Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.82 KB, 20 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KINH TẾ - LUẬT
----

BÀI THẢO LUẬN
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề tài 1: Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam
Đề tài 2: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc, phương pháp đại
đồn kết tồn dân tộc trong giai đoạn hiện nay

Nhóm
Lớp
GVHD

:
:
:

Hà Nội, 2020


A. ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT ĐỀ TÀI 1

Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam
Chương 1: Những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
1.1 Quan niệm Hồ Chí Minh về đặc trưng bản chất của xã hội chủ nghĩa

 Quan niệm của Hồ Chí Minh về CNXH
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là xã hội ở giai đoạn đầu của chủ nghĩa Cộng sản. Mặc dù


còn tồn đọng tàn dư của xã hội cũ nhưng chủ nghĩa xã hội mới khơng cịn áp bức, bóc lột, xã hội do
nhân dân lao động làm chủ, trong đó con người sống ấm no, tự do, hạnh phúc, quyền lợi của cá nhân
và tập thể vừa thống nhất vừa gắn bó chặt chẽ với nhau.

 Tiến lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan
Tiến lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình tất yếu, tuân theo những quy luật khách quan . Trước
hết là tuân theo quy luật trong sản xuất vật chất, tùy theo bối cảnh cụ thể mà phương thức tiến lên
chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước là khác nhau; những nước đã đi qua TBCN thì sẽ tiến thẳng lên chủ
nghĩa xã hội; những nước có thể bỏ qua giai đoạn TBCN khi mà đã đánh đổ đế quốc và phong kiến
dưới sự lãnh đạo của Đảng vô sản.
 Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nhân loại nói chung và Việt Nam nói riêng vừa là

một tất yếu của lịch sử, vừa đáp ứng được khát vọng của những lực lượng tiến bộ xã hội
trong quá trình đấu tranh tự giải phóng mình.

 Một số đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội
- Thứ nhất, về chính trị: xã hội chủ nghĩa là xã hội có chế độ dân chủ


- Thứ hai, về kinh tế: xã hội chủ nghĩa là xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực
-

lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu
Thứ ba, về văn hóa, đạo đức và các quan hệ xã hội: xã hội chủ nghĩa có trình độ phát

-

triển cao về văn hóa, đạo đức, bảo đảm sự cơng bằng, hợp lý trong các quan hệ xã hội
Thứ tư, về chủ thể xây dựng chủ nghĩa xã hội: chủ nghĩa xã hội là cơng trình tập thể của
nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.


1.2 Quan niệm của Hồ Chí Minh về mục tiêu và động lực của chủ nghĩa xã hội
1.2.1 Quan niệm của Hồ Chí Minh về mục tiêu và động lực của CNXH
a, Những mục tiêu cơ bản
 Mục tiêu chính trị: là chế độ do nhân dân lao động làm chủ, nhà nước là của dân, do dân và

vì dân.
 Mục tiêu kinh tế: Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công-nông nghiệp hiện đại, khoa học –

kỹ thuật tiên tiến, bóc lột bị xoá bỏ dần, cải thiện đời sống. Kết hợp các lợi ích.
 Mục tiêu văn hố – xã hội: văn hoá là mục tiêu cơ bản, xoá mù chữ, phát triển nghệ thuật,

thực hiện nếp sống mới, nâng cao dân trí…
 Mục tiêu con người: Theo Hồ Chí Minh, CNXH là cơng trình tập thể của nhân dân. Do đó,

nếu khơng có con người thì sẽ khơng có CNXH.
b, Các động lực


Phát huy các nguồn động lực về vật chất và tư tưởng cho việc xây dựng CNXH

 Phát huy động lực con người trên cả hai phương diện: cộng đồng và cá nhân.
 Tác động cả về chính trị và tinh thần trên cơ sở phát huy quyền làm chủ của nhân dân
 Kết hợp với sức mạnh thời đại, tăng cường đoàn kết quốc tế, sử dụng những thành quả

khoa học kỹ thuật thế giới.


Nét độc đáo trong phong cách tư duy Hồ Chí Minh là chỉ ra yếu tố kìm hãm, triệt tiêu




nguồn lực vốn có của chủ nghĩa xã hội
 Chống chủ nghĩa cá nhân; Chống tham ơ lãng phí
 Chống bè phái mất đoàn kết nội bộ; chống chủ quan, bảo thủ, giáo điều; chống lười

biếng…
Chương 2: Những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
2.1 Quan niệm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Tính tất yếu: Theo Hồ Chí Minh, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là thời kỳ
của biến xã hội cũ thành xã hội mới- một xã hội hồn tồn chưa từng có trong lịch sử của dân tộc.
Đặc điểm của thời kỳ quá độ: đặc điểm lớn nhất của thời kỳ quá độ ở Việt Nam từ một nước
nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, không trải qua giai đoạn phat triển tư bản chủ
nghĩa
Nhiệm vụ của thời kỳ quá độ: Đấu tranh cải tạo, xóa bỏ tàn tích của chế độ xã hội cũ, xây
dựng các yếu tố phù hợp với quy luật tiến lên chủ nghĩa xã hội trên tất cả các lĩnh vực đời sống.
Về chính trị: phải xây dựng được chế độ dân chủ vì đây là bản chất của chủ nghĩa xã hội.
Về kinh tế : phải cải tạo nền kinh tế cũ, xây dựng kinh tế mới có cơng nghiệp và nơng
nghiệp hiện đại
Về văn hóa: phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng nơ dịch của văn hóa đế
quốc; đồng thời, phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc và hấp thụ những cái
mới của văn hóa tiến bộ trên thế giới
Về các quan hệ xã hội: phải thay đổi triệt để những quan hệ cũ; xây dựng được một xã hội
dân chủ, công bằng, văn minh
2.2 Các nguyên tắc và biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam





Các nguyên tắc
Một là, xây dựng CNXH là 1 hiện tượng phổ biến mang tính quốc tế, cần quán triệt các

nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lênin về xây dựng chế độ mới, có thể tham khảo, học tập
kinh nghiệm của các nước anh em nhưng không sao chép, máy móc, giáo điều.
Hai là, xác định bước đi và biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội chủ yếu xuất phát từ
điều kiện thực tế, đặc điểm dân tộc, nhu cầu và khả năng thực tế của nhân dân.

 Các biện pháp
Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH khơng có nghĩa là làm bừa, làm ẩu, đốt
cháy giai đoạn, mà phải vững chắc từng bước phù hợp với điều kiện thực tế
Xây dựng chủ nghĩa xã hội là "làm cho người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu, người
giàu thì giàu “thêm”.
CNXH là do nhân dân tự xây dựng đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, vì vậy phải đem tài dân,
sức dân, của dân để làm lợi cho dân, Chính phủ chỉ giúp đỡ kế hoạch chứ không thể làm thay dân.
Phải phát huy hết tiềm năng, nguồn lực có trong dân để đem lại lợi ích cho dân


B. BÀI LÀM CHI TIẾT ĐỀ TÀI 2

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc, phương pháp đại đồn kết
tồn dân tộc trong giai đoạn hiện nay
Lời nói đầu
Ngày 14/5 cuộc hội thảo “ phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng MTTQ
Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh” đã khẳng định một trong những tài sản vô giá mà Bác Hồ
để lại cho dân tộc và các thế hệ mai sau là tư tưởng Hồ Chí Minh gồm hệ thống những quan điểm
toàn diện, nhất quán, và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Trong hệ thống
tư tưởng ấy, nổi bật lên quan điểm về đại đoàn kết toàn dân tộc. Nhiều tham luận, ý kiến đều ca
ngợi tư tưởng Hồ Chí Minh trong vấn đề dân tộc và đoàn kết toàn dân tộc, thể hiện sâu sắc nhất ở
chỗ Bác hồ đã nhìn nhận, đánh giá tất cả các dân tộc của cộng đồng dân tộc Việt Nam dù lớn hay

nhỏ đều có truyền thống đoàn kết, yêu nước và tinh thần cách mạng như nhau. Chính vì vậy, trong
bối cảnh hiện nay chúng ta cần phải quán triệt sâu sắc tư tưởng đại đoàn kết của Người nhằm
không ngừng phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; khối đại đoàn kết toàn dân trong
MTTQ Việt Nam phải luôn được củng cố, phát triển và gắn chặt chẽ với tinh thần đoàn kết quốc
tế. Tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tư tưởng cơ bản, nhất
quán và xuyên suốt, là chiến lược tập hợp lực lượng đấu tranh với kẻ thù dân tộc và giai cấp trong
suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Người ln ln nhận thức đại đồn kết tồn dân
tộc là vấn đề sống còn, quyết định sự thành công của cách mạng. Đảng lãnh đạo nhân dân làm
cách mạng nhưng cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân đông đảo, mà không phải là
công việc của một số người, của riêng Đảng cộng sản. Đảng lãnh đạo để nhân dân đứng lên đấu
tranh tự giải phóng và xây dựng xã hội mới do mình làm chủ. Sự nghiệp ấy chỉ có thể được thực
hiện bằng sức mạnh của cả dân tộc, bằng đại đoàn kết toàn dân tộc. Nhận thức được tầm quan
trọng này, nhóm chúng em quyết định đi nghiên cứu đề tài “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
nguyên tắc, phương pháp xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong giai đoạn hiện nay”


Chương 1: Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết tồn dân tộc
1.1 Vai trị của đại đồn kết tồn dân tộc:
Khi đề cập đến vị trí, vai trị của đại đồn kết tồn dân tộc, Hồ Chí Minh khẳng định, đại
đồn kết toàn dân tộc là một chiến lược cơ bản, nhất quán, lâu dài, là vấn đề sống còn, quyết định
thành cơng của cách mạng. Đó là chiến lược tập hợp mọi lực lượng nhằm hình thành và phát triển
sức mạnh to lớn của toàn dân trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù của dân tộc, của nhân dân. Theo
Người, đoàn kết làm nên sức mạnh và là cội nguồn của mọi thành cơng: “Đồn kết là một lực
lượng vơ địch của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi”; “Đồn kết, đồn kết, đại
đồn kết; Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng”
Đối với Hồ Chí Minh, đại đồn kết khơng chỉ là khẩu hiểu chiến lược mà còn là mục tiêu lâu
dài của cách mạng. Đảng là lực lượng lãnh đạo của cách mạng Việt Nam nên tất yếu đại đoàn kết
dân tộc phải được xác định là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng và nhiệm vụ này phải được quán triệt
trong tất cả mọi lĩnh vực, từ đường lối chủ trương, chính sách, tới hoạt động thực tiễn của Đảng.
Trong lời kết thúc buổi ra mắt Đảng Lao động Việt Nam ngày 3-3-1951, Hồ Chí Minh tun bố:

“Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm trong tám chữ là: ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN,
PHỤNG SỰ TỔ QUỐC”.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, do quần chúng và vì quần chúng. Đại đồn kết là
yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng, là đòi hỏi khách quan của quần chúng nhân dân
trong cuộc dấu tranh tự giải phóng bởi nếu khơng đồn kết thì chính họ sẽ thất bại trong cuộc đấu
tranh vì lợi ích của chính mình. Nhận thức rõ điều đó, Đảng Cộng sản phải có sứ mệnh thức tỉnh,
tập hợp, hướng dẫn quần chúng, chuyển những nhu cầu, những đòi hỏi khách quan, tự phát của
quần chúng thành những đòi hỏi tự giác, thành hiện thực có tổ chức của khối đại đoàn kết, tạo
thành sức mạnh tổng hợp trong cuộc đấu tranh vì độc lập của dân tộc, tự do của nhân dân và hạnh
phúc cho con người.


1.2 Lực lượng của khối đại đoàn kết dân tộc:
Chủ thể của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, theo Hồ Chí Minh bao gồm tồn thể nhân, tất cả
những người Việt Nam yêu nước ở các giai cấp, các tầng lớp trong xã hội, các ngành, các giới, các
lứa tuổi, các dân tộc, đồng bào các tôn giáo, các đảng phái, v.v. “Nhân dân” trong tư tưởng Hồ Chí
Minh vừa được hiểu với nghĩa là con người Việt Nam cụ thể, vừa là tập hợp đồng bào quần chúng
nhân dân và cả hai đều là chủ thể của khối đại đồn kết tồn dân tộc. Nói đại đồn kết toàn dân
tộc tức là phải tập hợp, đoàn kết được tất cả mọi người dân vào khối thống nhất, không phân biệt
dân tộc, giai cấp, tầng lớp, đảng phái, tôn giáo, lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp, ở trong nước hay
ở ngoài nước cùng hướng vào mục tiêu chung, “ai có tài, có sức, có đức, có lịng phụng sự Tổ
quốc và phục vụ nhân dân thì ta đồn kết với họ”. Từ “ta” ở đây là chủ thể, vừa là Đảng Cộng sản
Việt Nam nói riêng, vừa là mọi người dân Việt Nam nói chung.
Hồ Chí Minh chỉ rõ, trong q trình xây dựng khối đại đồn kết tồn dân tộc, phải đứng
vững trên lập trường giai cấp công nhân, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa giai cấp, dân tộc để
tập hợp lực lượng, khơng bỏ sót một lực lượng nào miễn là họ có lịng trung thành và sẵn sàng
phục vụ Tổ quốc, không phản bội lại quyền lợi của nhân dân. Tư tưởng của Người đã định hướng
cho việc xây dựng khối đại đoàn kết tồn dân tộc trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, từ
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Muốn xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phải xác định rõ đâu là nền tảng của khối đại

đoàn kết dân tộc và những lực lượng nào tạo lên nền tảng đó. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đại đồn kết
tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân là công nhân, nông dân
và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền, gốc của đại đồn kết. Nó cũng như cái nền của
nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, cịn phải đồn kết các tầng lớp nhân dân khác”.
Như vậy, lực lượng làm nền tảng cho khối đại đồn kết tồn dân tộc theo quan điểm Hồ Chí Minh
là cơng nhân, nơng dân và trí thức. Nền tảng này càng được củng cố vững chắc thì khối đại đồn
kết tồn dân tộc càng có thể mở rộng, khi ấy khơng có thế lực nào có thể làm suy yếu khối đại
đoàn kết toàn dân tộc.


Trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phải đặc biệt chú trọng yếu tố “hạt nhân” là sự đoàn
kết và thống nhất trong Đảng vì đó là điều kiện cho sự đoàn kết ngoài xã hội. Sự đoàn kết của
Đảng càng được củng cố thì sự đồn kết tồn dân tộc càng được tăng cường, Đảng với nhân dân
đã tạo nên sức mạnh bên trong của cách mạng Việt Nam để vượt qua khó khăn, thử thách, chiến
thắng mọi kẻ thù, đi tới thắng lợi cuối cùng của cách mạng.
1.3 Điều kiện xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc
Xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong một mặt trận thống nhất chính là để tập hợp và
lãnh đạo quần chúng nhân dân thành một khối thống nhất về ý chí và hành động, tạo nên sức
mạnh trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, vì tự do và hạnh phúc của nhân dân dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Trong khối đại đồn kết đó, Đảng là một thành viên của Mặt trận, đồng thời là lực
lượng lãnh đạo, cho nên Đảng khơng thể địi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà
phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh
và công tác hằng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh
đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo. Đồng thời, Đảng không chỉ xây dựng và
củng cố khối đại đồn kết dân tộc mà cịn phải biến nguồn sức mạnh được tổ chức thành một khối
vững chắc và hoạt động theo đường lối chính trị đúng đắn đó thành lực lượng vật chất, sức mạnh
vật chất. Theo Hồ Chí Minh, trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta
là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đồn kết.
Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, cịn phải đồn kết với
các tầng lớp nhân dân lao động khác.

