VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN VY TÂN
HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN
ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
TỪ THỰC TIỄN QUẬN THANH KHÊ,
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, năm 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN VY TÂN
HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN
ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
TỪ THỰC TIỄN QUẬN THANH KHÊ,
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã số: 838.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẨN KHOA HỌC:
PGS.TS NGHIÊM XUÂN MINH
HÀ NỘI, năm 2020
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô Học viện Khoa học Xã hội, đặc
biệt là Khoa Luật học đã dạy dỗ và truyền đạt cho tôi những kiến thức quý
báu làm nền tảng cho việc thực hiện luận văn này.
Tôi đặc biệt cám ơn thầy giáo PGS.TS Nghiêm Xuân Minh đã tận tình
hướng dẫn, chỉ bảo để tôi có thể hoàn thành luận văn cao học này.
Tôi cũng xin chân thành cám ơn tất cả bạn bè, đồng nghiệp và những
người đã giúp tôi điều tra số liệu phục vụ cho việc phân tích, đánh giá và đưa
ra kết quả nghiên cứu của luận văn cao học này.
Cuối cùng, tôi hết lòng biết ơn đến những người thân trong gia đình đã
động viên và tạo động lực để tôi hoàn thành luận văn này một cách tốt đẹp.
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Hình phạt tù có thời hạn đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng” là
công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trong đề tài này được thu thập
và sử dụng một cách trung thực. Kết quả nghiên cứu được trình bày trong
luận văn này không sao chép của bất cứ luận văn nào và cũng chưa được trình
bày hay công bố ở bất cứ công trình nghiên cứu nào khác trước đây.
Tác giả luận văn
Trần Vy Tân
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÌNH PHẠT TÙ CÓ
THỜI HẠN ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI .................... 8
1.1. Khái niệm, nội dung, ý nghĩa của hình phạt tù có thời hạn đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội ........................................................................... 8
1.2. Điều kiện, nguyên tắc áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội ................................................................................... 20
1.3. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về hình phạt tù có thời hạn
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ............................................................. 29
1.4. Pháp luật hình sự một số nước về hình phạt tù có thời hạn đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội ......................................................................... 36
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI
HẠN ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI TẠI QUẬN
THANH KHÊ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ................................................ 40
2.1. Tình hình, đặc điểm quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng ảnh hưởng
đến áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ... 40
2.2. Thực trạng áp dụng quyết định hình phạt tù có thời hạn đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng..... 44
2.3. Đánh giá việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18
tuổi phạm tội tại quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng ........................................... 47
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC ÁP DỤNG
HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI
PHẠM TỘI TẠI QUẬN THANH KHÊ - THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ..... 55
3.1. Dự báo một số yếu tố tác động đến việc áp dụng hình phạt tù có thời
hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ở quận Thanh Khê, thành phố Đà
Nẵng............................................................................................................. 55
3.2. Giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt tù có thời
hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ...................................................... 58
KẾT LUẬN ................................................................................................. 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS
: Bộ luật Hình sự
BLTTHS
: Bộ luật Tố tụng hình sự
TAND
: Tòa án nhân dân
TNHS
: Trách nhiệm hình sự
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Tổng hợp kết quả xét xử hình sự tại TAND Quận Thanh Khê giai
đoạn 2015 - 2019 .......................................................................................... 44
Bảng 2.2: Bảng tổng hợp so sánh các vu ̣án xét xử người dưới 18 tuổi phạm
tội ................................................................................................................. 45
Bảng 2.3: Tổng hợp so sánh người dưới 18 tuổi phạm tội bị hình phạt tù có
thời hạn so với các hình thức khác................................................................ 46
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong hệ thống pháp luật hình sự, hình phạt là một trong những chế
định quan trọng, nghiêm khắc của Nhà nước. Trải qua từng giai đoạn lịch sử
khác nhau, hệ thống pháp luật hình sự không ngừng củng cố, đổi mới và dần
hoàn thiện hơn hệ thống hình phạt theo hướng nhân đạo hơn, cọi trọng quyền
con người, quyền công dân, phù hợp với các công ước, điều ước quốc tế mà
Việt Nam là thành viên. Bên cạnh đó, các chế tài hình sự vẫn đủ mạnh để đảm
bảo mục đích răn đe, giáo dục và phòng chống tội phạm.
