1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đảng Nhân dân cách mạng (NDCM) Lào là bộ tham mưu chính trị, là
đội tiên phong có tổ chức của giai cấp công nhân, là đại diện lợi ích của dân
tộc và quần chúng nhân dân lao động, có tinh thần yêu nước và tiến bộ, là hạt
nhân lãnh đạo trong hệ thống chính trị của chế độ dân chủ nhân dân. Cho nên
việc tiếp tục củng cố, xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức là yếu tố quyết định sự thành công của cách mạng.
Đội ngũ đảng viên (ĐNĐV) là nhân tố cơ bản tạo nên hệ thống tổ chức
của Đảng. Đảng mạnh là nhờ có hệ thống tổ chức đảng mạnh, hệ thống tổ
chức đảng mạnh là nhờ có ĐNĐV có chất lượng tốt và ngược lại. Bởi vì suy
cho cùng toàn bộ sức mạnh của Đảng, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng, đều phụ thuộc vào chất lượng, số lượng và cơ cấu ĐNĐV. Do đó, việc
xây dựng ĐNĐV có chất lượng, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ,
năng lực hoàn thành tốt nhiệm vụ, thật sự là những đại biểu ưu tú của giai cấp
công nhân, đáp ứng yêu cầu của cách mạng là nội dung chủ yếu của công tác
xây dựng Đảng, là một trong những yếu tố quan trọng để củng cố, tăng cường
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Đảng NDCM Lào ý thức được
điều đó, nên ngay từ khi ra đời đến nay, Đảng luôn luôn quan tâm xây dựng
ĐNĐV nói chung, xây dựng ĐNĐV ở các chi bộ nói riêng.
Trong tình hình hiện nay, Đảng NDCM Lào chủ trương phát triển kinh
tế từ hình thái tự cung tự cấp, sản xuất tự nhiên tiến tới sản xuất hàng hoá, vận
dụng kinh tế nhiều thành phần, phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường có sự
lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Thực tế ĐNĐV ở các chi bộ bản
tỉnh Hủa Phăn đã vượt qua được những thử thách, giữ vững phẩm chất đạo
đức, có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với Đảng, với Tổ quốc, kiên
định với con đường xã hội chủ nghĩa, chủ động vượt qua mọi khó khăn, tiếp
tục phát huy được tính tiên phong gương mẫu, làm nòng cốt và lãnh đạo tốt
2
quần chúng thực hiện có hiệu quả công cuộc đổi mới trên các lĩnh vực. Tuy
nhiên vẫn còn tình trạng phẩm chất đạo đức, năng lực của một số đảng viên
còn hạn chế, chưa bỏ qua được phong cách làm việc theo lối sống cũ của thời
kỳ tập trung quan liêu bao cấp, tính bảo thủ trông chờ, ỷ lại ở các cấp nặng nề.
Những thói quen của người sản xuất nhỏ vẫn tồn tại ở mỗi người đảng viên.
Trong công tác xây dựng Đảng, vấn đề chất lượng đảng viên có vai trò
đặc biệt quan trọng. Đảng chỉ mạnh khi các cơ quan lãnh đạo và toàn thể
ĐNĐV đều mạnh. ĐNĐV hoạt động trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống
xã hội thật sự trong sạch, vững mạnh là cơ sở để có được ĐNĐV lãnh đạo
quản lý các cấp đồng bộ, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ, là
lực lượng nòng cốt trong mọi phong trào cách mạng của quần chúng, đi đầu tổ
chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước, là cầu nối giữa Đảng với quần chúng.
Tỉnh Hủa Phăn, với vinh dự là Trung tâm căn cứ cách mạng nước Cộng
hoà Dân chủ nhân dân (CHDCND) Lào, là nơi ra đời của Đảng NDCM Lào.
Đảng bộ Hủa Phăn là đảng bộ nhỏ, số lượng đảng viên đông. Trong giai
đoạn mới, số đông đảo ĐNĐV của đảng bộ vẫn giữ vững và phát huy được
tính tiên phong, gương mẫu. Tuy nhiên trước những tác động của yếu tố thời
đại, mặt trái của cơ chế thị trường, một bộ phận không nhỏ đảng viên của đảng
bộ đã bộc lộ sự suy thoái về mặt chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng và lối
sống. Điều đó đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của đảng bộ, làm suy giảm niềm tin của nhân dân.
Vì vậy, ĐNĐV ở các chi bộ bản tỉnh Hủa Phăn phải được chấn chỉnh,
chất lượng cùng với ĐNĐV toàn Đảng nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao
của sự nghiệp đổi mới đất nước. Do đó, việc nghiên cứu, tìm tòi những giải
pháp để nâng cao chất lượng ĐNĐV của các chi bộ bản tỉnh Hủa Phăn giai
đoạn hiện nay là vấn đề có tính cấp thiết, cần được quan tâm. Cho nên, tôi
chọn đề tài: “Chất lượng đội ngũ đảng viên của các chi bộ bản tỉnh Hủa
Phăn, nước Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào giai đoạn hiện nay” làm luận
văn cao học.
3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chất lượng ĐNĐV là một đề tài được các cấp ủy đảng, các cơ quan và
các nhà nghiên cứu khoa học quan tâm nghiên cứu tìm hiểu. Ở Việt Nam đã
có nhiều công trình nghiên cứu về chất lượng ĐNĐV như:
- Luận án Tiến sĩ của Đặng Đình Phú (1996): “Nâng cao chất lượng
đội ngũ đảng viên ở các tổ chức cơ sở Đảng phường ven đô trong công cuộc
đổi mới hiện nay”.
- Luận án Tiến sĩ của Cao Thị Thanh Vân (2002): “Nâng cao chất
lượng đội ngũ đảng viên ở nông thôn đồng bằng sông Hồng trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”.
- Luận văn thạc sĩ của Trần Hồng Quân (2004): “Chất lượng đội ngũ
đảng viên ở các chi bộ, đảng bộ nông thôn tỉnh Cà Mau thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước - thực trạng và giải pháp”.
Ở Lào còn có một số bài viết và công trình nghiên cứu về chất lượng
ĐNĐV như các văn kiện Đảng, nước CHDCND Lào. Gần đây, Đảng NDCM
Lào đã có nhiều nghị quyết, chủ trương về công tác nâng cao chất lượng
ĐNĐV. Luận văn thạc sĩ của học viên Lào nghiên cứu tại Học viện Chính trị Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh như:
- Luận văn thạc sĩ của Pheng Sỏn Khun Thoong Khăm (2002): “Nâng
cao chất lượng đội ngũ đảng viên của đảng bộ thành phố Viêng Chăn nước
Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào trong giai đoạn hiện nay”.
- Luận văn thạc sĩ của On Chăn Ma Ni Xẻng (2003): “Nâng cao chất
lượng đội ngũ đảng viên ở nông thôn tỉnh Luổng Nặm Thạ nước Cộng hoà
Dân chủ nhân dân Lào trong giai đoạn hiện nay”.
- Luận văn thạc sĩ của Chăn Sổm In Thạ Von (2004): “Nâng cao chất
lượng đội ngũ đảng viên ở nông thôn tỉnh Xiêng Khoảng nước Cộng hoà Dân
chủ nhân dân Lào thời kỳ đổi mới”.