Việc đoàn kết chặt chẽ các tầng lớp nhân dân, các đảng phái, các dân tộc anh em, giữa đồng
bào lương với đồng bào các tôn giáo khác được thực hiện theo phương châm “cầu đồng tồn dị”,
lấy cái chung để hạn chế cái riêng, cái khác biệt, để cùng nhau sống hoà thuận, ấm no, xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
Cùng với đó liên minh cơng - nơng - trí (trí thức) khơng những là yêu cầu khách quan về
chính trị, làm nền tảng vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước mà còn là yêu cầu
khách quan để phát triển bền vững kinh tế, vǎn hoá, xã hội của đất nước. Tuỳ theo yêu cầu và


nhiệm vụ cụ thể của từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, Mặt trận có cương lĩnh, điều lệ phù
hợp, được tổ chức chặt chẽ, xây dựng trên nền tảng khối liên minh cơng - nơng - trí đã ln lấy
việc thống nhất lợi ích tối cao của dân tộc với lợi ích của các tầng lớp nhân dân làm cơ sở để củng
cố và không ngừng mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đó chính
đồn kết thực sự, lâu dài, chặt chẽ, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau, “là mục đích phải nhất trí và
lập trường cũng phải nhất trí. Đoàn kết thực sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học những
cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì
dân.
1.4 Hình thức tổ chức khối đại đồn kết dân tộc
Hình thức tổ chức của khối đại đoàn kết dân tộc là Mặt trận dân tộc thống nhất.
Mặt trận dân tộc thống nhất là nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước, nơi tập hợp mọi
con dân nước Việt, không chỉ ở trong nước mà con bao gồm cả những người Việt Nam định cư ở
nước ngoài, dù ở bất cứ phương trời nào, nếu tấm lòng vẫn hướng về quê hương đất nước, về Tổ
quốc Việt Nam, đều được coi là thành viên của mặt trận.
Theo Hồ Chí Minh, đại đồn kết là cơng việc của tồn dân tộc, song nó chỉ có thể được củng
cố và phát triển vững chắc khi được Đảng lãnh đạo. Sự lãnh đạo của Đảng đối với mặt trận vừa là
vấn đề mang tính nguyên tắc, vừa là một tất yếu bảo đảm cho mặt trận tồn tại, phát triển và có
hiệu lực trong thực tiễn. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh ln xác định, mối quan hệ giữa Đảng và Mặt
trận là mối quan hệ máu thịt. Khơng có Mặt trận. Đảng khơng có lực lượng không thể thực hiện
được những nhiệm vụ cách mạng; khơng có sự lãnh đạo của Đảng. Mặt trận khơng thể hình thành,
phát triển và khơng có phương hướng hoạt động đúng đắn. Do vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam vừa

là một thành viên của Mặt trận dân tộc thống nhất, vừa là lực lượng lãnh đạo mặt trận.
Để lãnh đạo Mặt trận, Đảng phải có chính sách Mặt trận đúng đắn, phù hợp với từng giai
đoạn. từng thời kỳ cách mạng, phù hợp với quyền lợi và nguvện vọng của đại đa số nhân dân.
Người viết: "Chính sách Mặt trận là một chính sách rất quan trọng. Cơng tác mặt trận là một cơng
tác rất quan trọng trong tồn bộ cơng tác cách mạng". Trong q trình lãnh đạo mặt trận, Đảng
phải đi đúng đường lối quần chúng, không được quan liêu, mệnh lệnh và gò ép các thành viên


trong mặt trận, phải dùng phương pháp vận động, giáo dục, thuyết phục, nêu gương, lấy lòng chân
thành để đối xử, cảm hóa, khơi gợi tinh thần tự giác, tự nguyện, tuyệt đối khơng được lấy qun
uy của mình để buộc các thành viên khác trong mặt trận phải tuân theo. Nói chuyện tại lớp bồi
dưỡng cán bộ về cơng tác mặt trận, Hồ Chí Minh căn dặn: "Phải thành thật lắng nghe ý kiến của
người ngoài Đảng. Cán bộ và đảng viên không được tự cạo, tự đại, cho mình là tài giỏi hơn mọi
người: trái lại phải học hỏi điều hay, điều tốt ở mọi người...phải tích cực và phải chủ động...làm
việc phải kiên nhẫn, phải thiết tha với công tác Mặt trận”.
1.5 Phương thức xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc là thiêng liêng và bất khả xâm
phạm của mỗi con người. Song, con người không bao giờ là một chủ thể tách biệt xã hội, con
người luôn là con người xã hội và sống trong lòng mỗi quốc gia dân tộc cụ thể. Vì lẽ đó, quyền
của con người ln gắn liền với quyền của quốc gia, dân tộc. Con người chỉ có thể mưu cầu hạnh
phúc cho chính mình, được sống và được tôn trọng phẩm giá khi quốc gia dân tộc độc lập, tự do.
Như vậy, xác định mục tiêu phản ánh được lợi ích căn bản, cấp bách và nóng bỏng nhất của toàn
thể dân tộc Việt Nam đang sống trong cảnh độc lập, tự do của Tổ quốc bị đe dọa là phương thức
quan trọng để quy tụ sức mạnh toàn dân tộc của Người.
Thứ nhất, đại đoàn kết được xây dựng trên cơ sở đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục
đối với quần chúng nhân dân.Để tăng cường khối đại đồn kết dân tộc, Hồ Chí Minh rất chú trọng
tiến hành công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục quần chúng. Công tác tuyên truyền theo
Người là một khoa học, nghệ thuật cách mạng, do vậy các tổ chức và cán bộ cách mạng phải
khơng ngừng tìm tịi lựa chọn nội dung, hình thức phù hợp để chuyển tải đường lối của Đảng một
cách sâu rộng tới nhân dân.

