn sâu về hình phạt tử hình.
Các tác giả cho rằng phạm vi áp dụng hình phạt tử hình cịn rộng so với nhiều
nước trên thế giới và so với quan điểm của Liên hiệp quốc, vì vậy cần nghiên
cứu tiến tới xóa bỏ hình phạt tử hình ở nhiều tội danh như các tội phạm về ma
túy, xâm phạm quyền sở hữu, trật tự quản lý kinh tế…

- PGS.TS Vũ Công Giao trong bài “Những tranh luận chủ yếu về hình
phạt tử hình trên thế giới” đã phân tích sâu sắc các quan điểm trên thế giới về
hình phạt tử hình như: Tử hình có phải là biện pháp răn đe hiệu quả hơn các
hình phạt khác hay khơng? Có cần thiết hay khơng? Có trái hay phù hợp với
đạo đức, xã hội, với giáo lý của các tơn giáo? Có vi phạm quyền sống được
ghi nhận trong Luật nhân quyền quốc tế hay không?...
- TS. Trương Hồ Hải trong bài “Giảm hình phạt tử hình trong dự thảo
Bộ luật Hình sự sửa đổi, từ góc nhìn của cơng chúng và chun gia” đã giới
3


thiệu nhiều quan điểm của các chuyên gia và dự luận cơng chúng, trong đó đại
đa số cho rằng cần sửa đổi pháp luật hình sự theo hướng giảm hình phạt tử
hình, chỉ giữ lại các điều luật có hình phạt tử hình đối với các tội như giết
người, các tội về ma túy, tham ô…
- PGS.TS Trịnh Quốc Toản trong bài “Hình phạt tử hình trong Luật Hình
sự Việt Nam, một số kiến nghị hoàn thiện”; tác giả cho rằng dựa trên thực tế điều
kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam thì cần giảm bớt các tội phạm có quy
định về hình phạt tử hình và cần hồn thiện định nghĩa về hình phạt tử hình.

- PGS.TS Trương Thị Hồng Hà trong bài “Hình phạt tử hình và yêu cầu
cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay” đã đưa ra khái niệm về hình phạt tử
hình, giới thiệu chính sách hình sự về hình phạt tử hình ở Việt Nam, thực tiễn áp
dụng hình phạt tử hình ở Việt Nam và đề xuất áp dụng hình phạt tử hình trong
định hướng cải cách tư pháp “Hạn chế án tử hình trong Bộ luật Hình sự”.

- Nguyễn Văn Hồn trong bài “Chính sách, pháp luật của Việt Nam về
hình phạt tử hình” đã giới thiệu các tội danh quy định trong Bộ luật Hình sự
1999 có hình phạt tử hình và đề xuất hướng hồn thiện các điều luật có hình
phạt tử hình.

* Trong cuốn sách “Những điều cần biết về hình phạt tử hình” của
Trung tâm nghiên cứu quyền con người, quyền công dân”, Đại học quốc gia
Hà Nội - Khoa Luật do PGS.TS. Nguyễn Đăng Dung, GS.TS. Phạm Hồng
Thái, ThS. Vũ Công Giao, ThS. Lã Khánh Tùng biên soạn (Sách tham khảo),
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia 2009 đã giới thiệu một số nội dung lớn như:
Khái niệm và lịch sử của hình phạt tử hình, tranh luận về hình phạt tử hình,
vấn đề tơn giáo và hình phạt tử hình, vấn đề hình phạt tử hình trong Luật quốc
tế, thực trạng và diễn biến về áp dụng hình phạt tử hình trên thế giới, cách
thức thi hành án tử hình trên thế giới, vận động xóa bỏ và duy trì hình phạt tử
hình trên thế giới, hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam…đã
cho ta cái nhìn tổng quan về lý luận, pháp luật, thực tiễn áp dụng pháp luật
4


hình phạt tử hình và thi hành án tử hình.
* Thạc sĩ Võ Thị Thúy trong cuốn sách chuyên khảo “Hình phạt tử hình
trong Luật hình sự Việt Nam” - NXB Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí
Minh 2010 đã giới thiệu về lý luận, lịch sử hình thành hình phạt tử hình, các
quan điểm về hình phạt tử hình, thực tiễn áp dụng hình phạt tử hình và đưa ra
các kiến nghị cần thu hẹp phạm vi áp dụng hình phạt tử hình cho phù hợp với
điều kiện kinh tế xã hội của Việt Nam hiện tại và tương lai.
* Trong cuốn sách tham khảo “Hình phạt tử hình trong Luật quốc tế”
của Hội Luật gia Việt Nam - NXB Hồng Đức 2008 đã giới thiệu về lịch sử,
các quan điểm khác nhau về hình phạt tử hình, pháp luật quốc tế về hình phạt
tử hình, xu hướng áp dụng và việc vận động xóa bỏ hình phạt tử hình.
* Trong cuốn sách chuyên khảo “Bảo vệ quyền con người trong tư pháp
Hình sự Việt Nam” do TS. Võ Thị Kim Oanh chủ biên với tập thể tác giả 19
GS, PGS, TS, ThS, nghiên cứu sinh đã tập trung phân tích sâu sắc các vấn đề
về quyền con người trong tư pháp hình sự Việt Nam, giúp chúng ta có nền
tảng cơ bản để nghiên cứu về hình phạt tử hình vì do nó gắn liền với quyền

sống, quyền con người.
* Trong cuốn sách chuyên khảo “Hoàn thiện pháp luật về đặc xá ở Việt
Nam” của PGS.TS Nguyễn Ngọc Anh, NXB Tư Pháp 2007; tác giả đưa ra khái
niệm về đặc xá trong đó có liên quan đến hình phạt tử hình, thể hiện tính nhân
đạo của Nhà nước, của Chủ tịch Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