Ngoài ra còn nhiều bài viết đăng trên các tạp chí như: Tạp chí Lịch sử
Đảng (5/1998): Chất lượng đội ngũ đảng viên - một nhân tố quan trọng bảo
4
đảm cho một thắng lợi của cách mạng; Tạp chí Nghiên cứu lý luận (8/1999):
Thực trạng và giảng pháp nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên; Tạp chí
Lịch sử Đảng (8/2000): Một số vấn đề về đội ngũ đảng viên hiện nay...
Các đề tài và bài viết trên đã đề cập đến nhiều nội dung liên quan đến
chất lượng ĐNĐV, nhưng chưa có đề tài nào viết về chất lượng ĐNĐV ở các
chi bộ bản tỉnh Hủa Phăn, nước CHDCND Lào giai đoạn hiện nay. Vì vậy, tôi
chọn đề tài “Chất lượng đội ngũ đảng viên của các chi bộ bản tỉnh Hủa
Phăn, nước Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào giai đoạn hiện nay” làm đề
tài nghiên cứu, nhằm mong muốn đóng góp phần nhỏ sức mình để tìm ra giải
pháp nâng cao chất lượng ĐNĐV nơi đây.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Mục đích của luận văn là vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng
NDCM Lào để nghiên cứu góp phần làm rõ thêm cơ sở lý luận và thực tiễn
của vấn đề chất lượng ĐNĐV của các chi bộ bản tỉnh Hủa Phăn, trên cơ sở đó
đề xuất những phương hướng và giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng
ĐNĐV của các chi bộ bản tỉnh Hủa Phăn giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
+ Phân tích làm rõ thêm vị trí, vai trò của ĐNĐV của các chi bộ bản
tỉnh Hủa Phăn giai đoạn hiện nay.
+ Làm rõ thực trạng, những nguyên nhân khách quan, chủ quan của
chất lượng ĐNĐV và công tác đảng viên. Qua đó nêu ra những kinh nghiệm
về công tác đảng viên ở các chi bộ bản tỉnh Hủa Phăn giai đoạn hiện nay.
+ Nêu ra những dự báo xu hướng và đề xuất những phương hướng, giải
pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng ĐNĐV của các chi bộ bản tỉnh Hủa
Phăn giai đoạn hiện nay.
5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là chất lượng ĐNĐV của các chi
bộ bản huyện ủy tỉnh Hủa Phăn giai đoạn hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu, khảo sát thực tế chủ yếu từ sau Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần IV (1986) của Đảng NDCM Lào đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng
NDCM Lào về xây dựng Đảng, về vấn đề nâng cao chất lượng ĐNĐV và
thực trạng về ĐNĐV, công tác đảng viên ở các chi bộ bản tỉnh Hủa Phăn.
Phương pháp nghiên cứu của luận văn được thực hiện trên cơ sở
phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp chặt chẽ giữa
lý luận và thực tiễn, lôgíc và lịch sử, phân tích và tổng hợp, đồng thời coi
trọng điều tra, khảo sát thực tiễn…
6. Những đóng góp về nhà khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc chất
lượng ĐNĐV nói chung, ĐNĐV của các chi bộ bản tỉnh Hủa Phăn nói riêng.
- Phân tích vai trò và một số nét đặc thù của ĐNĐV của các chi bộ bản
tỉnh Hủa Phăn giai đoạn hiện nay.
- Đề ra những giải pháp chủ yếu có tính khả thi phù hợp với điều kiện
thực tế nhằm nâng cao chất lượng ĐNĐV của các chi bộ bản tỉnh Hủa Phăn,
nước CHDCND Lào giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mởi đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm có 3 chương, 6 tiết.
6
Chương 1
CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ ĐẢNG VIÊN CỦA CÁC CHI BỘ BẢN
TỈNH HỦA PHĂN, NƯỚC CỘNG HOÀ DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. KHÁI QUÁT VỀ ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ HỆ
THỐNG TỔ CHỨC ĐẢNG CỦA TỈNH HỦA PHĂN
1.1.1. Khái quát đặc điểm kinh tế - xã hội của tỉnh và các bản trong tỉnh
- Đặc điểm tự nhiên
Tỉnh Hủa Phăn là một tỉnh nằm ở phía Đông Bắc của Lào, địa hình
rừng núi có nhiều đặc tính của vùng nhiệt đới, là một môi trường thuận lợi
cho sự sinh trưởng của nhiều loại sinh vật. Hủa Phăn là một tỉnh có độ che
phủ của rừng chiếm đến 80%. Địa hình của tỉnh giống như lá hoa sen, có diện
tích là 165.500 Km2, trong đó diện tích rừng chiếm 76%, 18% là núi và có
hơn 20 núi cao hơn 1000 m so với mặt biển, còn lại 6% là đất trồng trọt. Phía
Đông giáp với nước bạn Việt Nam; bao gồm các tỉnh: Thanh Hoá, Nghệ An
và Sơn La, phía Tây Nam giáp với tỉnh Xiêng Khoảng và tỉnh Luông Phạ
Bang. Về khí hậu bao gồm hai mùa; mùa mưa và mùa đông (mùa khô); mùa
mưa từ tháng tư - tháng chín; mùa đông từ tháng mười - tháng ba; nhiệt độ
trung bình quanh năm là 21,1 0c, thấp nhất là - 4,50c trong tháng 12, cao nhất
là 340c trong tháng ba hoặc tháng tư; lượng mưa trung bình là 1.241,1
mm/năm.
Trên địa bàn tỉnh còn có tài nguyên nước khá nhiều, có nhiều sông lớn
như Sông Mã (470 Km), Sông Xăm (Sông Chu 300 Km), Sông Nân (500
Km)...và các chi nhánh dòng sông nhỏ với lượng nước khoảng 200 triệu
m3/năm. Về vùng đất có nhiều tiềm năng và thế mạnh vẫn chưa được khai
thác để phát triển kinh tế - xã hội. Đất rộng người thưa, ở một số bản dân còn
sống lẻ tẻ, rải rác nhất là các bà con dân tộc ở vùng sâu vùng xa.
7
Toàn tỉnh có 8 huyện, với 758 chi bộ, có 728 bản, có 45.453 ngôi nhà,
và đảng viên 10.597 đồng chí. Dân số toàn tỉnh là 280.898 người, mật độ dân
số là 17 người/Km2, bao gồm ba dân tộc lớn, Lào Lùm chiếm 55,63% số dân,
Lào Sủng (H’Mông) chiếm 26,26% số dân, Lào Thơng (Khả mụ) chiếm
18,11% số dân, cư trú rải rác trong các bản khác nhau; đa số là người dân
sống bằng nghề trồng trọt, chăn nuôi, làm rẫy, làm nương trồng lúa, ngô. Cơ
sở sản xuất phụ thuộc vào tự nhiên, tuy nhiên người nông dân lao động rất
cần mẫn, song với trình độ rất thấp kém.