Muốn làm được điều đó, việc quan trọng hàng đầu đòi hỏi nội dung tuyên truyền, giáo dục,
vận động phải phản ánh đúng những nguyện vọng sâu xa và những lợi ích cơ bản nhất của dân
chúng. Ở đây có những quyền lợi, nguyện vọng chung có thể gắn kết mọi thành viên của dân tộc
nhưng cũng có những nguyện vọng riêng phù hợp với một bộ phận dân chúng, giai cấp. Do đó,
nội dung tuyên truyền, giáo dục cần phải đáp ứng được hai yêu cầu trên. Có được nội dung tuyên


truyền, vận động đúng đắn là cần thiết, song hiệu quả tập hợp, đồn kết lực lượng cách mạng cịn
phụ thuộc vào việc sử dụng các hình thức tuyên truyền, vận động sao cho phù hợp với từng đối
tượng cụ thể, và chính Người là một điển hình mẫu mực về việc sử dụng hiệu quả các hình thức
tuyên truyền, vận động quần chúng.
Như vậy, trong tư tưởng của Người, để không ngừng củng cố và tăng cường khối đại đồn
kết dân tộc thì cơng tác tun truyền, giáo dục, vận động quần chúng có một vai trị, vị trí đặc biệt
quan trọng. Điều cần lưu ý phải ln có một nội dung và hình thức tuyên truyền phù hợp với từng
đối tượng, từng giai đoạn cách mạng cụ thể và đặc biệt coi trọng giáo dục tinh thần đoàn kết giữa
các dân tộc, các tôn giáo trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Hai là, thành lập đoàn thể,tổ chức quần chúng phù hợp với từng đối tượng để tập hợp quần
chúng. Theo Hồ Chí Minh, để tập quần chúng nhân dân một cách hiệu quả, cần phải tổ chức đoàn
thể, tổ chức quần chúng. Các đoàn thể, tổ chức quần chúng ra đời, dưới sự lãnh đạo của Đảng, có
nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục, giác ngộ, vận động, tập hợp các tầng lớp nhân dân tham gia cách
mạng, đấu tranh bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Chính vì vậy mà trong suốt tiến trình cách
mạng Việt Nam, xây dựng và bảo vệ đất nước, các tổ chức, đồn thể khơng ngừng lớn mạnh về số
lượng, hoạt động ngày càng có hiệu quả, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của cách mạng, là hạt nhân
của khối đại đoàn kết toàn dân.
Ba là, các đoàn thể, tổ chức quần chúng được tập hợp và đoàn kết trong Mặt trận dân tộc
thống nhất. Các đoàn thể, tổ chức quần chúng hợp thành Mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt trận
dân tộc thống nhất ngày càng rộng rãi, càng chặt chẽ, thống nhất bao nhiêu thì khối đại đồn kết
tồn dân tộc càng mạnh mẽ, càng bền vững bấy nhiêu. Các đoàn thể, tổ chức quần chúng và Mặt
trận dân tộc thống nhất là sợi dây gắn kết Đảng với nhân dân. Như vậy, bản chất của đoàn thể
nhân dân, các tổ chức quần chúng là tổ chức của dân, do đó vai trị của Mặt trận và các đồn thể

nhân dân là phải vận động quần chúng bao gồm các giai cấp, các tầng lớp trong xã hội tham gia
vào các tổ chức của mình.
Quán triệt sâu sắc, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết
dân tộc, Đảng ta khẳng định: Đại đoàn kết toàn dân tộc ở Việt Nam là sự liên kết, gắn bó tất cả các


thành viên các dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất nước,
người trong Đảng và người ngồi Đảng, người đang cơng tác, người đã nghỉ hưu và mọi thành
viên trong đại gia đình dân tộc Việt Nam dù sống trong nước hay ở nước ngoài thành một khối
vững chắc, ổn định, lâu dài nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo. Trong khối đại đồn kết đó, giai cấp cơng nhân, giai cấp nơng dân và tầng
lớp trí thức là lực lượng nịng cốt, đơng đảo nhất, đồng thời là cơ sở vững chắc của khối đại đoàn
kết toàn dân tộc. Thông qua khối liên minh này, Đảng, Nhà nước có thể tập hợp, vận động các
tầng lớp nhân dân lao động khác tham gia quản lý nhà nước, làm chủ xã hội, làm cho lợi ích giai
cấp gắn chặt với lợi ích dân tộc, tạo đồng thuận cao trong xã hội.
Chương 2: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc, phương pháp đại đoàn kết dân
tộc trong giai đoạn hiện nay
2.1 Nguyên tắc đại đoàn kết toàn dân tộc
Nguyên tắc của đại đoàn kết toàn dân tộc, trước hết là tin vào dân, dựa vào dân vì lợi ích của
dân để đồn kết tồn dân, phát động các phong trài thi đua yêu nước trong lao động, học tập, sản
xuất và chiến đấu. Thứ hai, đoàn kết lâu dài, rộng rãi, chặt chẽ, tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo.
Thứ ba, đồn kết trên cơ sở hiệp thương, dân chủ, chân thành, thẳng thắn, thân ái; đồn kết gắn
với đấu tranh; tự phê bình và phê bình. Thứ tư, đồn kết trên cơ sở kế thừa truyền thống yêu nước
- nhân nghĩa – đoàn kết của dân tộc. Phải có lịng khoan dung, độ lượng với con người, trân trọng
“phần thiện”, dù nhỏ nhất ở mỗi con người để tập hợp, quy tụ rỗng rãi mọi lực lượng.
Song song với việc xây dựng những đức tính tốt để đồn kết tồn Đảng, tồn dân tộc, Hồ
Chí Minh cũng chỉ rõ, phải chống những cái xấu, những căn bệnh gây chia rẽ, mất đoàn kết. Đặc
biệt là căn bệnh hẹp hòi. Thứ hai, phải chống chủ nghĩa cá nhân. Do chủ nghĩa cá nhân mà cán bộ,
đảng viên sa vào tham ơ, hủ hóa, lãng phí, xa hoa, tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành, tự

cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, xa rời thực tế, quan liêu, mệnh lệnh, độc
đoán, chuyên quyền.


2.2 Phương pháp phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
2.2.1 Tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền để các cấp, ngành, lực lượng nhận thức sâu sắc về sự
cần thiết phải tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc hiện nay.
Các cấp ủy đảng và người đứng đầu tăng cường lãnh đạo, kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc
học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và các chỉ thị, nghị quyết của Đảng
về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, về công tác dân vận, công tác mặt trận và các
đoàn thể. Đưa nội dung lãnh đạo các công tác này thành một trong những tiêu chuẩn đánh giá mức
độ hoàn thành nhiệm vụ của tổ chức đảng các cấp.
Phải khơi dậy và phát huy đến mức cao nhất sức mạnh dân tộc và củng cố hệ thống chính trị,
đảm bảo an ninh quốc phịng, trật tự an tồn xã hội. Điều đó được thể hiện một cách nhấn mạnh
trong đại hội Đảng lân thứ I, X, XI khẳng định: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược
của cách mạng Việt Nam, là động lực nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Để
phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, Đại hội XII đã đề ra phương hướng nhiệm vụ tăng
cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và đội ngũ tri thức do Đảng lãnh đạo. Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng sáng
tạo của nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hịa
bình, độc lập, thống nhất, tồn vẹn lãnh thổ. Đảng phải làm cho Nhà nước thật sự là của dân, do
dân, vì dân. Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể chính trị - xã hội là cầu nối gắn kết Đảng, Nhà nước
với nhân dân. Coi đoàn kết là lẽ sống, đạo lý của Đảng, của dân tộc ta trong dựng nước và giữ
nước, mỗi cán bộ, đảng viên phải coi đồn kết là một đức tính cơ bản của người cách mạng và
phải chăm lo xây dựng Đảng và phải giữ hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
Các cấp ủy cần tiếp tục nâng cao nhận thức về vị trí, vai trị và tầm quan trọng tư tưởng Hồ
Chí Minh về đại đồn kết tồn dân tộc gắn với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị
về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và chuyên đề
năm 2020 về “Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị
trong sạch, vững mạnh theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”. Đại đồn kết là sự



nghiệp của cả dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là Đảng Cộng sản, được
thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức; trong đó, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Đó là nguồn sức mạnh, động lực chủ
yếu, là nhân tố bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ví dụ: Các cấp ủy đảng và người đứng đầu thường xuyên tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với
nhân dân, lắng nghe ý kiến đóng góp của nhân dân. Cần thực hiện triệt để Quy định số 101QĐ/TW của Ban Bí thư khóa XI về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán
bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”; Quy định số 08-QĐi/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa XII về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy
viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương”. Cán bộ, đảng viên phải xung phong,
gương mẫu học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, nhất là về đồn kết và
xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh để nhân dân học và làm theo.
2.2.2 Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh cơng – nơng – trí
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Hồ Chí Minh coi đồn kết, đại đoàn kết toàn dân tộc như một mục tiêu, một nhiệm vụ hàng
đầu của Đảng. Để thực điện được mục tiêu đó thì phải làm tốt cơng tác vận động quần chúng để
thu hút quần chúng đoàn kết mọi người, tạo ra động lực phát triển. Cần tuyên truyền, vận động
nhân dân. Nội dung tuyên truyền phải đáp ứng đúng nguyện vọng, quyền lợi của nhân dân và yêu
cầu của thực tiễn cách mạng. Tuyên truyền, vận động phải phù hợp với từng đối tượng, dễ hiểu, dễ
nhớ, dễ làm theo. Nên để vận động được quần chúng nhân dân thì Đảng, Nhà nước cúng như cán
bộ, đảng viên phải biết làm tốt công tác giáo dục, tuyên truyền, hướng dẫn, giúp đỡ nhân dân thực
hiện mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, phải giúp nhân
dân hiểu đầy đủ, sâu sắc về quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ của người công dân đối với Đảng,
với Tổ Quốc và với dân tộc, từ đó họ tích cực chủ động, tự giác, phấn đấu và cống hiến cho sự
nghiệp cách mạng. Nôi dung tuyên truyền và phương pháp tiếp cận và vận động quần chúng đều
phải phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của quần chúng, đồng thời phải xuất phát từ thực tế trình
độ dân trí và văn hóa theo cả nghĩa rộng và hẹp, bao gồm cả phong tục, tập quán cụ thể theo từng
địa phương, từng đội tượng nhân dân.