Hình phạt tù có thời hạn là một trong số 07 hình phạt chính, đây là hình
phạt nghiêm khắc thứ ba, sau hình phạt tử hình và tù chung thân, bởi nó tước
đi quyền tự do của người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Thực tiễn áp
dụng pháp luật hình sự thời gian qua cho thấy, mặc dù khá coi trọng tính
trừng trị, tuy nhiên, những hình phạt đã tuyên cho thấy xu hướng nhân đạo,
nhân văn và hướng thiện đã thể hiện rất rõ. Trong khi các hình phạt nặng như
chung thân và tử hình có xu hướng ít được áp dụng hơn thì các hình phạt nhẹ
như phạt tiền, cải tạo không giam giữ và phạt tù cho hưởng án treo lại ngày
càng được các tòa án áp dụng nhiều hơn.
Đối với thành phố Đà Nẵng, trong những năm gần đây, tình hình tội
phạm hình sự có chiều hướng gia tăng và diễn biến phức tạp về cả quy mô,
tính chất hoạt động, số vụ phạm pháp hình sự do người dưới 18 tuổi gây ra
chiếm tỷ lệ từ 18 đến 20% trong tổng số các vụ phạm pháp hình sự. Nhiều vụ
án có diễn biến phức tạp, hậu quả nghiêm trọng làm ảnh hưởng xấu đến tình
hình an ninh trật tự trên địa bàn, ảnh hưởng đến môi trường đầu tư của một
thành phố trẻ đang phát triển. Trên địa bàn quận Thanh Khê, là một trong
những quận trung tâm của thành phố, tình hình tội phạm do người dưới 18
tuổi thực hiện cũng còn tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp. Việc điều tra, truy tố,
1
xét xử đối với số đối tượng này cũng còn gặp phải những hạn chế, bất cập
nhất định, mặc dù việc áp dụng hình phạt mang tính trừng trị nhiều hơn giáo
dục vẫn được Tòa án ưu tiên lựa chọn trong quyết định hình phạt là hình phạt
tù có thời hạn mặc dù điều luật có thể cho phép áp dụng bằng hình phạt khác
không phải hình phạt tù (cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ…) để
thay thế.
Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng hình phạt này cho thấy vẫn còn nhiều
vướng mắc, nhất là trong xu thế hiện nay, việc áp dụng các hình phạt khác
không phải là tù được khuyến khích lựa chọn, nhưng nhiều điều khoản việc
hướng dẫn của các cơ quan tư pháp Trung ương chưa kịp thời, còn thiếu cụ
thể nên việc vận dụng và áp dụng trong thực tế còn khó khăn. Nhiều chế định
mang tính tùy nghi nhưng chưa được hiểu và vận dụng thống nhất, phụ thuộc
nhiều vào nhận thức, trình độ của cá nhân người tiến hành tố tụng nên hiệu
quả áp dụng chưa cao. Đặc biệt, quy định đối với người dưới 18 tuổi hiện nay
đã có nhiều thay đổi tích cực, quy định cơ quan chuyên trách thực hiện nhưng
thực tiễn lại chưa đáp ứng được yêu cầu lý luận pháp lý đặt ra.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Hình phạt tù
có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn quận Thanh Khê,
thành phố Đà Nẵng” làm đề tài luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Qua tìm hiểu, nghiên cứu, đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết
bàn về hình phạt tù có thời hạn nói chung, hình phạt tù có thời hạn đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng như:
Luận án Tiến sĩ Luật học: Các hình phạt chính trong luật hình sự Việt
Nam, của Nguyễn Sơn; Luận văn thạc sĩ Luật học: Áp dụng hình phạt tù có
thời hạn theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh, của
Nguyễn Thành Chung năm 2015 [16]; Luận văn thạc sĩ Luật học: Hình phạt
2
tù có thời hạn và công tác tái hòa nhập đối với người mãn hạn tù ở nước ta
(trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn tỉnh Phú Thọ) của Đỗ Tiến Dũng
[17]; Luận văn thạc sĩ của tác giả Hoàng Văn Huyền: “Áp dụng hình phạt
theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn huyện Việt Yên, tỉnh Bắc
Giang”, năm 2016; Luận văn thạc sĩ của tác giả Đinh Tấn Long: “Áp dụng
hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ,
tỉnh Quảng Nam”, năm 2017... Các bài viết: “Quan điểm về tuổi chịu TNHS
của trẻ em” của ThS. Hà Lệ Thủy – Nguyễn Thị Lan Anh đăng trên ấn phẩm
Nghiên cứu lập pháp số 17(345)-tháng 9/2017; Trách nhiệm hình sự của
người dưới 18 tuổi phạm tội trong Bộ luật Hình sự 2015(Sửa đổi, bổ sung
2017), Tạp chí khoa học giáo dục CSND, số 99 (tháng 1 năm 2018) của
PGS.TS Trần Thành Hưng [21]...