- Tình hình kinh tế - xã hội
Về kinh tế, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước của tỉnh
Hủa Phăn trong những năm qua, tình hình kinh tế có nhiều chuyển biến tiến
bộ đạt những kết quả bước đầu quan trọng. Trong 5 năm 2006 - 2010 tỉnh đã
tích cực phát triển kinh tế - xã hội tiếp tục phát triển liên tục với tốc độ tăng
trưởng GDP bình quân tăng khoảng 5,5%/năm, đạt được 512 tỷ kíp, bình quân
đầu người 1.800.000 kíp/người/năm.
Cơ cấu kinh tế của tỉnh đã có sự chuyển dịch đúng hướng, nông - lâm
nghiệp 64%, công nghiệp 12%, dịch vụ 24%. Tỷ trọng kinh tế nông nghiệp
giảm dần, tỷ trọng công nghiệp, xây dựng, thương mại, dịch vụ và buôn bán
dần dần tăng lên từng bước gắn với sản xuất chế biến - tiêu thụ tạo công ăn
việc làm, tăng thu nhập cho người dân các bản lao động.
Trong lĩnh vực nông nghiệp người dân các bản trong tỉnh đã biết
chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi cho phù hợp với điều kiện sinh thái của
từng vùng, thay đổi mùa vụ để tránh thiên tai và thiệt hại mùa màng. Cùng
với sự phát triển của cơ cấu thị trường, người dân đã thay đổi tư duy, biết tận
dụng lợi thế của từng vùng, từng loại cây con để phát triển sản xuất hàng hoá.
Ngành nghề truyền thống được phát triển như ngành dệt vải và trong lĩnh vực
thủ công dệt vải bản xứ, nghề thêu ren, nghề mây tre đan xuất khẩu. Đến nay
8
những ngành này được khuyến khích sản xuất để bán trên thị trường các bản
trong tỉnh và xuất khẩu ra nước ngoài, chỉ số giá bán hàng năm đạt được 1,77
tỷ kíp. Sản phẩm dệt vải bản xứ của người dân các bản trong tỉnh Hủa Phăn
có vai trò nổi tiếng trên thị trường nội bộ và nước ngoài. Ngoài ra còn có mỏ
sắt, thiếc đồng, vàng...
Hệ thống giao thông được xây dựng và nâng cấp, nhiều công trình xây
dựng được hoàn thành thay đổi bộ mặt các đô thị, thị trấn và một số bản tạo
tiền đề cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Hiện nay tỉnh đang thu hút vốn đầu tư nước ngoài xây dựng nhà máy
khai thác mỏ và xây dựng thuỷ điện 8,6 KW và 136 KW nếu thành công sẽ
tạo công ăn việc làm cho người dân các bản ở tỉnh. Tỉnh Hủa Phăn không
ngừng phát triển kinh tế, mà còn ổn định về mặt chính trị và trật tự an ninh xã
hội; đời sống của cán bộ đảng viên và nhân dân các bản ở tỉnh Hủa Phăn đã
được nâng cao từng bước.
Về xã hội, tỉnh Hủa Phăn là một tỉnh bị chiến tranh tàn phá nhiều nhất,
các công trình kiến trúc cổ xưa về văn hoá tàn phá hầu hết. Tuy nhiên tỉnh
Hủa Phăn có nhiều địa danh đặc sắc về văn hoá trong cả nước như: Khắp
Xăm Nứa, Khắp Thay Đeng... Tỉnh là một trong những địa phương có truyền
thống yêu nước và truyền thống cách mạng, truyền thống đó phát triển cùng
sự định hình của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước và chăn nuôi.
Công tác giáo dục đã được củng cố và phát triển ở tất cả các ngành học,
cấp học; chương trình giáo dục phổ cập tiểu học, xoá mù chữ được triển khai
tích cực. Toàn tỉnh có tổng cộng 876 trường học phổ thông, trong đó có 47
trường mầm non, 751 trường tiểu học, 58 trường trung học cơ sở và 19 trường
trung học phổ thông. Số trẻ em đi học tăng lên, tỷ lệ mù chữ của trẻ em trên
15 tuổi là 18,65%; mở rộng giáo dục lên các bản vùng sâu, vùng xa, giảm dần
9
số bản làng không có trường học. Ngoài ra, tỉnh còn có trường dạy nghề và 2
trường cao đẳng dân lập.
Về công tác y tế, toàn tỉnh có 8 bệnh viện và 125 trạm xá. Hệ thống y tế
được tăng cường, nhất là việc chăm sóc sức khoẻ ban đầu, các bệnh xã hội
giảm đáng kể, tỷ lệ trẻ em dưới 15 tuổi tử vong giảm còn 4,6%, tỷ lệ bà mẹ
sinh con ở bệnh viện tăng 44,2%, số dân sử dụng nước sạch 53,7%, tuổi thọ
bình quân là 57 tuổi.
Phong trào xoá đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, tương thân, tương ái
ngày càng được xã hội hoá sâu rộng, trở thành nét mới trong cộng đồng các
dân tộc. Chính sách dân tộc được Đảng, Nhà nước quan tâm ngày càng toàn
diện và thiết thực, nhất là vùng khó khăn, vùng căn cứ kháng chiến và vùng
dân tộc thiểu số.
Phong trào xã hội hoá trên tất cả các lĩnh vực ngày càng được mở rộng
và đi vào chiều sâu. Tính chủ động, nặng động sáng tạo của nhân dân các bản
được khơi dậy và phát huy, nội bộ nhân dân đoàn kết, tin tưởng vào chế độ,
vào tiền đồ quê hương đất nước, vào Đảng, Nhà nước được nâng lên tương
xứng với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Bên cạnh những thành tựu kinh tế - xã hội nêu trên, các bản miền núi
tỉnh Hủa Phăn vẫn còn một số mặt yếu kém. Nền kinh tế của tỉnh vẫn chủ
yếu là nông nghiệp tự cung, tự cấp, chuyển hướng sản xuất hàng hoá còn
chậm, hiệu quả thấp, chưa đều giữa các vùng và chưa vững chắc. Cơ cấu
kinh tế chuyển dịch còn chậm, nhất là các bản ở vùng cao, vùng sâu, vùng
xa, kinh tế chủ yếu là thuần nông, phá rừng làm nương. Tình trạng du canh
du cư ở một số vùng chưa được giải quyết, nhất là việc tập hợp bản làng
nhỏ thành bản lớn còn chưa được hết, hộ gia đình sống rời rạc vẫn còn ở
một số địa phương.
10
Nhìn chung đời sống nhân dân các bản trong tỉnh còn ở mức thấp và
nhiều khó khăn nhất là bản vùng cao, vùng sâu, vùng xa và chênh lệnh về
sự phát triển giữa các vùng đây là vấn đề rất đang được quan tâm. Nạn
thiếu đói giáp hạt vẫn còn, mức độ tăng dân số còn cao; sốt rét, sốt xuất
huyết, suy dinh dưỡng, di cư tự do, lén lút trồng thuốc phiện, tệ nạn mại
dâm, nghiện hút ma tuý, bỏ học, không tìm công ăn việc làm, đua xe trái
phép, kết hôn quá sớm...