* GS. Roger Hood (giáo sư về Tội phạm học), Đại học Oxford, Vương
quốc Anh trong bài hình phạt tử hình và nhân quyền đăng trên cuốn sách tham
khảo “Quyền sống và hình phạt tử hình” của Viện chính sách cơng và pháp
luật thuộc Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam - NXB Chính trị
quốc gia sự thật 2015; tác giả đã phân tích và kêu gọi các nước, các thành
viên của Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị (ICCPR) cịn duy trì
hình phạt tử hình khơng được trì hỗn mà phải xóa bỏ hình phạt tử hình,
5


thay vào đó là hệ thống hình phạt tù mang tính nhân đạo.
* Nhận xét về các cơng trình nghiên cứu:
Các cơng trình khoa học nêu trên tuy đã giới thiệu nhiều quan điểm
khác nhau ở trong nước và quốc tế về việc có loại bỏ hay khơng loại bỏ hình
phạt tử hình trong pháp luật hình sự; nhưng về cơ bản các tác giả đều có nhận
thức chung là ủng hộ quan điểm giảm dần án tử hình và tiến tới loại bỏ hình
phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam theo định hướng cải cách tư
pháp của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên chưa có cơng trình nào nghiên
cứu gắn với thực tiễn áp dụng pháp luật về hình phạt tử hình tại các tỉnh Miền
Trung, Việt Nam. Tác giả chọn đề tài này và tiếp cận qua lăng kính xã hội
học, xã hội học pháp luật là một điểm mới của Luận Văn
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, pháp

luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về hình phạt tử hình tại TAND các tỉnh
Miền Trung, Việt Nam, tác giả đề xuất các giải pháp khoa học để nâng cao
hiệu quả áp dụng pháp luật về hình phạt tử hình trong hoạt động xét xử nhằm
bảo vệ quyền con người, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, góp phần đấu
tranh phịng chống tội phạm tại các tỉnh Miền Trung, Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ:
Làm sáng tỏ những vấn đề chung về áp dụng hình phạt tử hình như khái
niệm, đặc điểm, bản chất pháp lý, ý nghĩa của hình phạt tử hình; khái niệm,
đặc điểm của áp dụng hình phạt tử hình; các quan điểm về hình phạt tử hình,
các yếu tố tác động đến áp dụng hình phạt tử hình, những vấn đề cơ bản của
pháp luật về hình phạt tử hình.
Làm rõ thực trạng áp dụng hình phạt tử hình ở các tỉnh Miền Trung,
Việt Nam, trên cơ sở đó đánh giá những ưu điểm cũng như những thiếu sót,
6


tồn tại trong hoạt động áp dụng hình phạt tử hình; tìm ra ngun nhân của
những hạn chế thiếu sót đó, đề xuất các giải pháp khắc phục.
Điểm mới của Luận Văn là dựa trên cách tiếp cận xã hội học, xã hội
học pháp luật; tác giả nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về hình phạt tử
hình tại TAND các tỉnh Miền Trung, Việt Nam, làm cơ sở để kiến nghị loại bỏ
hay khơng loại bỏ hình phạt tử hình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu ba lĩnh vực cơ bản, đó là:
Nghiên cứu về lý luận và pháp luật về áp dụng hình phạt tử hình.
Nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về hình phạt tử hình tại TAND
các tỉnh Miền Trung, Việt Nam.
Nghiên cứu về quan điểm, định hướng của Đảng, chính sách pháp luật

hình sự của Nhà nước về áp dụng hình phạt tử hình, các giải pháp bảo đảm áp
dụng đúng hình phạt tử hình.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Nghiên cứu chế định pháp lý hình phạt tử hình quy định
trong BLHS năm 2015 trên cơ sở có so sánh với các quy định về hình phạt tử
hình trước đây. Nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về hình phạt tử hình
tại TAND các tỉnh miền Trung, Việt Nam.
Về thời gian: Số liệu xét xử được sử dụng nghiên cứu là 5 năm, từ năm
2015 đến năm 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận là phương pháp luận duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về quyền con người.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
7


Đề tài sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu như: Phân tích,
tổng hợp, so sánh, thống kê, tội phạm học, điều tra tội phạm, xã hội học, dự
báo khoa học, quy nạp, diễn dịch…Tùy thuộc vào nội dung từng chương, tác
giả sử dụng các phương pháp phù hợp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận:
Kết quả nghiên cứu của Luận văn đóng góp tích cực để bổ sung, hoàn
thiện về lý luận và pháp luật hình sự về hình phạt tử hình.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn:
Kết quả nghiên cứu của Luận văn là cơ sở quan trọng cho các cơ quan
tiến hành tố tụng hình sự và các cơ quan khác có liên quan tại Miền Trung,
Việt Nam tham khảo để khắc phục những sai lầm thiếu sót trong hoạt động

xét xử, nâng cao chất lượng hoạt động áp dụng pháp luật về hình phạt tử hình,
bảo vệ quyền con người, có thể được sử dụng làm tài liệu phục vụ giảng dạy,
học tập và nghiên cứu khoa học trong các cơ sở đào tạo pháp luật và các cơ sở
đào tạo khác có liên quan.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn được thiết kế theo 3 chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề chung và pháp luật về áp dụng hình phạt tử
hình.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật về hình phạt tử hình tại Tịa án
nhân dân các tỉnh miền Trung, Việt Nam.
Chương 3: Quan điểm, định hướng và các giải pháp bảo đảm áp dụng
đúng hình phạt tử hình trong các vụ án hình sự tại Tịa án nhân dân các tỉnh
Miền Trung, Việt Nam.