Các bài viết, nghiên cứu của các tác giả đã chỉ ra nhiều vấn đề bất cập,
vướng mắc cũng như đề xuất những giải pháp hoàn thiện trong từng thời điểm
nhất định. Tuy nhiên cho đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu độc
lập về hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại quận
Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.
Vì vậy, việc nghiên cứu về hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới
18 tuổi phạm tội từ thực tiễn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng trong bối
cảnh BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 sẽ góp phần chỉ ra những
hạn chế, bất cập cũng như những nhận định góp phần hoàn thiện cả phương
diện lý luận và thực tiễn về quy định hình phạt tù có thời hạn đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội của pháp luật hình sự hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là thông qua việc nghiên cứu lý luận,
thực tiễn hình phạt tù có thời hạn dưới 18 tuổi phạm tội ở quận Thanh Khê,
3
thành phố Đà Nẵng để đánh giá, nêu kiến nghị góp phần hoàn thiện lý luận
trong pháp luật hình sự Việt Nam nói chung cũng như nâng cao hiệu quả áp
dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ở quận
Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nói trên luận văn tập trung thực hiện một số vấn
đề sau:
- Thu thập tài liệu, số liệu, các bản án của tòa án đã tuyên đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.
- Nghiên cứu, phân tích đánh giá về tính phù hợp, bất cập, khó khăn về
việc áp dụng các quy đinh của pháp luật thi hành hình phạt tù đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội.
- Trên cơ sở phân tích đã đề cập để đưa ra những giải pháp góp phần
nâng cao hiệu quả trên phương diện lý luận và thực tiễn về thi hành hình phạt
tù đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn quận Thanh Khê, thành
phố Đà Nẵng nói riêng, trên địa bàn các tỉnh thành phố khác nói chung.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận, các quy
định pháp luật và thực tiễn áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về đối tượng: Đề tài tập trung nghiên cứu về những vấn đề lý
luận, thực tiễn về hình phạt tù đối với người dưới 18 tuổi đã bị tuyên áp dụng
hình phạt tù do Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng tuyên,
không nghiên cứu về các đối tượng đã, đang bị quản lý, giam giữ ở các trại
tạm giam, trại giam thuộc Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cũng
4
như ở các trại giam thuộc Cục quản lý trại giam, cơ sở giáo dục bắt buộc,
trường giáo dưỡng, Bộ Công an.
- Phạm vi về chủ thể: Đề tài tập trung nghiên cứu về việc áp dụng các
quy định của pháp luật về thi hành hình phạt tù đối với người bị kết án phạt tù
dưới 18 tuổi trên địa bàn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.
- Phạm vi không gian: Địa bàn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.