1.1.2. Khái quát hệ thống tổ chức đảng của tỉnh Hủa Phăn và đội
ngũ đảng viên ở các chi bộ bản
- Khái quát về hệ thống tổ chức đảng của tỉnh Hủa Phăn
Về hệ thống tổ chức lãnh đạo Đảng của tỉnh được thành lập một hệ
thống rất chặt chẽ, từ đảng uỷ tỉnh, đảng uỷ các cấp cho đến cơ sở. Thực hiện
theo Điều lệ Đảng của Đảng NDCM Lào Khoá VII, ngày 1 tháng 5 năm 2001,
Điều 9, chương 2 chỉ ra là: Hệ thống tổ chức đảng cấp tỉnh được thành lập
theo 3 cấp như:
+ Cấp tỉnh, thành phố.
+ Cấp huyện và tương đương.
+ Cấp cơ sở.
Trong các hệ thống lãnh đạo được tổ chức rất chặt chẽ, từ đảng bộ tỉnh
cho đến tổ chức cơ sở Đảng (TCCSĐ) (Đảng bộ cơ sở, chi bộ cơ sở), bao
gồm: Ban chấp hành tỉnh uỷ, ban chấp hành huyện uỷ, ban chỉ huy, đảng uỷ
cơ sở và đơn vị tương đương. Các hệ thống tổ chức cơ quan chính trị và đội
ngũ cán bộ chính trị ở mỗi cấp đảm nhiệm công tác Đảng, công tác chính trị,
trực tiếp tổ chức tiến hành các hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị
theo nhiệm vụ, chức trách, quyền hạn được giao.
Về hệ thống tổ chức lãnh đạo các cơ quan chính trị cấp tỉnh bao gồm:
Ban Tổ chức tỉnh uỷ, Ủy ban kiểm tra Đảng - Nhà nước, Ban Tuyên huấn,
11
Trường chính trị tỉnh và Mặt trận Tổ quốc, đều có cán bộ tham mưu để
chuyên làm công tác tham mưu, giúp cho lãnh đạo cấp đó.
Về hệ thống tổ chức quần chúng, của tỉnh gồm có: tổ chức Đoàn thanh
niên NDCM Lào, tổ chức Hội phụ nữ, tổ chức Công đoàn và Cựu chiến minh.
Các tổ chức quần chúng được thành lập và hoạt động ở đảng viên Cộng sản
theo Điều lệ của tổ chức Đoàn thanh niên NDCM Lào, Hội phụ nữ, Công
đoàn và Cựu chiến minh; đồng thời theo quy định, hướng dẫn của Bộ chính trị
Lào.
Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn cách
mạng mới hiện nay, các cơ quan được biên chế tổ chức theo hướng gọn nhẹ,
tinh nhuệ, chất lượng cao và được bố trí trên các địa bàn chiến lược, theo
phân công trách nhiệm...
- Đặc điểm của đội ngũ đảng viên của các chi bộ bản, tỉnh Hủa Phăn
Hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới và bảo vệ, xây dựng Tổ quốc
thì tỉnh uỷ và các chính quyền huyện ở tỉnh Hủa Phăn đã tập trung lãnh đạo,
chỉ đạo, củng cố xây dựng các TCCSĐ trong sạch, vững mạnh, đủ năng lực
lãnh đạo toàn diện. Các TCCSĐ nói chung và các chi bộ bản ở tỉnh Hủa Phăn
nói riêng có những đặc điểm cụ thể sau:
Một là, ĐNĐV ở các chi bộ bản, tỉnh Hủa Phăn phần lớn nông dân đã
được trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến, đấu tranh cách mạng, tuyệt đại
bộ phận đảng viên có tinh thần cách mạng cao, trung thành với sự nghiệp
cách mạng của Đảng, có uy tín đối với quần chúng nhân dân, có bản lĩnh
chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu xã hội chủ nghĩa (XHCN), không tán
thành đa nguyên đa Đảng; tích cực tham gia công cuộc đổi mới, sẵn sàng hy
sinh vì lợi ích của nhân dân, vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng và của cách
mạng. Dù họ được phân công công tác trong tổ chức đảng, chính quyền, mặt
trận và đoàn thể hay ở các tổ chức kinh tế, văn hoá và xã hội ở cơ sở, nhưng
12
tất cả họ đều có những điểm rất chung là: đều sinh ra, lớn lên chủ yếu ở nông
thôn; cuộc sống của họ gắn bó chặt chẽ với bản làng, có sự ràng buộc khá
chặt chẽ bởi quan hệ họ hàng huyết thống. Thông qua sự lãnh đạo của đảng
bộ, chi bộ ở đó, họ thực sự là những chiếc cầu trực tiếp nối liền Đảng với dân,
giữa TCCSĐ với các cấp trên của Đảng.
Hai là, do họ trưởng thành trực tiếp từ thực tiễn, nhất là ở những vùng,
khu vực đặc biệt khó khăn, nên ít được đào tạo qua trường lớp một cách bài
bản và có hệ thống, và lại do họ xuất thân từ nông dân nên trình độ nhận thức
của họ nhìn chung là thấp; cách nghĩ, cách nhìn nhận vấn đề thường không
sâu; phương pháp nhận thức và hành động chủ yếu dựa trên kinh nghiệm, nên
hiệu quả công tác không cao, tính thuyết phục của công tác tư tưởng thấp. Có
thể nói, cả trình độ học vấn, trình độ lý luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ
của một bộ phận khá đông đảng viên ở đây nhìn chung là hạn chế, còn một
khoảng cách khá xa mới có thể đáp ứng đòi hỏi của thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá (CNH - HĐH) đất nước.
Ba là, ĐNĐV ở đây phần đông vào Đảng từ sau năm 1975. Chỉ còn
một số đảng viên trưởng thành trước năm 1975, còn tham gia sinh hoạt đảng
và sinh sống ở đây. Nếu các chi bộ bản ở tỉnh Hủa Phăn còn quá ít đảng viên
cao tuổi đời, nhiều tuổi Đảng thì ngược lại, ở các đảng bộ thị trấn số đảng
viên cao tuổi hoặc đã nghỉ hưu khá đông. Với thực tế đó tạo cho các chi bộ
bản ở tỉnh Hủa Phăn vừa có thuận lợi mặt này nhưng đồng thời lại cũng gặp
khó khăn ở mặt khác, tỷ lệ đảng viên trẻ hoạt động các chi bộ bản cao là một
thuận lợi lớn, nhưng cũng có khó khăn do thiếu sự dìu dắt, giúp đỡ của thế hệ
đảng viên lớn tuổi.