8


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VÀ PHÁP LUẬT VỀ ÁP DỤNG HÌNH
PHẠT TỬ HÌNH
1.1. Một số vấn đề chung về áp dụng hình phạt tử hình.
1.1.1. Khái niệm về áp dụng hình phạt:
Theo Điều 30 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì “Hình phạt là biện pháp
cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này,
do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại
phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân
thương mại đó”.
Như vậy về lý luận pháp luật thì đây là hoạt động của Tòa án, là chủ thể
được quy định trong BLHS. Biện pháp cưỡng chế của Nhà nước chỉ phát huy
tác dụng trong đấu tranh, phòng chống tội phạm khi được Tòa án nhân danh

Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam áp dụng thông qua hoạt động xét
xử các vụ án hình sự bằng bản án của Hội đồng xét xử (do Thẩm phán, Hội
thẩm thực hiện).
Việc HĐXX ra bản án áp dụng hình phạt đối với người, pháp nhân
thương mại phạm tội là kết tinh của q trình đánh giá tính hợp pháp của các
tài liệu, chứng cứ do cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thu thập được. Tuy nhiên
phán quyết của HĐXX được đưa ra là một quá trình tư duy trong một quy
trình tố tụng chặt chẽ. Đó là sự thn thủ nguyên tắc xử lý chung được quy
định tại Điều 3 BLHS; các nguyên tắc xử lý, áp dụng hình phạt đối với các
trường hợp đặc biệt như đối với người chưa thành niên phạm tội, các nguyên
tắc áp dụng hình phạt tử hình; sự áp dụng chính xác các tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ; nhân thân người phạm tội (Điều 50 BLHS - Căn cứ quyết định hình
phạt); sự áp dụng chính xác các điều luật quy định tội phạm cụ thể và hình

9


phạt tương ứng. Theo quy định tại Điều 32 BLHS thì Tịa án chỉ được áp dụng
các hình phạt được quy định trong BLHS, bao gồm hình phạt chính như: Cảnh
cáo, Phạt tiền, Cải tạo không giam giữ, Trục xuất, Tù có thời hạn, Tù chung thân,
Tử hình (7 loại) cùng với các hình phạt bổ sung được quy định tại Điều 32
BLHS và các hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại
Điều 33 BLHS. Và cuối cùng là đưa ra một hình phạt tương ứng với hành vi, hậu
quả do bị cáo gây ra, tương xứng với mức độ phản ứng, tự vệ của Nhà nước.
Việc HĐXX áp dụng hình phạt chính xác sẽ phát huy tích cực hoạt động đấu
tranh phịng chống tội phạm, đem lại sự bình yên cho xã hội và góp phần cải tạo,
giáo dục người phạm tội; làm cho họ thấy được tính nghiêm minh của pháp luật
để tự giác cải tạo. Suy cho cùng một đạo luật dù có tiên tiến đến đâu nhưng hoạt
động áp dụng pháp luật của Tịa án kém hiệu quả thì đạo luật đó sẽ khơng đi vào
đời sống xã hội, khơng phục vụ lợi ích an ninh, an tồn của xã hội, hay ở nghĩa

khác là sức mạnh tự vệ của Nhà nước bị giảm sút.

1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của áp dụng hình phạt tử hình:
Áp dụng hình phạt tử hình là một quy trình tố tụng đặc biệt, được thực
hiện dựa trên nền tảng pháp lý được quy định tại Điều 30 BLHS. Tuy nhiên
khi áp dụng một hình phạt cụ thể đối với một tội danh cụ thể, đặc biệt là hình
phạt tử hình thì nó cịn có những nét đặc biệt và đặc thù. Vì vậy khái niệm,
đặc điểm của áp dụng hình phạt tử hình cũng có những nét đặc thù, riêng biệt
mà việc áp dụng các hình phạt khác khơng có.
- Khái niệm:
+ Về phương diện pháp luật: Tử hình là một hình phạt đặc biệt và
nghiêm khắc nhất được quy định trong pháp luật hình sự, tác động trực tiếp
lên hành vi của người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, bắt họ phải chịu sự
trừng phạt nghiêm khắc nhất, thể hiện sự phản ứng cứng rắn nhất của Nhà
nước. Hay nói cách khác khi một người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng gây
phương hại to lớn đến sự an tồn xã hội, đến tính mạng con người…đến mức
10


phải tử hình thì họ phải trả giá tương xứng cho hành vi phạm tội của mình bằng
hình phạt tử hình do Nhà nước đặt ra, đó là giới hạn cuối cùng của sự phòng vệ
của Nhà nước. Áp dụng hình phạt tử hình để tước đoạt quyền sống của người
phạm tội đặc biệt nghiêm trọng được thực hiện thông qua hoạt động xét xử của
Tịa án theo một trình tự thủ tục chặt chẽ do BLTTHS quy định.

