TIẾP CẬN VÀ PHÂN TÍCH TÁC PHẨM TRỮ TÌNH
(Phần 1)
Trần Đăng Suyền
Có thể xem thơ là dạng tiêu biểu nhất, dạng gốc của văn chương. Nếu văn học
nghệ thuật là “quy luật riêng của tình cảm” thì điều đó được biểu hiện tập trung, sâu sắc
nhất trong thơ. Hê ghen cho rằng: “Thơ bắt đầu từ cái ngày mà con người cảm thấy cần
phải tự biểu hiện lòng mình”. Nhiều nhà nghiên cứu khẳng định bản chất của thơ là phản
ánh cuộc sống; giàu liên tưởng và tưởng tượng ( thơ là thế giới của những ước mơ); có
chất trí tuệ, chất triết lí,.. nhưng chất trữ tình mới là đặc trưng quan trọng nhất, kì diệu
nhất của thơ ca.
Đặc trưng của thơ trữ tình là sự bộc bạch trực tiếp ý nghĩ và cảm xúc, trong đó
tình cảm là mạch phát triển then chốt của tác phẩm. Nếu như ở tác phẩm tự sự, nhà văn
xây dựng bức tranh về đời sống, trong đó, trung tâm là nhân vật, có đường đi và số phận
riêng; tác giả kịch, bằng đối thoại, độc thoại, thể hiện tính cách và hành động của con
người qua những mâu thuẫn, xung đột; thì ở tác phẩm trữ tình, thế giới nội tâm con
người, cảm xúc, tâm trạng, ý nghĩ được trình bày trực tiếp, làm thành nội dung chủ yếu
của tác phẩm. Nếu thế mạnh của tiểu thuyết là chiều rộng, là sự phong phú, phức tạp, thì
thế mạnh của thơ trữ tình là chiều sâu, là chắt lọc, kết tinh. Tiếng nói của thơ là tiếng nói
thấm đãm tình cảm, tiếng nói xúc động, cô đọng, tinh tế. Thơ trữ tình cũng tái hiện các
hiện tượng đời sống, như miêu tả phong cảnh thiên nhiên, sự vật, hoặc thuật lại một vài
sự kiện tương đối liên tục nhưng sự tái hiện này không mang mục đích tự thân, mà tạo
điều kiện để chủ thể trữ tình bộc lộ những cảm xúc, tình cảm, những chiêm nghiệm và
suy tưởng của mình. Nguyên tắc chủ quan là nguyên tắc cơ bản trong việc chiếm lĩnh
hiện thực, là nhân tố cơ bản quy định những đặc điểm cốt yếu của thơ trữ tình nói riêng
và tác phẩm trữ tình nói chung. Bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan, đâu
phải đơn thuần là bức tranh Đèo Ngang lúc xế chiều, mà quan trọng hơn là tâm trạng,
cảm xúc của nữ sĩ khi bước chân tới đó. Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm gợi cảnh
vật và con người vùng quê Kinh Bắc, nhưng chìm sâu trong những cảnh vật đó là dòng
tình cảm cuồn cuộn tuôn trào của nhà thơ khi nghe tin giặc tàn phá quê hương mình. Tây
Tiến của Quang Dũng cũng có nhiều cảnh vật, nơi in dấu chân của đoàn quân Tây Tiến,
nhưng bao trùm lên tất cả vẫn là nỗi “ nhớ chơi vơi”, bồi hồi, da diết của nhà thơ về
những cuộc hành quân, về những kỉ niệm sống mãi cùng năm tháng của đoàn quân. Đất
nước của Nguyễn Đình Thi gợi lên nhiều bức tranh về mùa thu, mùa thu Hà Nội năm
xưa, mùa thu ở chiến khu Việt Bắc trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp;
nhưng thực chất, đó cũng chỉ là cái phông, cái nền làm nổi bật lên tâm trạng, sự vận động
tâm trạng của nhà thơ… Có thể nói, biểu hiện trực tiếp tâm trạng, cảm xúc, tâm tư và suy
nghĩ của con người là cách phản ánh thế giới riêng của thơ trữ tình, đồng thời cũng là nội
dung chủ yếu của tác phẩm thơ trữ tình. Nghiên cứu, phân tích là phải hướng tới việc
khám phá, phát hiện ra nội dung chủ yếu đó. Việc miêu tả các sự vật, chi tiết, hiện tượng
đời sống khách quan có ý nghĩa quan trọng; nhưng xét đến cùng cũng không nằm ngoài
mục đích hướng tới việc khơi dậy những tình cảm phong phú, sâu sắc, mới mẻ của nhà
thơ. Người Trung Quốc xưa nhận xét chí lí rằng: “ Thơ hay như người con gái đẹp, cái để
làm quen là nhan sắc, nhưng cái để sống với nhau lâu dài là đức hạnh; chữ nghĩa là nhan
sắc của thơ, tấm lòng mới là đức hạnh của thơ”. Sức mạnh của thơ trữ tình không chỉ ở
chỗ bộc lộ một cách chân thành, tinh tế những rung động, những nỗi niềm riêng tư, chủ
quan, thầm kín của con người mà còn có khả năng thâm nhập vào những chân lí phổ biến
nhất của tồn tại con người, đạt được những khái quát nghệ thuật cao. Không phải không
có lí khi nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, khái quát trữ tình thường có tầm vóc phổ quát
nhất về tồn tại và nhân sinh, về sự sống và cái chết, về tính yêu và hạnh phúc, về lí tưởng
và tương lai, v.v.