- Phạm vi thời gian: Nghiên cứu về hình phạt tù có thời hạn đối với
người phạm tội dưới 18 tuổi theo quy định của các Bô ḷ uật hình sư ̣Việt Nam
trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở cơ sở lý luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng Mác - Lênin, tư tưởng, quan điểm của Đảng, Nhà nước và
Chủ tịch Hồ Chí Minh về đấu tranh phòng chống tội phạm do người dưới 18
tuổi thực hiện nói riêng và đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu luận văn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể như phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, mô tả, thống kê,
chuyên gia, nghiên cứu tài liệu, nghiên cứu các bản án hiǹ h sư ̣đối với bi ̣cáo
là người dưới 18 tuổi phạm tội, trao đổi phỏng vấn với các cán bộ thực tiễn về
các hoạt động thi hành án phạt tù đối với người dưới 18 tuổi phạm tội…
* Điểm mới của luận văn
Luận văn được nghiên cứu từ tổng thể các vấn đề lý luận, các quy định
của pháp luật hình sự nước ta từ năm 1945 đến năm 2019 về hình phạt tù có
thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, cũng như từ việc nghiên cứu
thực tiễn, luận văn đã nêu lên những bất cập, vướng mắc trong các quy định
của pháp luật hình sự cũng như trong quá trình áp dụng hình phạt tù có thời
5
hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Trên cơ sơ đó đưa ra những đề xuất
về hướng giải quyết phù hợp nhằm hạn chế những hạn chế, khiếm khuyết
trong quá trình xây dựng pháp luật hình sự, trong thực tiễn áp dụng hình phạt
tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, nhằm nâng cao hiệu quả
của hình phạt này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học pháp lý góp phần làm sáng
rõ một một số vấn đề lý luận, pháp luật về hình phạt tù có thời hạn đối với
người phạm tội dưới 18 tuổi và thực tiễn áp dụng hình phạt này tại quận
Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. Trên cơ sở đó luận văn đề xuất giải pháp có
tính khả thi nhằm đảm bảo tính đúng đắn của hình phạt đối với người dưới 18
tuổi phạm tội trên cả khía cạnh lập pháp và việc áp dụng pháp luật trong thực
tiễn.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác
học tập tại ở các viện nghiên cứu về khoa học pháp lý và các cơ sở đào tạo về
chuyên ngành luật cũng như trong thực tiễn công tác áp dụng hình phạt tù có
thời gian tại địa phương. Những đề xuất, kiến nghị của luận văn sẽ cung cấp
các luận cứ khoa học, làm cơ sở cho việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy
định của pháp luật hình sự về hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18
tuổi phạm tội.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn được trình bày theo đúng kết cấu quy định, trong đó, phần nội
dung chính của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về hình phạt tù có thời hạn, thi hành hình
phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
6
Chương 2: Thực tiễn áp dụng, thi hành hình phạt tù có thời hạn đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội tại quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả của việc áp dụng, thi hành hình
phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại quận Thanh Khê,
thành phố Đà Nẵng.
7
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN
ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
1.1. Khái niệm, mục đích, ý nghĩa của hình phạt tù có thời hạn
người dưới 18 tuổi phạm tội
1.1.1. Khái niệm về hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18
tuổi phạm tội
Trước khi tìm hiểu khái niệm hình phạt tù có thời hạn, chúng tôi tìm
hiểu khái niệm người dưới 18 tuổi phạm tội. Để hiểu rõ hơn khái niệm này, ta
đi từ khái niệm chung về người chưa thành niên. Một số văn bản quy phạm
pháp luật của nước ta cũng đưa ra khái niệm người chưa thành niên. Có thể đề
cập đến như: “Người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi”
(Khoản 1, Điều 21, Bộ luật dân sự 2015). [29]
Theo Từ điển Tiếng Việt năm 1994 do GS. Hoàng Phê chủ biên, người
chưa thành niên hay còn gọi là vị thành niên là “người chưa đến tuổi được pháp
luật công nhận là công dân với đầy đủ các quyền và nghĩa vụ”.[26]
Trong khái niệm người chưa thành niên còn bao gồm khái niệm trẻ em.
Công ước Liên Hợp quốc về Quyền trẻ em nêu rõ: “Trẻ em có nghĩa là
mọi người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em đã
có qui định tuổi thành niên sớm hơn [24]. Như vậy, ở đây, khái niệm trẻ em
và khái niệm chưa thành niên là đồng nhất đều là những người dưới 18 tuổi.
Điều 1 của Luật trẻ em năm 2016 (sửa đổi bổ sung năm 2018) qui định:
“Trẻ em là người dưới 16 tuổi” [34].
Như vậy, theo qui định của pháp luật Việt Nam thì khái niệm trẻ em
khác với Công ước Liên Hợp quốc về độ tuổi.
Trong BLHS năm 2015 không đưa ra khái niệm trẻ em hay người chưa
8
thành niên, tuy nhiên, đưa ra quy định về tuổi chịu TNHS đối với người thực
hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, thấp nhất là từ 14 tuổi khi phạm tội rất
nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều tại khoản
2, Điều 12, BLHS 2015.