Để đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng thật sự là nguồn sức mạnh, là động lực chủ yếu
và là nhân tố có ý nghĩa quyết định, bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, cần làm cho cả hệ thống chính trị, từng cán bộ, đảng viên, trước hết là các cấp ủy
đảng và người đứng đầu cấp ủy quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
và mặt trận dân tộc đề xướng. Phải nắm vững những quan điểm cơ bản và cũng là những định
hướng về phát huy sức mạnh đại đồn kết dân tộc trong giai đoạn hiện nay. Đó là lợi ích cơ bản
của nhân dân, của dân tộc ta ngày nay là độc lập, tự do và cuộc sống ấm no, hạnh phúc trong chủ
nghĩa xã hội. Lợi ích đó thể hiện cụ thể hằng ngày trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội, an ninh, quốc phịng. Củng cố tăng cường đồn kết hiện nay không thể chung chung mà
phải gắn chặt với việc bảo đảm các lợi ích đó. Một trong những động lực thúc đẩy nhân dân tăng
cường đồn kết trong tình hình hiện nay là quyền làm chủ đất nước của nhân dân cần được tôn
trọng. Pháp luật phải bảo đảm để nhân dân thật sự là người chủ, thật sự làm chủ như Hiến pháp đã
quy định.
Nhà nước đã tập trung làm tôt các công tác dân vận, Nâng cao hiệu quả tuyên truyền, vận
động, tập hợp các tầng lớp nhân dân thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước nhằm phát huy vai trò đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân
dân gắn với thực hiện tốt trách nhiệm của cơng dân, phát huy dân chủ, giữ gìn kỷ cương, chống
quan liêu, tham ơ, tham nhũng, lãng phí. các tổ chức chính trị – xã hội và nhân dân đối với việc tu
dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng viên”,
góp phần xây dựng Đảng và chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh. Để từ đó, nâng cao vai
trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân trong tham gia xây dựng và hồn
thiện một số chính sách để củng cố và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần bảo
đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, Mặt trận phải
đoàn kết rộng rãi, chân thành mọi thành viên trong xã hội, không phân biệt quá khứ, thành phần
giai cấp, dân tộc, tôn giáo, ở trong nước hay ở nước ngoài trên cơ sở mục tiêu chung là giữ vững
độc lập, thống nhất chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Vì theo Bác thì các đồn thể, tổ chức
quần chúng nhân dân càng rộng rãng, cách chặt chẽ thống nhất bao nhiêu thì khối đại đồn kết
dân tộc càng mạnh mẽ, càng bền vũng bấy nhiêu. Công tác vận động quần chúng phải dựa trên



chiến lược: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công!”. Để thu
hút tập hợp và đoàn kết giúp xây dựng đất nước.
Bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hoá của đồng bào các dân tộc. Nhìn chung, những
chính sách mà Đảng và Nhà nước ban hành trong những năm qua đã góp phần quan trọng trong
việc lưu giữ và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống của các dân tộc để nâng cao tinh thần kết.
Các hoạt động văn hóa ở nhiều vùng miền dân tộc biểu hiện một cách sâu sắc tình đồn kết nhất
trí giữa các dân tộc với nhau. Sự giao lưu các sinh hoạt văn hóa giữa các dân tộc thiểu số đã góp
phần tạo nên sự liên kết chặt chẽ, tăng cường tình đồn kết nhất trí trong cộng đồng các dân tộc.
Theo đó, văn hóa Việt Nam ngày càng thể hiện một cách mạnh mẽ tính đa dạng trong thống nhất,
thể hiện cốt cách, tinh thần của dân tộc.
Ví dụ: Sau hơn hai mươi năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nền kinh tế nước ta từ
nền kinh tế bao cấp, trì trệ bị bao vây cấm vận, đời sống nhân dân hết sức khó khăn, đã có những
bước tiến vững vàng và đạt được những thành tựu to lớn, tạo đà cho thế kỷ phát triển mới của đất
nước. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, kinh tế tăng trưởng nhanh, cơ sở vật chất
- kỹ thuật được tăng cường, đời sống của các tầng lớp nhân dân không ngừng được cải thiện. Quy
mô tổng sản phẩm trong nước ngày càng gia tăng. Ngoài ra, nhờ nâng cao tinh thần đoàn kết nước
ta đã là 1 trong nhứng nước an toàn trong dịch Covid 19. Quá trình hội nhập kinh tế khu vực và
thế giới đã đạt được những kết quả tích cực. Việt Nam đã tham gia hợp tác, liên kết kinh tế quốc tế
trên các cấp độ, trong các lĩnh vực kinh tế then chốt và năm 2007 Việt Nam đã trở thành thành
viên chính thức thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), có ký kết hiệp định EVFTA
thành cơng... Những thành tựu đạt được trong các hoạt động kinh tế đã nâng cao từng bước đời
sống của đồng bào các dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu số, từ đó củng cố chặt chẽ lịng tin của
nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Kết quả này cũng minh chứng một điều rằng:
các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam đã phát huy được truyền thống tương trợ, giúp đỡ nhau
trong lao động sản xuất và ý thức sâu sắc được sức mạnh của truyền thống đó. Đồng thời, tinh
thần đồn kết tương trợ lẫn nhau của đồng bào dân tộc miền núi cũng được đẩy mạnh hơn nữa,
cùng nhau góp phần vào sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.