+ Về phương diện thực tiễn:
Nếu như chỉ dừng lại ở quy định của pháp luật hình sự thực định thì sẽ
khơng có bản án tử hình và thi hành án tử hình xảy ra. Do đó hình phạt tử
hình chỉ được tác động lên hành vi của người phạm tội thông qua tư duy của
người có thẩm quyền áp dụng pháp luật đó là Hội đồng xét xử. Thẩm phán,

Hội thẩm là những người tiến hành tố tụng phải nghiên cứu, đánh giá tác hại
do hành vi phạm tội gây ra cho xã hội và cho con người. Nếu hành vi phạm
tội đặc biệt nghiêm trọng đó cần thiết phải áp dụng tử hình thì Hội đồng xét
xử căn cứ vào điều luật quy định trong BLHS để tuyên bản án tử hình đối với
người phạm tội. Như vậy bản án tử hình thể hiện việc Hội đồng xét xử nhân
danh Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thay mặt cho Nhà nước thực
hiện sự phản ứng mạnh mẽ nhất và cao nhất đối với người phạm tội thông qua
phương tiện do Nhà nước đặt ra đó là pháp luật về hình phạt tử hình, với hình
thức thể hiện là một bản án kết tội và tuyên hình phạt tử hình đối với người
đó.
Từ phương diện pháp luật và thực tiễn áp dụng hình phạt tử hình tác giả
đề xuất một khái niệm về áp dụng hình phạt tử hình như sau:
“Áp dụng hình phạt tử hình là một quy trình tố tụng đặc biệt, chặt chẽ
do Bộ luật tố tụng hình sự quy định, được Hội đồng xét xử của Tịa án có
thẩm quyền nhân danh Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam áp dụng
các quy định về hình phạt tử hình để xét xử và tuyên án tử hình đối với một
người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; được kết thúc bằng bản án hoặc quyết
định có hiệu lực pháp luật”.
11


- Đặc điểm:
Nếu như hình phạt tử hình dưới góc độ pháp luật có những đặc điểm
riêng của nó thì hoạt động áp dụng hình phạt tử hình cũng có những đặc điểm
riêng của nó và có mối liên hệ khơng thể tách rời với các đặc điểm về hình
phạt tử hình. Theo đó trên quan điểm xã hội học thì áp dụng hình phạt tử hình
có những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất: Áp dụng hình phạt tử hình là một quy trình tố tụng bắt buộc
và chặt chẽ nhất được chủ thể có thẩm quyền do pháp luật quy định thực hiện.
Vì tử hình là tước bỏ quyền sống của người phạm tội; là một việc hệ trọng

nên quy trình tố tụng bắt buộc chặt chẽ hơn việc áp dụng hình phạt khơng
phải là tử hình. Chủ thể áp dụng chỉ là Hội đồng xét xử mà thôi.
Thứ hai: Áp dụng hình phạt tử hình gắn liền với tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng và thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng. Bỡi lẽ chỉ có tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng thì BLHS mới quy định hình phạt tử hình và
không phải mọi trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng đều bắt buộc tử
hình mà cịn phải thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng (trong tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng có trường hợp đặc biệt nghiêm trọng).
Thứ ba: Áp dụng hình phạt tử hình chính là cụ thể hóa phản ứng cao
nhất và cuối cùng của Nhà nước đối với người thực hiện hành vi phạm tội đặc
biệt nghiêm trọng bằng việc Hội đồng xét xử căn cứ vào hình phạt tử hình do
Nhà nước quy định trong BLHS tuyên bản án tử hình đối với người phạm tội
và bản án được thi hành thơng qua quy trình, thủ tục đặc biệt mang tính nhân
đạo nhất. Tức là Nhà nước khơng cịn cách phản ứng nào khác ngồi việc phải
tử hình người phạm tội.
Thứ tư: Áp dụng hình phạt tử hình đối với một số tội danh quy định
trong Bộ luật Hình sự là sự răn đe cần thiết của Nhà nước, phù hợp với điều
kiện kinh tế, xã hội của Việt Nam hiện nay. Nghĩa là chỉ có những tội đặc biệt
nghiêm trọng gây phương hại lớn (đặc biệt) cho xã hội thì mới áp dụng hình

12


phạt tử hình, cịn những tội gây phương hại khơng lớn thì Nhà nước phản ứng
bằng cách khác như tù chung thân, tù có thời hạn…
Thứ năm: Áp dụng hình phạt tử hình là chỉ đối với cá nhân người phạm
tội. Tử hình là đối với con người cụ thể, khơng thể tử hình đối với pháp nhân
thương mại phạm tội mặc dù pháp nhân thương mại là một trong hai chủ thể
của trách nhiệm hình sự.
Thứ sáu: Áp dụng pháp luật về hình phạt tử hình khơng chỉ để tước