Như vậy, từ những qui định trên, chúng ta có thể rút ra khái niệm khái
quát là người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi; họ chỉ phải chịu trách
nhiệm hình sự nếu từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi và phạm một tội được qui
định trong BLHS.
Ở đây chúng ta cũng cần phân biệt người dưới 18 tuổi phạm tội với
người dưới 18 tuổi vi phạm pháp luật khác. Như Luật xử lý vi phạm hành
chính qui định tuổi bị xử lý vi phạm cho tất cả các hành vi vi phạm hành
chính là đủ 16 tuổi trở lên, và từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi nếu hành vi vi phạm
với lỗi cố ý [35].
Như vậy từ các qui định trên chúng ta có thể hiểu là người dưới 18 tuổi
phạm pháp là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi có hành vi vi phạm pháp
luật. Theo nghĩa rộng vi phạm pháp luật là vi phạm các văn bản: Hiến pháp,
Luật của Quốc hội, Pháp lệnh của Uỷ Ban thường vụ Quốc hội, Nghị định,
Thông tư... song chủ yếu là vi phạm Luật xử lý vi phạm hành chính và Luật
hình sự.
Người dưới 18 tuổi phạm tội và người dưới 18 tuổi phạm pháp là hai
khái niệm khác nhau về độ tuổi, phạm vi, tính chất vi phạm. Người dưới 18
tuổi phạm tội là người dưới 18 tuổi phạm pháp, nhưng không phải tất cả
người dưới 18 tuổi phạm pháp đều là người phạm tội. Việc nắm vững hai khái
niệm trên có ý nghĩa rất quan trọng trong công tác đấu tranh phòng chống tội
phạm do người dưới 18 tuổi gây ra. Căn cứ những khái niệm được đề cập ở
những văn bản luật khác nhau nêu trên, ta có thể hiểu khái quát về người dưới
18 tuổi phạm tội, đó là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi thực hiện tội
9
phạm. Trong độ tuổi này lại chia thành hai mức:
- Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi;
- Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi.
Việc phân chia người chưa thành niên phạm tội theo từng mức tuổi như
trên là rất cần thiết và mang tính khoa học, giúp cho việc nghiên cứu và áp
dụng pháp luật trong thực tiễn được chính xác và hiệu quả hơn, nhất là trong
xác định TNHS, nguyên tắc xử lý và áp dụng biện pháp phòng ngừa phù hợp.
Tóm lại, qua những phân tích từ nhiều nguồn, nhiều quan điểm về
khái niệm trẻ em, người chưa thành niên, ta có thể định nghĩa: “Người dưới
18 tuổi phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi, thực hiện hành
vi nguy hiểm cho xã hội mà BLHS quy định là tội phạm”. Tuy nhiên, không
phải người dưới 18 tuổi nào phạm tội cũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Trong pháp luật Việt Nam hiện hành, hệ thống hình phạt là tổng thể các
loại hình phạt do Nhà Nước quy dịnh trong luật hình sự, có sự liên kết chăt
chẽ với nhau theo một trình tự nhất định do tính chất nghiêm khắc của từng
loại hình phạt quy định. Trong đó, hình phạt bao gồm nhiều loại hình, được
áp dụng với các loại đối tượng khác nhau tương xứng với hành vi nguy hiểm
cho xã hội mà họ thực hiện. Trong lịch sử pháp luật hình sự nước ta, tù có
thời hạn là hình phạt điển hình nhất và được quy định rất sớm trong những
văn bản pháp luật của Nhà nước ta. Ba ngày sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh
đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Nhà
nuớc ta đã ban hành nhiều sắc lệnh quan trọng trong đó có Sắc lệnh số 06
ngày 05/9/1945: “Cấm nhân dân Việt Nam đăng lính, bán thực phẩm, dẫn
đường, làm tay sai cho quân đội Pháp. Kẻ nào trái lệnh đó sẽ bị Tòa quân sự
nghiêm trị”[12], tiếp nữa là Sắc lệnh số 68 ngày 30/11/1945 “Ấn định thể lệ
trưng dụng, trưng thu và trưng tập tài sản”, quy định thời hạn tù là từ sáu
ngày đến ba tháng [14]; Sắc lệnh số 157 ngày 16/8/1946 “Bắt buộc các thứ
10
thuốc chế theo cách bào chế Thái Tây đều phải dán nhãn hiệu”,vi phạm sẽ
phạt 1 vạn đồng bạc, tái phạm sẽ phạt tù từ 3 ngày đến 10 ngày...[15]
Từ những năm 1950 về sau này, các văn bản pháp lý hình sự của nước
ta đã thống nhất quy định thời hạn tù tối thiểu là 3 tháng còn thời hạn tù tối đa
là 20 năm, được quy định lần đầu tại Sắc lệnh số 223 ngày 17/11/1946 trừng
trị các tội về hối lộ, pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng ngày
30/10/1967 trong đó nêu rõ hình phạt chính, hình phạt phụ có thể áp dụng.