Bốn là, có khá đông đảng viên đang được giữ những trọng trách ở cơ
sở, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt ở các bản thường không yên tâm
làm việc lâu dài ở cơ sở. Nhiều người trong số họ tìm mọi cách để được làm
13
việc ở cấp trên. Thực tế nhiều năm qua cho thấy, những đảng viên có năng
lực, có triển vọng đều tính chuyển lên cơ quan cấp trên công tác. Trong khi
đó, cán bộ ở cấp trên lại thường rất ngại xuống công tác, làm việc ở cơ sở, với
nhiều lý do khách quan, chủ quan khác nhau. Trừ một số trường hợp cá biệt,
còn phần đông đảng viên buộc phải xuống làm việc ở cơ sở do không còn
cách để lựa chọn, chứ ít thấy đảng viên tự giác, tự nguyện, xung phong xuống
làm việc ở các bản. Đây là thực trạng đang làm cho sự thiếu hụt cán bộ giỏi
ngày càng thường xuyên hơn ở các bản vùng nông thôn tỉnh Hủa Phăn, nhất
là những vùng nông thôn có rất ít điều kiện thiên nhiên ưu đãi. Chúng tôi tự
nhận thấy, đã đến lúc lãnh đạo cấp trên cần đặc biệt chú trọng nhiều hơn nữa
cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở của các bản ở tỉnh Hủa Phăn,
nhất là những bản vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc đặc biệt khó khăn, những
nơi đã và đang bị kẻ xấu tìm mọi cách lợi dụng tuyên truyền chống phá ta rất
quyết liệt, làm kìm hãm, cản trở sự phát triển của địa phương.
1.2. QUAN NIỆM, VAI TRÒ, NỘI DUNG NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI
NGŨ ĐẢNG VIÊN CỦA CÁC CHI BỘ BẢN VÀ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ
1.2.1. Quan niệm và tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ đảng viên
1.2.1.1. Quan niệm
- Khái niệm đảng viên
Đảng là một tổ chức chặt chẽ nhất, hoàn chỉnh nhất. ĐNĐV mạnh là
yếu tố cơ bản làm cho Đảng mạng. Muốn đường lối của Đảng trở thành
phong trào cách mạng của quần chúng thì đảng viên phải là những chiến sĩ
tiên phong trong hành động thực tiễn đồng thời phải biết vận động, thuyết
phục, tổ chức quần chúng thực hiện.
Trong quá trình xây dựng hoàn thiện chế độ dân chủ nhân dân, chuẩn bị
tiền đề lên chủ nghĩa xã hội (CNXH), tình hình kinh tế - xã hội của Lào đã
14
thay đổi cả mặt tích cực và tiêu cực. Trong tình hình đổi mới đó, người đảng
viên Đảng NDCM Lào từng bước được hoàn thiện. Tại Điều 1, Điều lệ Đảng
NDCM Lào được Đại hội lần thứ VIII thông qua đã nêu:
Những công dân Lào từ 18 - 55 tuổi, trải qua rèn luyện và thử thách
trong phong trào cách mạng của quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng, có sự
giác ngộ chính trị theo lý tưởng của Đảng, được thử thách trong công tác thực
tế, nhất trí thực hiện điều lệ Đảng, cương lĩnh chính trị của Đảng, hiến pháp
và pháp luật của Nhà nước, sẵn sàng thừa nhận và làm tròn nhiệm vụ được
giao, có lý lịch rõ ràng, có phẩm chất đạo đức cách mạng, gương mẫu trong
công tác, có lối sống lành mạnh, cần cù lao động, không bóc lột, có kiến thức,
năng lực trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng, sức khoẻ tốt, tự
nguyện xin vào Đảng, nguyện tham gia sinh hoạt ở TCCSĐ và đóng đảng phí
theo quy định đều có thể được kết nạp vào Đảng.
Đối với người đảng viên thuộc đảng phái chính trị khác là không được
phép kết nạp vào trong ĐNĐV Đảng NDCM Lào [45, tr.9-10].
Trong Điều 1, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam có ghi:
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng
trong đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, suốt đời hy
sinh phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ
quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích
cá nhân, chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ
Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước, có lao
động không bóc lột, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao, có đạo
đức và lối sống lành mạnh, gắn bó mật thiết với nhân dân, phục tùng
tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên thừa nhận và tự nguyện thực
hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ
15
đảng viên, hoạt động trong tổ chức cơ sở Đảng, qua thực tiễn chứng
tỏ là người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm đều có thể xét kết nạp
vào Đảng [5, tr.6].
- Quan niệm về chất lượng, nâng cao chất lượng đảng viên
+ Chất lượng là cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một con người, một
sự việc hoặc sự vật nào đó. Chất lượng đảng viên là tổng hợp các đặc điểm,
tính cách của người đảng viên như phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức,
năng lực, trình độ, quy định mức độ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng
của người đảng viên đó. Ở mỗi giai đoạn cách mạng, yêu cầu của nhiệm vụ
chính trị khác nhau nên những yếu tố cấu thành chất lượng đảng viên cũng có
sự phát triển.
Ngày nay, trong công cuộc đổi mới của Đảng NDCM Lào với chủ
trương đẩy mạnh sản xuất nông - lâm nghiệp, tiến hành từ sản xuất nhỏ tự
cung tự cấp sang sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường có sự lãnh đạo của
Đảng, quản lý của Nhà nước, yêu cầu chất lượng ĐNĐV phải có tri thức, đạo
đức và ý thức tổ chức kỷ luật cao.
Theo V.I.Lênin, đảng viên là nhân tố chủ yếu cấu thành tổ chức Đảng.
Đảng mạnh là do chất lượng từng đảng viên tốt. Chất lượng đảng viên là một
trong những vấn đề căn bản quyết định năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của Đảng. V.I.Lênin nêu rõ: Đảng là đội tiên phong, bộ tham mưu chiến đấu
có tổ chức và là đội ngũ có tổ chức chặt chẽ nhất của giai cấp công nhân.
Đảng chỉ có thể làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình khi trong Đảng bao gồm
những chiến sĩ tiên phong giác ngộ. Muốn vậy, Đảng phải thường xuyên
chăm lo xây dựng ĐNĐV trong sạch, vững mạnh, bao gồm những người
Cộng sản trung thành, tự nguyện chiến đấu cho lý tưởng của Đảng, những
người có đủ đức và tài để phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân. Để thực hiện
được đều đó “Nhiệm vụ của chúng ta là bảo vệ tính vững chắc, tính kiên định,
16
tính trong sạch của Đảng ta. Chúng ta phải cố gắng làm cho danh hiệu và ý
nghĩa của đảng viên ngày càng cao hơn lên mãi” [13, tr.354].
Nói tới chất lượng đảng viên còn phải chú ý đến mối quan hệ đảng viên
với tổ chức. Đảng viên là tế bào cấu thành lên tổ chức Đảng và khi Đảng ra
nghị quyết hành động thì đảng viên phải thực hiện và chấp hành tốt. Qua đó
cho thấy chất lượng đảng viên là yếu tố quyết định năng lực, sức mạnh của Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: “Để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải mạnh, Đảng
mạnh là do chi bộ tốt. Chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt” [29, tr.92]. Trong
tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Hồ Chí Minh đã chỉ ra tư cách của một Đảng
chân chính và đòi hỏi yêu cầu về tính đảng của người đảng viên cần có: “Một
là, phải đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên hết. Hai là, việc gì cũng
phải điều tra rõ ràng, cẩn thận và phải làm đến nơi đến chốn. Ba là, lý luận
và thực hành phải luôn luôn đi đôi với nhau” [30, tr.266]. Đã là đảng viên mà
không đạt được ba yêu cầu cơ bản đó, hoặc vi phạm một trong ba yêu cầu là
đảng viên kém tính đảng.