đoạt quyền sống của người bị kết án mà còn để loại trừ các trường hợp đặc
biệt ra khỏi hình phạt tử hình. Trong những trường hợp đặc biệt (như người
dưới 18 tuổi khi phạm tội, phụ nữ có thai, phụ nữ nuôi con dưới 36 tháng tuổi,
người từ đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử), mặc dù tính chất
hành vi phạm tội, hậu quả do họ gây ra ngang nhau với tính chất hành vi
phạm tội và hậu quả do người phạm tội bình thường gây ra, lẽ ra phải tử hình
nhưng Tịa án khơng áp dụng hình phạt tử hình đối với họ. Các nội dung này
thể hiện chính sách nhân đạo đặc biệt của Nhà nước, vì vậy đây cũng là đặc
điểm đặc biệt của áp dụng hình phạt tử hình.
Thứ bảy: Áp dụng hình phạt tử hình là đảm bảo sự cơng bằng của xã
hội, “đáng tội chết thì phải chết”. Nếu đáng tội chết mà không phải chết là sự
bất công bằng và không phải là bản chất của pháp luật.
1.1.3. Khái niệm, đặc điểm, bản chất pháp lý, ý nghĩa của hình phạt
tử hình và các quan điểm về hình phạt tử hình
Khái niệm:
Tử hình là hình phạt đặc biệt và nghiêm khắc nhất đã có từ lâu đời,
được quy định trong pháp luật hình sự Việt Nam kể từ sau khi Cách mạng
Tháng 8/1945 thành công, Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Trải qua
chiều dài của lịch sử ¾ thế kỷ, nhận thức, lý luận về hình phạt tử hình khơng
ngừng được bổ sung, hồn thiện theo xu hướng giảm dần và tiến tới loại bỏ
hình phạt tử hình ra khỏi đời sống pháp luật. Tử hình là hình phạt gây ra tranh
13


luận rất nhiều với nhiều quan điểm khác nhau và gắn liền với ý chí của giai
cấp cầm quyền. Hiện nay rất nhiều nước trên thế giới đã loại bỏ hình phạt tử
hình như các nước thuộc khu vực Tây Âu, một số bang của Hoa Kỳ,…; tuy
nhiên vẫn còn hàng trăm nước trên thế giới trong đó có Việt Nam vẫn duy trì
hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự. Pháp luật hình sự Việt Nam quy
định hình phạt tử hình cũng như áp dụng trong thực tiễn đã khẳng định một

chính sách hình sự nghiêm minh, cơng bằng, phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của Việt Nam. Luật nhân quyền quốc tế cũng khuyến khích các quốc
gia đi theo xu hướng loại bỏ hình phạt tử hình. Chính vì có rất nhiều quan
điểm khác nhau về hình phạt tử hình nên cũng có nhiều cách tiếp cận khác
nhau khi đưa ra định nghĩa về hình phạt tử hình.
Theo từ điển tiếng Việt thì “Tử hình là hình phạt phải chịu tội chết” 1.
Cịn theo Từ điển giải thích thuật ngữ luật học thì “Tử hình là hình phạt tước
bỏ quyền sống của người bị kết án. Tử hình được coi là hình phạt đặc biệt
trong hệ thống hình phạt của Luật hình sự Việt Nam. Là hình phạt nghiêm
khắc nhất, tử hình chỉ được áp dụng đối với các trường hợp phạm tội đặc biệt
nghiêm trọng và chỉ được thi hành theo một thủ tục tố tụng chặt chẽ” 2
Theo gốc từ Hán Việt, “Tử hình có nghĩa là hình phạt chết. Song xét ở
phương diện pháp lý thì hình phạt tử hình được hiểu là sự tước bỏ tính mạng
của một con người theo bản án được tuyên bởi một Tòa án được lập ra một
cách hợp pháp, nhằm trừng phạt người đó vì đã phạm một tội ác đặc biệt
nghiêm trọng”3
Theo quy định tại Điều 40 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì “Tử hình là
hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng
1

Viện khoa học Xã hội Việt Nam – Viện ngôn ngữ học (1992), Từ điển tiếng Việt, Trung tám từ điển ngôn
ngữ, Hà Nội; tr 1053.
2
PGS, TS Nguyễn Ngọc Hòa (Chủ biên) (1999) Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học (Luật Hình sự và Tố
tụng Hình sự), Nhà xuất bản Cơng an nhân dân, tr 129.
3
“Những điều cần biết về hình phạt tử hình”, Trung tâm nghiên cứu về quyền con người, quyền công dân”,
Đại học quốc gia Hà Nội – Khoa Luật, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia 2009, tr 14.

14



thuộc một trong nhóm các tội xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm tính
mạng con người, các tội phạm về ma túy, tham nhũng và một số tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng khác do Bộ luật này quy định”. Xuất phát từ tinh thần nhân
đạo, điều luật này còn quy định khơng áp dụng hình phạt tử hình đối với
người dưới 18 tuổi khi phạm tội, phụ nữ có thai, nuôi con dưới 36 tháng tuổi
hoặc người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử và khơng thi hành
án tử hình đối với một số trường hợp đặc biệt.
Từ quy định của BLHS về hình phạt tử hình, cho phép chúng ta phân biệt
với quyền an tử mà pháp luật một số nước trên thế giới đã quy định. Theo đó
pháp luật một số nước giành cho người mắc bệnh nan y, hiểm nghèo được quyền
chọn cái chết khơng đau đớn, giải thốt họ khỏi tình trạng bệnh tật đau đớn, kéo
dài, vơ vọng, bằng sự trợ giúp của người khác (thông thường là bác sĩ).