Theo Điều 33 BLHS 1999 tù có thời hạn là buộc người bị kết án phải
chấp hành hình phạt tại các trại giam trong một thời gian nhất định [22], tức
là bị cách ly khỏi môi trường cộng đồng xã hội trong một thời gian nhất định
để chấp hành quyết định của Toà án, để chịu sự giáo dục và cải tạo của cơ
quan có thẩm quyền.
Tù có thời hạn là hình phạt nghiêm khắc trong hệ thống các hình phạt
được quy định trong BLHS. Các Mác đã viết: “Dưới con mắt của kẻ phạm
tội, sự trừng phạt phải là kết quả tất yếu của hành vi của chính người đó, do
đó phải là hành vi của chính người đó”[7, tr.181]. Do đó, một người chỉ phải
chịu hình phạt khi họ thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và hành vi đó
được coi là tội phạm, quy định trong BLHS 2015. Vì thế, chỉ người nào thực
hiện hành vi phạm tội mới phải chịu hình phạt. Khi bị tù có thời hạn, người bị
kết án bị tước quyền tự do, bị cách ly khỏi xã hội, họ phải lao động cải tạo
trong các cơ sở giam giữ dưới sự quản lý và giám sát của lực lượng cảnh sát.
Luật thi hành án hình sự năm 2019 quy định cụ thể về việc chấp hành án phạt
tù tại cơ sở giam giữ với những quy định rõ ràng, cụ thể.
Theo quy định tại Điều 33 BLHS 2015 thì tù có thời hạn đối với người
phạm một tội có mức tối thiểu là ba tháng, mức tối đa là 20 năm [22]. Đối với
những trường hợp phạm nhiều tội, việc tổng hợp hình phạt được thực hiện,
cộng dồn những đảm bảo không quá thời hạn 30 năm. Về cơ bản, những quy
11
định này trong BLHS 2015 không có gì thay đổi so với BLHS năm 1999.
Mức tối thiểu và mức tối đa đối với hình phạt tù có thời hạn được quy định
trong các điều luật và trong từng khung hình phạt cụ thể không hoàn toàn
giống với mức tối thiểu và mức tối đa được quy định cho loại hình phạt này
mà tùy thuộc vào từng tội phạm, từng trường hợp phạm tội cụ thể mà quy
định mức tối đa và tối thiểu cho phù hợp.
Người bị kết án bị áp dụng hình phạt tù có thời hạn nếu trước đó họ đã
bị tạm giữ hoặc tạm giam thì thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời
hạn chấp hành hình phạt tù, cứ một ngày tạm giữ bằng một ngày tù [22, Điều
38]. Đáng lưu ý, BLHS 2015 quy định thêm nội dung: “Không áp dụng hình
phạt tù có thời hạn đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng do vô ý và
có nơi cư trú rõ ràng” [22]. Đây là một trong những nội dung nhằm hạn chế
hình phạt tù có thời hạn, một lần nữa xác định rõ hơn nguyên tắc nhân đạo và
tính hướng thiện trong BLHS năm 2015.