Khi nói về tư cách người đảng viên, trong tác phẩm Đường cách mệnh,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ: Tư cách của người cách mệnh. Trước hết:
Tự mình phải: Cần Kiệm, hoà mà không tư, cả quyết sửa lỗi mình, cẩn thận
mà không nhút nhát, hay hỏi, nhẫn nại (chịu khó), hay nghiên cứu, xem xét;
vị công vong tư, không hiếu danh, không kiêu ngạo, nói thì phải làm, giữ chủ
nghĩa cho vững; hy sinh, ít lòng tham muốn về vật chất, bí mật. Đối với người
phải: Với từng người thì khoan thứ, với đoàn thể thì nghiêm, có lòng vẽ cho
người, thực mà không táo bạo; hay xem xét người. Làm việc phải: Xem xét
hoàn cảnh kỹ càng, quyết đoán, dũng cảm, phục tùng đoàn thể [28, tr.260].
Yếu tố cơ bản cấu thành chất lượng đảng viên là phải hội đủ các tiêu
chuẩn được quy định. Tiêu chuẩn là chuẩn mực thống nhất được khái quát cụ
thể trong môi trường hoạt động của đảng viên.
17
Đảng viên phải là người có giác ngộ chính trị, trung thành với mục tiêu
lý tưởng XHCN, đặt lợi ích của Tổ quốc và nhân dân lên trên lợi ích cá nhân,
có đạo đức và lối sống lành mạnh, gắn bó với quần chúng, gương mẫu và
phấn đấu trở thành người sản xuất, công tác và quản lý giỏi, hoàn thành
nhiệm vụ được giao, chấp hành đúng Điều lệ Đảng và pháp luật Nhà nước;
thường xuyên học tập, nâng cao trình độ nhận thức và năng lực công tác; có ý
thức tổ chức kỷ luật, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng [3, tr.37].
Đảng NDCM Lào từ khi thành lập đến nay luôn quan tâm xây dựng
Đảng vững mạnh. Trong mọi thời kỳ cách mạng, Đảng NDCM Lào vẫn giữ
vững bản chất giai cấp công nhân, ĐNĐV luôn trung thành với chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Mỗi khi cách mạng chuyển giai đoạn,
đòi hỏi Đảng phải có đường lối chiến lược, sách lược mới, do đó ĐNĐV phải
không ngừng được nâng cao về mọi mặt để đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ
mới.
Để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới đòi hỏi mỗi đảng viên phải
có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng
thuỷ chung, có trình độ trí tuệ cao, có ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm minh, có
khả năng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, tiên phong gương mẫu, sáng tạo
trong lao động sản xuất, biết làm giàu chính đáng, sống lành mạnh trong sạch
đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ mới.
Chất lượng ĐNĐV còn được thể hiện thông qua kết quả của mối quan
hệ đảng viên là người thực hiện tốt nhiệm vụ của Đảng và là người lãnh đạo
quần chúng thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng.
Vấn đề chất lượng đảng viên luôn gắn liền với tiêu chuẩn đảng viên.
Đó là những nội dung cụ thể hoá tư cách đảng viên đáp ứng nhiệm vụ từng
thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng. Qua tiêu chuẩn chung mà cụ thể hoá, vận
18
dụng trong từng lĩnh vực, từng công việc nhằm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
của Đảng một cách chủ động sáng tạo.
Chất lượng đảng viên còn được thể hiện qua phong trào cách mạng của
quần chúng. Ở đó người đảng viên thể hiện là những người trực tiếp tổ chức,
giác ngộ, tuyên truyền, hướng dẫn, nêu gương trước quần chúng, nắm được tâm
tư nguyện vọng của quần chúng và là cầu nối giữa Đảng với dân. Đồng thời
thông qua phong trào quần chúng, đảng viên có được môi trường thử thách, rèn
luyện để Đảng sẽ lựa chọn kết nạp, sàng lọc đảng viên. Tư cách đảng viên là đặc
trưng chủ yếu để phân biệt người đảng viên với quần chúng. V.I.Lênin viết: Chỉ
có người nào tin tưởng vào nhân dân, dẫn mình vào nguồn sáng tạo sinh động
của nhân dân mới là người chiến thắng và giữ được chính quyền.
Yếu tố cấu thành chất lượng đảng viên còn biểu hiện tinh thần học tập
vươn lên, ý thức tổ chức kỷ luật và giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong toàn
Đảng. Người đảng viên gương mẫu trong việc thực thi chủ trương, nghị quyết
của Đảng và có thái độ nghiêm túc học tập, quyết tâm học hỏi nâng cao trình
độ kiến thức. Trên cơ sở đó, người đảng viên tự chủ trong công tác, dám nghĩ,
dám làm và dám chịu trách nhiệm trước công việc được giao; không ngừng
học tập, rèn luyện nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực công tác là nhiệm
vụ bắt buộc đối với mỗi đảng viên giai đoạn hiện nay.
Như vậy, chất lượng ĐNĐV ở nông thôn nói chung và các chi bộ bản
tỉnh Hủa Phăn nói riêng bao gồm:
Chất lượng của từng đảng viên, cụ thể là phẩm chất chính trị, đạo đức,
trình độ, năng lực công tác, mối quan hệ quần chúng, tinh thần học tập tu
dưỡng... được thể hiện ở việc hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Chất
lượng của từng đảng viên là yếu tố cơ bản tạo nên chất lượng của cả đội ngũ,
của tổ chức đảng.
19
Chất lượng của cả đội ngũ với tư cách là một chỉnh thể, thể hiện ở cơ
cấu đội ngũ được tổ chức khoa học, có tỷ lệ cân đối, hợp lý về số lượng và
bình quân tuổi Đảng. Đội ngũ đã được phân bố đồng đều tại các địa phương,
đơn vị và các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội trong cả tỉnh. ĐNĐV
phải được sinh hoạt đều đặn với nội dung phong phú, thiết thực hiệu quả và
thực hiện các nguyên tắc tổ chức, kỷ luật của Đảng. Đảng viên phải được bồi
dưỡng, giáo dục, quản lý, phân công, kiểm tra thường xuyên của tổ chức
Đảng nhằm phát huy tiềm lực cá nhân người đảng viên về năng lực, sở
trường, nguyện vọng, dân tộc, độ tuổi, giới tính...
+ Nâng cao chất lượng ĐNĐV là nâng cao trình độ tư duy, năng lực
chuyên môn, phẩm chất đạo đức của từng người đảng viên và của ĐNĐV.
Nâng cao chất lượng đảng viên là cần phải giải quyết tốt mối quan hệ
giữa chất lượng với số lượng đảng viên. Đã có lúc, có nơi số lượng đảng viên
ít nhưng nhờ được phân bố tương đối đều và có chất lượng cao, nên đã thực
hiện tốt nhiệm vụ cách mạng. Hiện nay, Đảng NDCM Lào đánh giá ĐNĐV
chưa thực sự có chất lượng, bởi chất lượng từng đảng viên và cả ĐNĐV chưa
cao. Vì vậy, khi nói đến số lượng ĐNĐV và sự phân bố hợp lý là điều kiện cần,
chất lượng cao là điều kiện đủ. Chỉ khi nào hai mặt này quan hệ hài hoà, tác
động hữu cơ với nhau thì mới tạo nên sức mạnh đồng bộ của cả ĐNĐV. Trong
thực tế chúng ta cần phải chống lại khuynh hướng chạy theo số lượng, ít chú
trọng đến chất lượng, dẫn đến Đảng đông nhưng không mạnh. Hoặc cầu toàn về
chất lượng, không quan tâm đến số lượng, khuynh hướng này là một nguyên
nhân quan trọng làm cho tuổi đời bình quân trong Đảng ngày càng cao.