Có thể nói có rất nhiều định nghĩa về tử hình ở nhiều cách tiếp cận khác
nhau; nhưng căn cứ vào Điều 40 BLHS năm 2015 quy định về tử hình cùng
với các định nghĩa do các nhà khoa học pháp lý đưa ra trước đây, tác giả có
thể đề xuất một định nghĩa về tử hình như sau: “Tử hình là hình phạt đặc
biệt và nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt của Luật hình sự Việt
Nam, là hình phạt tước bỏ quyền sống của người bị kết án, chỉ được áp
dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng và trong trường hợp
đặc biệt nghiêm trọng, thuộc một trong các nhóm tội do Bộ luật Hình sự
quy định có hình phạt tử hình”
Đặc điểm:
Từ những định nghĩa theo các cách tiệp cận nêu trên và từ quy định của
Bộ luật Hình sự, chúng ta thấy được hình phạt tử hình là một hiện tượng xã hội
mang tính khách quan, nằm trong hệ thống các hình phạt của Bộ luật Hình sự
nên có những đặc điểm chung, đó là: Là biện pháp cưỡng chế của Nhà nước,
được quy định trong Bộ luật Hình sự, được Tịa án áp dụng theo một tố tụng chặt
chẽ, nghiêm minh, công bằng đối với người bị kết án, đảm bảo sự bình


15


n của xã hội…Song vì nó là hình phạt đặc biệt nên có những đặc điểm riêng:

- Vì nó tước đi quyền sống của người bị kết án, nên chỉ được áp dụng
đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng và trong những trường hơp đặc
biệt nghiêm trọng.
- Hình phạt tử hình có mục đích phịng ngừa tái phạm tội một cách triệt
để đối với người bị kết án, tước bỏ cơ hội tái hòa nhập cộng đồng của họ.
- Hình phạt tử hình cịn có khả năng đạt hiệu quả cao trong đấu tranh
phịng chống tội phạm nói chung.
- Hình phạt tử hình có tính chất khơng thay đổi, nó tước đi khả năng
khắc phục sai lầm trong hoạt động tư pháp4
Bản chất pháp lý của hình phạt tử hình:
Mác viết “Hình phạt khơng phải là một cái gì khác ngồi phương tiện để
5

bảo vệ mình của xã hội chống lại sự vi phạm của các điều kiện tồn tại đó” . Như
vậy hình phạt tử hình thực chất là thể hiện sự phản ứng cao nhất của Nhà nước
đối với hành vi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng và có tính lịch sử. Hay nói cách
khác, hình phạt tử hình là cách thức, là phương tiện mạnh mẽ nhất được giai cấp
cầm quyền sử dụng để chống lại hành vi nguy hiểm cho xã hội. Một Nhà nước
có khả năng tự vệ cao trước các hành vi phạm tội thì khả năng quy định và áp
dụng hình phạt tử hình càng thấp thậm chí là bằng khơng, pháp luật các nước
Tây Âu đã minh chứng điều đó. Một vấn đề đặt ra bản chất của hình phạt tử hình
có phải là nhân đạo hay khơng? Câu hỏi này cũng được đa số các học giả quan
tâm đề cập, nhưng theo quan điểm của tác giả thì hình phạt tử hình trong hệ
thống các hình phạt được Bộ luật Hình sự Việt Nam quy định ngồi việc trừng trị

cịn có tính nhân đạo. Xét trên bình diện cộng đồng và sự ứng xử của Nhà nước
đối với người bị tử hình thì cho dù một người bị Tịa án kết án tử hình nhưng quá
trình xét xử đều được thực hiện
4

Quyền sống và hình phạt tử hình (Sách chuyên khảo), PGS, TS Trịnh Quốc Toản, NXB Chính trị quốc gia
2015, trang 138
5
Mác – Enghen toàn tập (1993), tập 8, NXB Chính trị quốc gia, tr 673

16


theo một quy trình đặc biệt, chặt chẽ và bảo đảm tinh thần nhân đạo đối với
họ, bản thân họ và cộng đồng xã hội đều nhìn nhận được sự ân huệ của Nhà
nước đối với người bị kết án tử hình trước khi chết (được đối xử nhân đạo)
Ý nghĩa của hình phạt tử hình:
Có thể nói trong điều kiện kinh tế - xã hội đất nước ta còn thấp so với
nhiều quốc gia trên thế giới, chúng ta vẫn còn một khoảng cách so với các yêu
cầu về quyền sống (quyền con người) trong Luật nhân quyền quốc tế, vì vậy
hình phạt tử hình có vai trị, ý nghĩa đặc biệt to lớn trong đời sống xã hội và
đời sống pháp luật, được nhìn nhận trên cả phương diện lý luận pháp luật và
thực tiễn áp dụng.
- Về phương diện lý luận pháp luật:
Hình phạt tử hình thể hiện ý chí, sự phản ứng cao nhất của Nhà nước ta
đối với người phạm tội đặc biệt nguy hiểm cho xã hội thông qua sự quy định
của pháp luật hình sự. Đó chính là đặc điểm của Nhà nước pháp quyền Xã
Hội Chủ Nghĩa – quản lý xã hội bằng pháp luật. Một người phạm tội gây
phương hại lớn nhất cho xã hội thì Nhà nước sẽ có phản ứng mạnh mẽ nhất
bằng việc quy định hình phạt cao nhất là tước bỏ mạng sống của người phạm