Thực tiễn thi hành án tù có thời hạn cho thấy việc tước bỏ hoặc hạn chế
tự do đối với người bị kết án đã làm cho việc thực hiện các chức năng xã hội
bình thường của một con người bị ảnh hưởng, thay đổi, các quan hệ xã hội
cũng như những nhu cầu về sinh hoạt, thói quen... bị hạn chế. Và nó là một
trong những tác nhân gây trở ngại cho mỗi cá nhân khi họ tái hòa nhập cộng
đồng sau khi chấp hành xong án. Do đó, về mặt lý luận, pháp luật hình sự
nước ta đã chú trọng xây dựng nguyên tắc nhân đạo, khoan hồng; xác định
nếu trong những trường hợp cụ thể, khi mà mục đích của hình phạt vẫn đạt
được mà không cần phải cách ly người thực hiện hành vi phạm tội ra khỏi
môi trường sống bình thường của họ thì hướng đến áp dụng các hình phạt
không phải hình phạt tù. Trong BLHS 2015, Điều 54 quy định, cho phép Tòa
án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được
áp dụng hoặc quy định thành các chế tài lựa chọn ở phần các tội phạm cụ thể,
12
trong đó bên cạnh hình phạt tù có thời hạn còn quy định các hình phạt khác
không phải là tù như cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ; điều này
góp phần hạn chế những mặt thiếu tích cực của hình phạt tù, và theo đó, xu
hướng nghiên cứu, không ngừng bổ sung các hình phạt khác có khả năng thay
thế hình phạt tù được các nhà làm luật ngày càng chú trọng.
Qua phân tích, ta có thể khái niệm về hình phạt tù có thời hạn: Tù có
thời hạn là việc buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại trại giam
trong một thời hạn nhất định nhằm giáo dục, cải tạo người phạm tội, đảm bảo
công lý, công bằng xã hội. Tù có thời hạn đối với người phạm một tội có mức
tối thiểu là ba tháng, mức tối đa là hai mươi năm.
Như đã nêu tại Mục 1.1.1, người dưới 18 tuổi là người chưa thành niên,
chưa phát triển đầy đủ về nhiều mặt, từ thể chất đến tâm, sinh lí, việc nhận
thức đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà mình thực hiện
còn hạn chế. Những đặc điểm trên khiến dưới 18 tuổi nằm trong nhóm có
nguy cơ cao thực hiện tội phạm nếu bị tác động, ảnh hưởng bởi môi trường
sống thiếu lành mạnh, tỷ lệ tội phạm cao, họ thường xuyên tiếp xúc. Tuy
nhiên, đây cũng là đối tượng cũng là dễ uốn nắn, cải tạo, việc thích nghi với
môi trường sống mới nhanh, dễ hòa nhập nên việc giáo dục, cải tạo đối với
đối tượng này dễ dàng hơn so với người trưởng thành, mục đích và hiệu quả
của hình phạt cao hơn.
BLHS 2015 dành một chương XII quy định đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội. Theo đó, người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ bị Tòa án áp dụng hình
phạt tù có thời hạn khi các hình phạt hay biện pháp giáo dục khác xét thấy
không đảm bảo tính răn đe, phòng ngừa, đồng thời, người dưới 18 tuổi phạm
tội bị áp dụng tù có thời hạn thì mức án được tuyên cũng đảm bảo nhẹ hơn so
với người trưởng thành khi thực hiện cùng một hành vi phạm tội.
Từ đó, ta có thể nhận thấy hình phạt tù có thời hạn có thể được áp dụng
13
cho người thực hiện hành vi phạm tội từ ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất
nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Tuy nhiên, xuất phát từ nguyên tắc xử
lý nêu trên, với mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, trở thành
công dân có ích cho xã hội nên hạn chế áp dụng loại và mức hình phạt tù đối
với dưới 18 tuổi phạm tội. Do vậy, có thể khái quát: Tù có thời hạn áp dụng
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là việc buộc người từ đủ 14 tuổi đến dưới
18 tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS
phải chấp hành hình phạt tại trại giam trong một thời gian nhất định nhằm
giáo dục cải tạo họ, đảm bảo công lý, công bằng xã hội. Tù có thời hạn áp
dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội có mức tối thiểu là 3 tháng, mức tối
đa là không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định hoặc 18 năm
nếu khung hình phạt quy định mức chung thân hoặc tử hình (đối với người
phạm tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18) hoặc một phần hai mức phạt tù mà điều
luật quy định hoặc 12 năm nếu khung hình phạt quy định mức chung thân
hoặc tử hình (đối với từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội).
1.1.2. Mục đích, ý nghĩa của hình phạt tù có thời hạn đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội
Mục đích của hình phạt là vấn đề hết sức quan trọng trong luật hình sự,
đây vừa là cơ sở để nhà làm luật quy định về từng loại hình phạt, hệ thống
hình phạt, vừa là yếu tố quan trọng quyết định hình phạt trong luật. Hình phạt
chỉ phát huy tác dụng khi nó đạt được mục đích của mình. Do đó, để tìm hiểu
mục đích của hình phạt tù có thời hạn áp dụng đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội nói riêng thì trước hết cần tìm hiểu về mục đích của hình phạt nói
chung.