Trong phương thức trữ tình, cái tôi trữ tình có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì
nó là nguồn trực tiếp duy nhất của nội dung tác phẩm. Chế Lan Viên nhận xét xác rằng:
“Hãy bỏ cái tư thế đứng từ bản thân mình, từ kinh nghiệm của đời sống riêng mình, cái tư
thế lấy mình ra chịu trách nhiệm mà nói. Tức thì bài thơ hiện thực dường như không thực
nữa và sẽ mất đi rất nhiều sức chấn động, ngân vang. Khác nào ta nghe một tiếng nói
giữa trời mà không biết tiếng của ai cả” ( Tựa Thơ Tố Hữu, NXB Văn học, H.,1963).
Cái tôi trữ tình thường xuất hiện dưới dạng nhân vật tữ tình. Đó là hình tượng nhà
thơ trong thơ trữ tình, phương thức bộc lộ ý thức tác giả, là nhân vật trực tiếp bộc lộ suy
nghĩ và tình cảm, tâm trạng và cảm xúc trong tác phẩm. Không có khả năng hiện ra một
cách cụ thể, có diện mạo, lời nói, hành động và tính cách như nhân vật trong tác phẩm tự
sự; nhân vật trữ tình có khả năng bộc lộ mình qua giọng điệu cảm xúc, trong cách cảm,
cách nghĩ. Qua những trang thơ, ta có thể bắt gặp một tâm hồn, một tấm lòng. “ Đọc thơ,
ta như đọc những bản tự thuật tâm trạng. Ta hiểu hơn đời sống nội tâm của họ với những
chi tiết về quê hương, về kỉ niệm cuộc sống, về cá tính sáng tạo”. Đọc Truyện Kiều, ta có
thể hiểu được phần nào về cuộc đời, con người và tâm sự của Nguyễn Du, như Hoài
Thanh nhận xét: “ Không trải qua một cuộc đời nhiều chìm nổi trong một thời đại nhiều
biến thiên, không có một tấm lòng thiết tha lớn với vận mệnh con người, không biết đứng
về phía quần chúng mà nhìn mọi nỗi bất công, mọi điều oan khuất, không biết cùng với
quần chúng băn khoăn, phẫn nộ, ước mơ, không thể sáng tạo ra một thế giới như vậy.
Cũng cần nói thêm: không có một vốn học sâu rộng, vừa học trong sách vở vừa học trong
cuộc đời, không có sẵn một sức tưởng tượng phi thường, một thứ năng khiếu đặc biệt về
ngữ ngôn, về vần điệu cũng không thể dựng nên một thế giới nghệ thuật như vậy”. Đọc
Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh, Viên Ưng cho rằng: “ Trong tập sách nhỏ gồm hơn
một trăm ba mươi bài thơ cũ Trung Quốc không những chúng ta được thấy lại bộ mặt tàn
khốc đen tối của nhà từ Trung Quốc mà chúng ta còn được gặp một tâm hồn vĩ đại của
một nhà ái quốc, một tâm hồn vĩ đạicủa một bậc đại trí, đại nhân, đại dũng”.
Giữa nhân vật trữ tình và nhà thơ có sự thống nhất, có mối quan hệ mật thiết.
Thông thường, người ta vẫn xem nhân vật trữ tình như hình tượng nhà thơ trong thơ trữ
tình. Ấy là một nhân vật được khái quát như một tính cách văn học được xây dựng trên
cơ sở lấy các sự kiện, sự thật của cuộc đời tác giả làm nguyên mẫu. Trong trường hợp
này, nó như là hiện thân của tác giả và cũng giống như quy luật chung của sáng tạo văn
học, nó đồng thời cũng như cái “tôi”, một nhân vật được nhà thơ sáng tạo ra. Vì vậy,
không được đồng nhất giản đơn, máy móc hình tượng nhân vật trữ tình với cá nhân nhà
thơ, với con người ngoài đời của tác giả.
Thơ trữ tình bao giờ cũng gợi lên những sự thật về đời sống tâm hồn, đời sống tinh
thần của nha thơ, của những cá nhân trong một tình huống trữ tình, một cảnh ngộ, một
hoàn cảnh cụ thể, riêng biệt. Tâm trạng của nhà thơ trong tác phẩm là của một cá nhân cụ
thể, trước một đối tượng cụ thể, trong một thời gian, không gian cụ thể. Nghiên cứu thơ,
cần phải tìm hiểu sắc thái chủ quan riêng biệt của tâm trạng tác giả mới thấy được nét độc
đáo, vẻ đẹp và sức hấp dẫn riêng của bài thơ. Nhưng tâm trạng được này sinh từ một con
người cụ thể của một hoàn cảnh xã hội cụ thể, nên ít nhiều cũng mang ý nghĩa xã hội.