tội ra khỏi đời sống xã hội.
- Về phương diện thực tiễn:
Thông qua quy định của pháp luật hình sự, Tịa án áp dụng vào vụ án cụ
thể để xét xử người phạm tội và bản án tử hình sẽ được thi hành theo một
cách thức nhân đạo nhất. Như vậy, tước bỏ quyền sống của người phạm tội
chính là đem lại sự bình yên cho xã hội, ngăn ngừa phạm tội mới và phòng
ngừa chung. Điều này cũng chứng tỏ nhu cầu của xã hội vẫn cần phải có hình
phạt tử hình để cân bằng các quan hệ vốn có của xã hội.
Quan niệm của các quốc gia và các tôn giáo về hình phạt tử hình:
Hình phạt tử hình khơng chỉ là vấn đề pháp lý đơn thuần mà còn là vấn
đề chủ quyền quốc gia, vấn đề chính trị, xã hội, văn hóa, đạo đức, tơn giáo
17


gắn liền với quốc gia đó. Mỗi một quốc gia, lãnh thổ tùy thuộc vào điều kiện
kinh tế, xã hội, văn hóa, tơn giáo (nếu là tơn giáo thống trị về chính trị) mà
quyết định có hình phạt tử hình hay khơng. Một đất nước có nền kinh tế - xã
hội văn minh, hiện đại thì khả năng loại bỏ hình phạt tử hình rất cao, điều này
đã thể hiện ở các nước Tây Âu, nhiều bang của Hoa Kỳ…và ngược lại thì quy
định hình phạt tử hình tùy theo mức độ, tùy theo khả năng tự vệ của quốc gia
đó. Ở một số nước do tơn giáo thống trị thì quan điểm về hình phạt tử hình
cũng được tiếp cận ở nhiều cách khác nhau. Chẳng hạn như trong Kinh PaYaKanhhaly Sutra “Không cấm việc giết người với mục đích phịng vệ và các
mục đích nhân đạo khác. Trong mọi trường hợp, mọi thời điểm, cộng đồng
phật tử không ủng hộ giết người hoặc áp dụng hình phạt tử hình vì mục đích
báo thù”; Cơ đốc giáo cũng có nhiều quan niệm khác nhau; Thiên chúa giáo la
mã thì tử hình là khơng cần thiết; Tin lành thì cũng có nhiều trường phái ủng
hộ hoặc khơng ủng hộ hình phạt tử hình; Đạo Hồi, Đạo Hindu thì hạn chế áp
dụng hình phạt tử hình…
Bảng tổng hợp sau đây cho thấy sự phân tán về quan niệm bỏ hay
không bỏ hình phạt tử hình.

STT

Khu vực

Ủng hộ

Phản đối

Khơng ý kiến

1

Tồn cầu

52%

39%

9%

2

Bắc Mỹ

66%

27%

7%


3

Chấu Á

63%

21%

16%

4

Đông và Trung Âu

60%

29%

11%

5

Châu Phi

54%

43%

3%


6

Mỹ La Tinh

37%

55%

8%

7

Tây Âu

34%

60%

6%

Số liệu này được thống kê bởi cuộc thăm dò của Viện Gallup Năm 20006

6Những điều cần biết về hình phạt tử hình – Trung tâm nghiên cứu quyền con người và quyền công dân, Đại
học Quốc Gia Hà Nội – Khoa Luật, NXB chính trị Quốc Gia năm 2009, trang 55

18


Nhìn bảng khảo sát này cho thấy quan điểm ủng hộ án tử hình trên
phạm vị thế giới thì có tới 52%, phản đối 39%; Tuy nhiên có những khu vực

như Mỹ La Tinh 37% ủng hộ, 55% phản đối, đặc biệt là Tây Âu 34% ủng hộ
và 60% phản đối án tử hình và xu hướng chung là tiến tới loại bỏ án tử hình
(trong 52% ủng hộ án tử hình của thế giới có cả ủng hộ duy trì tuyệt đối, giảm
bớt hình phạt tử hình và tiến tới xóa bỏ hình phạt tử hình).
Đa số quan điểm của các nhà khoa học pháp lý Việt Nam và dư luận
chung của nhân dân là trong giai đoạn hiện nay và trong tương lai gần cần có
hình phạt tử hình nhưng theo xu hướng giảm dần tiến tới loại bỏ hình phạt tử
hình ra khỏi pháp luật hình sự Việt Nam, điều này phù hợp với quan điểm cải
cách tư pháp của Đảng ta và chính sách pháp luật hình sự của Nhà nước ta. Bộ
luật Hình sự 2015 chỉ cịn giữ lại hình phạt tử hình ở 18 tội danh so với 44 tội
danh có quy định hình phạt tử hình trong BLHS năm 1985; tuy nhiên trong xu
hướng tồn cầu hóa kinh tế và pháp luật mạnh mẽ như hiện nay và sự phát
triển kinh tế của Việt Nam thì hiện 18 tội danh có hình phạt tử hình quy định
trong Bộ luật Hình sự 2015 có tồn tại lâu dài hay không là một câu hỏi lớn, sẽ
được luận giải tại Chương 2.
1.1.4. Các yếu tố tác động đến việc áp dụng hình phạt tử hình.
Việc áp dụng hình phạt tử hình chịu sự tác động của nhiều yếu tố như:
yếu tố khách quan: sự quy định của pháp luật, điều kiện kinh tế - xã hội, dư
luận xã hội; địa lý vùng, miền…và yếu tố chủ quan thuộc về nhận thức của
chủ thể áp dụng pháp luật.
- Các yếu tố khách quan:
+ Về điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa của Việt Nam: Chúng ta đã trải
qua nhiều cuộc chiến tranh chống ngoại xâm, nên kinh tế kiệt quệ, đời sống
nhân dân còn nhiều khó khăn vất vả. Mặc dù trong thời gian qua đất nước đổi
mới, kinh tế, xã hội, văn hóa đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tham gia
tồn cầu hóa kinh tế và pháp luật; tuy nhiên xét tổng thể thì đất nước cũng chỉ
19