Nâng cao chất lượng ĐNĐV trong giai đoạn hiện nay, một mặt phải
nâng cao chất lượng từng đảng viên, mặt khác phải củng cố kiện toàn cả hệ
thống tổ chức, vừa phải làm tốt công tác đảng viên theo yêu cầu của Nghị
quyết Trung ương 6 (lần 2, khoá VIII) và Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam
20
lần thứ IX đề ra, nhằm nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất và năng lực
đảng viên. Muốn vậy mọi đảng viên phải đặt mình trong sự quản lý của chi
bộ, tham gia đầy đủ sinh hoạt chi bộ, tuân thủ kỷ luật của Đảng không để một
đảng viên nào đứng ngoài của tổ chức đảng.
Thực tế lịch sử cách mạng Lào cho thấy, ở đâu, vào thời điểm nào chất
lượng ĐNĐV tốt thì đường lối cách mạng của Đảng được tổ chức thực hiện
thắng lợi, uy tín của Đảng được nâng cao, vai trò lãnh đạo của Đảng được
củng cố, phong trào quần chúng phát triển rộng rãi và hoạt động tích cực. Tuy
nhiên, cần nhận thức rõ chất lượng đảng viên là yếu tố động, nó luôn luôn
phát triển gắn với yêu cầu của nhiệm vụ chính trị từng thời kỳ.
Hiện nay, ĐNĐV đã từng bước trưởng thành, có sự phân công, quản lý,
kỷ luật chặt chẽ. Vì vậy, yêu cầu đối với ĐNĐV là phải giữ được bản lĩnh
chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu, lý tưởng cách mạng, phát huy tinh
thần độc lập tự chủ và sáng tạo, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc, dân chủ
và CNXH, gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân, có đạo đức trong sáng,
lối sống lành mạnh, giữ gìn tốt đoàn kết nội bộ và đoàn kết quốc tế.
1.2.1.2. Tiêu chí đánh giá
Chất lượng ĐNĐV bao gồm chất lượng của từng cá nhân đảng viên gắn
với chất lượng của cả đội ngũ đảng viên, nó được quy định bởi yêu cầu,
nhiệm vụ chính trị của cách mạng trong từng giai đoạn.
Để có tiêu chí đánh giá đúng về chất lượng ĐNĐV địa phương hiện
nay, trước hết phải căn cứ vào tiêu chuẩn đảng viên do Điều lệ Đảng quy
định, song phải căn cứ vào đặc thù của khu vực nông thôn nói chung và các
chi bộ bản tỉnh Hủa Phăn nói riêng để đánh giá cho chính xác. Như vậy, tiêu
chí để đánh giá chất lượng đảng viên của các chi bộ bản tỉnh Hủa Phăn hiện
nay có thể xác định như sau:
21
- Có lập trường quan điểm chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức
trong sáng, lối sống lành mạnh, không cá nhân chủ nghĩa, cơ hội, cục bộ, đầu
cơ, trục lợi, nghiêm chỉnh chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, đồng thời biết tuyên truyền, giải thích, vận
động quần chúng chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chính sách đó. Đây là
một trong những điểm quan trọng phân biệt sự khác nhau giữa đảng viên với
quần chúng ngoài Đảng, là một trong những biểu hiện tư cách, vai trò tiên
phong gương mẫu của người đảng viên của các chi bộ bản Hủa Phăn.
- Có trình độ học vấn hết phổ thông trung học, hiểu biết cơ bản về lý
luận chính trị, có năng lực, trình độ tổ chức thực hiện để hoàn thành nhiệm vụ
chính trị ở địa phương.
- Đi tiên phong trong công tác phát triển kinh tế, văn hoá, quốc phòng an
ninh, thực hiện tốt nhiệm vụ xoá đói giảm nghèo ở địa phương; gương mẫu năng
động trong mọi hoạt động, biết làm chính đáng cho bản thân, gia đình mình.
- Luôn có quan hệ mật thiết với quần chúng nhân dân, gia đình hoà
thuận, được quần chúng nhân dân tín nhiệm. Trên cơ sở công tác, đạo đức lối
sống của người đảng viên, tạo được sự đoàn kết thống nhất trong chi bộ, đảng
bộ và các bản làng nơi người đảng viên cùng gia đình sinh sống.
- Luôn có ý thức học hỏi, phấn đấu vươn lên, đổi mới tư duy, nắm bắt
khoa học công nghệ mới và biết vận dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào
phát triển công nghiệp, địa phương.
- Có ý thức tổ chức kỷ luật cao, đoàn kết nội bộ, tự giác chấp hành mọi
sự phân công của tổ chức đảng, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, có ý thức
tự phê bình và phê bình, biết tiếp thu và sửa chữa khuyết điểm. Đấu tranh
kiên quyết với những biểu hiện sai trái, bài trừ các tệ nạn xã hội, mê tín dị
đoan, các hủ tục ở địa phương.
22
Đối với ĐNĐV của các chi bộ bản Hủa Phăn, tiêu chí chất lượng còn
thể hiện ở chỗ các TCCSĐ được tổ chức chặt chẽ, phân công hợp lý, cơ cấu
phù hợp về tuổi đời, giới tính, về địa bàn dân cư, về số lượng và chất lượng
của chi bộ đảng... nhằm tạo điều kiện và phát huy hiệu quả sự lãnh đạo của
Đảng, bảo đảm cho mọi đảng viên phát huy được tác dụng và thể hiện mình
trong công tác, là hạt nhân nòng cốt mọi lĩnh vực ở địa phương Hủa Phăn.
Tuỳ theo yêu cầu nhiệm vụ chính trị, tình hình kinh tế, xã hội ở mỗi huyện,
mỗi bản làng và cơ sở cấp uỷ nơi đây xác định yêu cầu cụ thể về chất lượng
ĐNĐV cho phù hợp với thực tiễn địa phương, tránh máy móc, giáo điều,
thiếu căn cứ khoa học.
Xác định được yêu cầu và tiêu chí đánh giá chất lượng ĐNĐV của các
chi bộ bản tỉnh Hủa Phăn giai đoạn hiện nay là điều rất quan trọng để mọi
đảng viên và tổ chức đảng lấy đó làm mục tiêu phấn đấu nâng cao chất lượng
ĐNĐV. Đồng thời những căn cứ đó cũng là cơ sở để xem xét, đánh giá, phân
loại từng đảng viên.
Công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc không ít trường hợp
từ những biểu hiện suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống dẫn tới suy
thoái về chính trị, ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín, thanh danh, sức chiến
đấu của tổ chức đảng và kết quả thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước. Vì thế, ngăn chặn và loại trừ tình trạng
suy thoái trong ĐNĐV đã trở thành một trong những nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu của Đảng.