3. Đại đoàn kết dân tộc kết hợp với đoàn kết quốc tế
Ngay khi thành người cộng sản, chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định cách mạng Việt Nam là
một bộ phận của cách mạng thế giới và chỉ có thể dành thắng lợi hồn tồn khi có sự đoàn kết
chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới. Trong quá trình cách mạng tư tưởng của Người về
vấn đề đoàn kết với cách mạng thế giới càng được làm sáng tỏ hơn và đầy đủ hơn. Cách mạng
Việt Nam phải gắn với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, với các nước xã hội chủ nghĩa,
với tất cả các lực lượng tiến bộ đấu tranh cho dân chủ, tiến bộ và hịa bình thế giới. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã xây dựng thành cơng 3 tầng Mặt trận: Mặt trận đại đoàn kết dân tộc; Mặt trận đoàn
kết Việt – Miên – Lào và Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam trong cuộc đấu tranh
chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Đây là sự phát triển rụce rỡ và là thắng lợi to lớn
của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rõ:“ Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết. Thành cơng, thành
cơng, đại thành cơng”. Đồn kết trong Đảng là cơ sở để đoàn kết toàn dân tộc. Đoàn kết toàn dân
tộc là cơ sở để thực hiện đại đoàn kết quốc tế. Tư tưởng Đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh
được thực hiện thành cơng là một nhân tố quyết định cách mạng dân tộc dân chủ ở Việt Nam đi
đến thắng lợi hoàn toàn và đưa cách mạng Việt Nam lên giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Trong giai đoạn hiện nay, quốc tế và trong nước đang có nhiều biến chuyển nhanh chóng và
sâu sắc từ đó địi hỏi phải rút ra những bài học trong chiến lược đoàn kết quốc tế. Vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết tồn dân tộc, Đảng ta đã xác định đoàn kết để thực hiện bốn
mục tiêu trong giai đoạn cách mạng hiện nay:
Một là, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, xã hội công bằng, xã hội công bằng văn minh.
Hai là, mở cửa, hội nhập quốc tế, là bạn của tất cả các nước, phấn đấu vì hịa bình, độc lập
và phát triển, đồng thời phải tham gia những vấn đề toàn cầu hiện nay của quốc tế.
Ba là, phải nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, kết hợp với sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế để công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, góp phần vào sự nghiệp cách mạng thế giới.


Bốn là, xây dựng Đảng trong sạch , vững mạnh làm hạt nhân đoàn kết toàn dân tộc và đoàn

kết quốc tế, tiếp tục đổi mới và chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng cho ngang tầm nhiệm vụ của dân tộc và của thời đại.
Những quan điểm và giá trị thực tiễn của tư tưởng đồn kết quốc tế Hồ Chí Minh là những
bài học quý báu cần được nhận thức và vận dụng sáng tạo cho phù hợp với cách mạng Việt Nam
và thế giới tiến bộ trong giai đoạn hiện nay.

Kết luận
Trong tất cả mọi người Việt Nam sống ở trong nước hay ở nước ngồi đều ln ln tiềm ẩn
tinh thần, ý thức dân tộc trong tâm thức của họ. Vì vậy, khơi nguồn và phát triển đến đỉnh cao sức
mạnh dân tộc và trí tuệ của con người Việt Nam, thực thi chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ
Chí Minh một cách sáng tạo, quy tụ lực lượng dân tộc bằng nội dung và hình thức tổ chức thích
hợp với mọi đối tượng tập thể và cá nhân trên cơ sở lấy liên minh công nông và trí thức làm nịng
cốt do Đảng Cộng sản lãnh đạo, phấn đấu vì độc lập của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của của toàn
dân là một bài học kinh nghiệm lịch sử có giá trị bền vững lâu dài, đặc biệt có ý nghĩa chính trị
quan trọng trong sự nghiệp thực thi đường lối đổi mới, thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội hiện nay.
Qua những phân tích trên ta có thể thấy, tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết có một vai
trị cực kỳ quan trọng. Nó khơng chỉ là lời giải đáp đúng đắn cho những bài tốn của cách mạng
vào thời điểm đó mà trong suốt chiều dài lịch sử nó vẫn giữ nguyên giá trị. Thực tiễn cách mạng
Việt Nam trên 70 năm qua đã chứng minh hùng hồn sức sống kỳ diệu và sức mạnh vĩ đại của tư
tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. Đại đoàn kết dân tộc, từ chỗ là tư tưởng của lãnh tụ
đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối chiến lược của Đảng cộng sản Việt Nam trong cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng đó đã thấm
sâu vào tư tưởng, tình cảm của tất cả những người Việt Nam yêu nước và biến nó thành hành


động cách mạng của hàng triệu, hàng triệu con người, tạo thành sức mạnh vơ địch trong sự nghiệp
giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Lịch sử cách mạng Việt Nam hon nửa thế kỷ qua
cho thấy, lúc nào, nơi nào tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh được quán triệt và thực
hiện đúng, thì khi đó, nơi đó cách mạng phát triển mạnh mẽ và giành được thăng lợi, nơi nào, lúc

nào rời xa tư tưởng đó thì khi đó, nơi đó cách mạng bị trở ngại và tổn thất.



×