Qua tâm trạng của một người có thể thấy tâm trạng của một lớp người nào đó. Ở đây, tâm
trạng, tình cảm riêng của nhà thơ chỉ thực sự có ý nghĩa khi thống nhất, tiêu biểu cho tình
cảm chung, mang ý nghĩa khái quát. Sự thống nhất hài hòa giữa cái riêng biệt, cá thể và
cái tiêu biểu, khái quát làm nên ý nghĩa của việc sáng tạo nhân vật trữ tình. Khi sáng tác
thơ trữ tình nhà thơ phải tự vượt lên những cảm xúc vụn vặt, những tâm trạng lạc lõng,
phải có ý thức tự nâng mình lên thành người mang tâm trạng, cảm xúc, ý nghĩa, tiêu biểu
cho một tầng lớp, một loại người, một thế hệ, một thời đại. Niềm vui sướng, tiếng reo vui
khi bắt gặp lí tưởng cộng sản, vào cái giây phút được “ Mặt trời chân lí chói qua tim” của
Tố Hữu trong Từ ấy vừa rất riêng tư, lại vừa là tình cảm chung cho cả một thế hệ, một lớp
người trẻ tuổi buổi đầu sôi nổi đến với cách mạng. Nỗi nhớ con sông quê hương của Tế
Hanh ( trong Nhớ cong sông quê hương) cũng thật tiêu biểu cho tình cảm nhớ thương quê
hương, nhớ về một miền đất lúc bấy giờ còn nằm trong tay giặc, hòa quyện vào khát
vọng thống nhất đất nước của con người Việt Namthowif đại chống Mĩ cứu nước. Dòng
cảm xúc, tình cảm cuồn cuộn tuôn trào, vừa nuối tiếc, xót thương, vừa uất ức, căm giận
của Hoàng Cầm ( trong Bên kia sông Đuống) khi nghe tin giặc tàn phá quê hương ông,
rất cá thể nhưng cũng rất tiêu biểu cho tình cảm của nhiều người Việt Nam trong những
năm kháng chiến chống thực dân Pháp, đã động đến tình yêu quê hương của mọi người
Việt Nam. Nỗi nhớ nhung thường trực mà da diết, rất riêng tư của Xuân Quỳnh trong bài
thơ Sóng: “ Lòng em nhớ đến anh- Cả trong mơ còn thức- Dẫu xuôi về phương bắc- Dẫu
ngược về phương Nam- Nơi nào em cũng nghĩ- Hướng về anh – một phương” cũng thật
tiêu biểu, điển hình, là tâm trạng chung của người phụ nữ thủy chung, son sắt, sống hết
mình trong tình yêu.
Trong thơ trữ tình, nhà thơ cũng có thể hóa thân vào một nhân vật nào đó, tạo
thành nhân vật trữ tình nhập vai. Đó là các nhân vật chinh phụ trong Chinh phụ ngâm của
Đặng Trần Côn, người kĩ nữ trong Lời kĩ nữ của Xuân Diệu; và cũng có thể là con hổ
trong Nhớ rừng của Thế Lữ, hình tượng sóng trong bài thơ cùng tên của Xuân Quỳnh. Ở
đây, yếu tố nhập vai và yếu tố tự thuật tâm trạng có mối liên hệ mật thiết với nhau. Và dù
bằng cách nào, trực tiếp bộc lộ tư tưởng, tình cảm, cảm xúc qua nhân vật trữ tình hay
nhân vật trữ tình nhập vai, cái tôi quan trọng của thơ trữ tình là phải chân thật, vừa phải
thể hiện được cái riêng tư, chủ quan, vừa tiêu biểu cho tư tưởng và tình cảm chung, phản
ánh được gương mặt tinh thần của xã hội và thời đại. Sóng Hồng cho rằng: “ Thơ tức là
sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp”. Belinxkib khẳng định: “ Bất cứ thi
sĩ nào cũng không thể trở thành vĩ đại nếu chỉ do ở mình, và chỉ miêu tả mình- dù chỉ là
miêu tả những nỗi khổ đaucủa mình hay những hạnh phúc của mình. Bất cứ thi sĩ vĩ đại
nào, sở dĩ họ vĩ đại là bởi vì những đau khổ và hạnh phúc của họ bắt nguồn từ khoảng sâu
thẳm của lịch sử xã hội; bởi vì họ là khí quan và đại biểu của xã hội, của thời đại và của
nhân loại”. Nghiên cứu, phân tích tác phẩm thơ trữ tình không thể không chỉ ra cái riêng,
nét đặc sắc của nhân vật trữa tình, qua đó, thấy được phẩm chất, cá tính của nhà thơ.
(Còn tiếp)