đang ở trong giai đoạn phát triển, tội phạm không ngừng gia tăng, trong đó có

những tội như: Các tội phản bội tổ quốc, bạo loạn, tham nhũng, giết người…
không thể khơng áp dụng hình phạt tử hình. Bởi lẽ nhu cầu của đời sống xã
hội cần phải có hình phạt tử hình, là một địi hỏi tất yếu khách quan. Đường
lối, quan điểm của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
chính sách và pháp luật của Nhà nước về hình sự khơng thể tự dưng mà có mà
nó đi ra từ xã hội, do điều kiện kinh tế, xã hội quyết định và trở lại phục vụ xã
hội. Pháp luật hình sự quy định hình phạt tử hình theo xu hướng thu hẹp là
một giá trị, phản ánh đúng đắn nhu cầu thực tế của đời sống xã hội. Cụ thể từ
44 tội danh có hình phạt tử hình trong BLHS năm 1985 xuống cịn 29 tội danh
có hình phạt tử hình trong Bộ luật Hình sự năm 1999, tiếp tục giảm xuống cịn
22 tội danh trong lần sửa đổi năm 2009 của BLHS 1999, nay BLHS 2015 chỉ
còn quy định 18 tội danh có hình phạt tử hình trong số 314 tội danh trong Bộ
luật Hình sự. Sự giảm dần này nằm trong chủ trương, định hướng cải cách tư
pháp tại Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và hoàn toàn phù hợp với điều kiện kinh
tế xã hội của đất nước trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lê Nin thì chính điều kiện kinh
tế xã hội của đất nước là nhân tố quyết định đến việc hoạch định chính sách
pháp luật và tác động trực tiếp đến ý thức chủ quan của Thẩm phán, Hội
Thẩm khi quyết định tử hình hay khơng tử hình người phạm tội; nghĩa là phải
xem xét đến điều kiện kinh tế, môi trường sống cụ thể của họ, họ phạm tội do
nghèo đói hay vì động cơ đê hèn…để từ đó ra phán quyết chính xác.
+ Ở phương diện quốc tế: Chúng ta đang tham gia tích cực và sâu rộng
vào tồn cầu hóa kinh tế và pháp luật, tôn trọng và thực thi các Công ước
quốc tế về quyền con người, vì thế chúng ta cần phải đáp ứng các yêu cầu của
Luật nhân quyền quốc tế theo những lộ trình phù hợp với điều kiện kinh tế xã
20


hội của đất nước ta, đây cũng chính là vấn đề đối ngoại. Việc giảm dần các tội

danh có hình phạt tử hình xuống cịn 18 tội danh trong Bộ luật Hình sự 2015
đều có nhân tố quốc tế tác động mặc dù nhân tố kinh tế, xã hội trong nước là
quyết định. Rồi sẽ đến một thời điểm nhất định khi điều kiện kinh tế xã hội
trong nước và quốc tế cho phép, khả năng tự vệ của Nhà nước đảm bảo thì sẽ
loại bỏ hình phạt tử hình ra khỏi đời sống xã hội và đời sống pháp luật theo
định hướng cải cách tư pháp của Đảng. Đây cũng là nhân tố tác động đến
nhận thức của Thẩm phán, Hội thẩm khi áp dụng hình phạt tử hình.
+ Pháp luật về hình phạt tử hình: Nếu các quy định của pháp luật về
hình phạt tử hình thống nhất, đồng bộ, tiên tiến, dễ áp dụng, ít bất cập thì sẽ
tác động tích cực đến hoạt động áp dụng hình phạt tử hình, quyền con người
được bảo đảm, áp dụng hình phạt tử hình sẽ chính xác. Cịn nếu pháp luật
hình sự về tử hình có nhiều bất cập thì sẽ tác động ngược lại, áp dụng hình
phạt tử hình sẽ khơng chính xác.
+ Các nhân tố về địa lý, vùng, miền, trình độ học vấn, văn hóa, liên
quan đến người phạm tội cũng là yếu tố tác động đến nhận thức của Hội đồng
xét xử. Chẳng hạn khi xét xử người phạm tội là dân tộc ít người, kém học vấn,
kém văn hóa, nhận thức pháp luật và xã hội lạc hậu…thì sẽ được đánh giá
khác so với người phạm tội có nhận thức cao hơn, có học vấn cao hơn, từ đó
sẽ có phán quyết phù hợp.
+ Tiêu cực xã hội: Việc chạy án, đưa hối lộ cũng như các tiêu cực khác,
các tác động phi vật chất (như khơng tử hình người phạm tội mà người này có
quan hệ thân thiết với người có ảnh hưởng đến đề bạt, bổ nhiệm Thẩm phán…
để Thẩm phán đổi lấy lợi ích chính trị) làm cho người có thẩm quyền áp dụng
pháp luật khơng cịn giữ được phẩm chất, đạo đức của Thẩm phán, Hội thẩm
dẫn đến thối hóa, biến chất, bẻ cong công lý, lấy tiền hoặc để được hậu thuẫn
chính trị…từ đó khơng xử tử hình người phạm tội. Đây vừa là yếu tố khách
quan nhưng đồng thời cũng gắn liền với yếu tố chủ quan.
21



×