Để xây dựng ĐNĐV có trình độ mọi mặt đáp ứng yêu cầu công cuộc
đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cần tạo điều kiện cho ĐNĐV học tập
nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Coi trọng chất lượng đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao trình độ cho ĐNĐV trong hệ thống các trường chính trị từ
trung ương đến cơ sở.
23
Muốn giữ gìn tính tiên phong, gương mẫu trong tổ chức đảng và đảng
viên phải có biện pháp mới trong việc mở rộng phát triển Đảng và có quan
điểm mới trong đánh giá chất lượng đảng viên. Chủ tịch Cay Xỏn Phôm Vi
Hản viết: Trước hết, phải bỏ qua thói quen theo lối mòn cũ mà lựa chọn người
tốt nhưng không biết làm việc gì nhập ĐNĐV, điều quan trọng phải tìm cho
thấy và lựa chọn những người xuất sắc tiên phong gương mẫu từ phong trào
quần chúng, từ đội ngũ công nhân nông dân, sinh viên, trí thức cách mạng, từ
lực lượng vũ trang quốc phòng - an ninh... để nhập thành ĐNĐV, không nên
nhìn thẳng vào đội ngũ giai cấp. Phải coi phẩm chất đạo đức, năng lực và kết
quả thực tế trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của họ để làm thước đo đối với
việc đánh giá cán bộ, đảng viên [42, tr.361].
1.2.2. Vị trí, vai trò của đội ngũ đảng viên ở các chi bộ bản, tỉnh
Hủa Phăn
- Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
Đảng NDCM Lào là Đảng cầm quyền, lãnh đạo toàn dân xây dựng và
bảo vệ đất nước. Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng, Đảng luôn luôn
kiên định và vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh, xuất phát từ thực tiễn đất nước để xây dựng đường lối,
chủ trương, các chính sách đúng đắn để lãnh đạo nhân dân và tiến hành công
tác xây dựng Đảng. Chính vì vậy, việc nghiên cứu quan điểm cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác xây dựng Đảng và
công tác đảng viên trong thời kỳ Đảng cầm quyền là căn cứ lý luận và phương
pháp luận khoa học để giúp nhận thức đầy đủ và giải quyết đúng đắn việc xây
dựng ĐNĐV đáp ứng những yêu cầu của thời kỳ mới.
Đảng viên là những người chiến sĩ tiên phong của giai cấp công nhân,
vai trò tiên phong đó trước hết được thể hiện ở lĩnh vực lý luận. V.I.Lênin chỉ
rõ: “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách
24
mạng” [12, tr.30]; “chỉ đảng nào được một lý luận tiên phong hướng dẫn thì
mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong” [12, tr.32]. Người cũng
chỉ ra: tự cho mình là “tiên phong”, là đội tiên phong thì không đủ, mà còn
phải hành động sao cho tất cả các hội khác nhận thấy rõ và bắt buộc phải thừa
nhận chúng ta đi tiên phong mới được [12, tr.107]. Vai trò của người đảng
viên chân chính cũng không cho phép họ được nói suông, mà phải biến tư
tưởng, lý luận, lời nói thành hành động, “nói đi đôi với làm” và làm gương
mẫu, có hiệu quả để không phải mình tự nhận tiên phong, mà chính mọi
người khâm phục và thừa nhận là tiên phong.
- Đảng viên là những thành viên cấu thành tổ chức đảng và toàn Đảng.
Đảng viên gương mẫu, chất lượng đảng viên được nâng cao sẽ quyết định
chất lượng, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Đảng cộng sản
không thể là những cá nhân ô hợp. Đảng bao gồm những đại biểu ưu tú giác
ngộ, những chiến sĩ tiên phong của giai cấp và dân tộc được tổ chức chặt chẽ,
có kỷ luật nghiêm minh.
- Đảng viên là nguồn cung cấp đội ngũ cán bộ của Đảng. ĐNĐV là nơi
giới thiệu giám sát, giúp đỡ những người có năng lực, phẩm chất đạo đức tốt
lãnh đạo phong trào. Phong trào thành công hay thất bại được quyết định bởi
người lãnh đạo, người cán bộ tổ chức các phong trào. Công tác xây dựng đội
ngũ cán bộ của Đảng quan hệ chặt chẽ với công tác xây dựng ĐNĐV. ĐNĐV
thật sự là nguồn cung cấp cho đội ngũ cán bộ của Đảng, những cán bộ nòng
cốt phù hợp yêu cầu.
- Đảng viên là cầu nối giữa Đảng với quần chúng. Đảng mạnh không
chỉ ở bản thân, mà còn thể hiện sự gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân.
Sự gắn bó với Đảng với nhân dân lao động là quan hệ máu thịt có ý nghĩa
sống còn. Chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng đến được với từng
người dân, qua cầu nối là ĐNĐV; ngược lại, qua đảng viên, các nguyện vọng
và sáng kiến của quần chúng được phản ánh với tổ chức đảng. V.I.Lênin viết:
25
Chúng ta có thể rút ra kết luận quan trọng nhất đối với chúng
ta, kết luận mà chúng ta phải lấy làm kim chỉ nam cho toàn bộ hoạt
động của mình, tức là: xét về mặt lịch sử, giai cấp nào lãnh đạo
được quần chúng nhân dân thì giai cấp đó sẽ thắng..., chúng ta đã
qua kinh nghiệm mà hiểu được rằng, trong thời kỳ cách mạng, đấu
tranh giai cấp được tiến hành bằng những hình thức khủng khiếp
nhất, nhưng giai cấp tiến hành cuộc đấu tranh đó chỉ giành được
thắng lợi khi nào có khả năng lãnh đạo đa số dân chúng [16, tr.39].
Khi liên hệ chặt chẽ với quần chúng, Đảng mới giành được sự đồng tình,
ủng hộ của quần chúng; không có sự đồng tình, ủng hộ của đại đa số quần
chúng, cách mạng vô sản không thể đến bờ thành công. Thực tiễn cho thấy:
Sự đồng tình và ủng hộ đó không thể có ngay được và không
phải do những cuộc bỏ phiếu quyết định, mà phải trải qua một cuộc
đấu tranh giai cấp lâu dài, khó khăn gian khổ mới giành được. Cuộc
đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản để giành lấy sự đồng tình, để
giành lấy sự ủng hộ của đa số nhân dân lao động không phải kết
thúc khi giai cấp vô sản đã giành được chính quyền. Sau khi giành
được chính quyền, cuộc đấu tranh đó vẫn tiếp tục như trước, có điều
là với hình thức khác mà thôi [16, tr.256].
Mối liên hệ giữa Đảng với quần chúng lao động của người đảng viên
cần được duy trì thường xuyên, liên tục trên tinh thần tôn trọng, lắng nghe ý
kiến của quần chúng, vì nhân dân, dựa vào quần chúng, nhưng không theo
đuôi quần chúng.
- Đảng viên là nhân tố quyết định sự lãnh đạo và sức chiến đấu của
TCCSĐ. Chi bộ là nơi đảng viên trực tiếp sinh hoạt; người đảng viên được
giáo dục, rèn luyện và trưởng thành ở chi bộ. Đồng thời, chi bộ là những tế