Hình phạt nói chung vừa là nội dung, vừa là phương tiện của chính
sách hình sự của nhà nước, bảo đảm cho Luật hình sự có thể thực hiện được
nhiệm vụ bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích
14
hợp pháp của công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa,
chống mọi hành vi phạm tội; đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo
pháp luật, đấu tranh phòng, chống tội phạm. Xét về bản chất, hình phạt thực
chất là một biện pháp cưỡng chế của Nhà nước được áp dụng đối với người
phạm tội, mà nội dung của nó là tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của
người phạm tội. Như vậy, nội dung của hình phạt thể hiện rõ nó mang tính
chất trừng trị nhưng mục đích của hình phạt là gì? có phải là trừng trị hay
không? Nhiều ý kiến tranh cãi, chưa thống nhất về mục đích của hình phạt.
Qua nghiên cứu, tác giả nhận thấy có hai luồng quan điểm chính về
mục đích của hình phạt: Một là, coi trọng mục đích chính của hình phạt là
giáo dục, cải tạo người thực hiện hành vi phạm tội. Quan điểm còn lại coi
trừng trị mà mục đích chính của hình phạt, nếu không vì mục đích trừng trị thì
hình phạt sẽ không có tác dụng răn đe đối với người thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội.
Để có cách hiểu toàn diện, thống nhất theo tinh thần chung, chúng ta
nhận thấy:“Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người, pháp nhân thương mại
phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của
cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo dục người, pháp nhân thương
mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm” [22,
Điều 31]. Từ đó, ta có thể nhận thấy rằng, trừng trị là một trong những mục
đích không thể thiếu của hình phạt, nếu hình phạt không có mục đích trừng trị
thì cũng không còn là hình phạt nữa. Thế nhưng, căn cứ vào nguyên tắc nhân
đạo của luật hình sự, ta thấy rằng trừng trị xét cho cùng là bản chất, thuộc tính
cơ bản của hình phạt. Nếu hình phạt chỉ xét trên góc độ đề cao tính giáo dục,
cải tạo, thì nội dung của hình phạt sẽ mất đi, càng không thể lý giải được, nhất
là đối với hình phạt tử hình, một hình phạt nghiêm khắc, tước đi sinh mệnh
con người, lại được quy định trong bộ luật hình sự?.
15
Qua phân tích trên, ta có thể thấy hai yếu tố song trùng, không thể thiếu
và có tác động qua lại, tạo nên hiệu quả của hình phạt, đó là tính giáo dục, cải
tạo và tính trừng trị. Đây được xem là mục đích chính và là nội dung cơ bản
của bản chất hình phạt trong luật hình sự nước ta. Mục đích này không chỉ
được thể hiện ngay trong nội dung các loại hình phạt mà nó còn được thể hiện
ngay trong chế định khác của BLHS, đặc biệt là các chế định về quyết định
hình phạt, các chế định về miễn, giảm thời hạn chấp hành hình phạt, về đặc
xá, về xóa án tích và các quy định về thi hành án phạt tù trong trại cải tạo…
Tất cả các quy định cũng chỉ nhằm một mục đích là cải tạo, giáo dục người
phạm tội trở thành người có ích cho xã hội.
Xét ở khía cạnh khác, nội dung của mục đích này không chỉ tác động
vào cá nhân người thực hiện hành vi phạm tội, mà nó còn tác động lên chính
cộng đồng xã hội mà cá nhân đó đang sống. Mọi người nhìn vào hình phạt để
có những xử sự đúng đắn, tôn trọng pháp luật, nếu không họ cũng có thể bị xử
phạt như người phạm tội. Nhà nước đặt ra hình phạt để xử lý người thực hiện
hành vi tội phạm, cũng vừa hướng đến mục đích nhắc nhở, răn đe đối với
những người còn lại trong xã hội. Nếu thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội, được xác định là tội phạm thì bản thân người đó cũng sẽ bị áp dụng hình
phạt tương xứng với hành vi phạm tội của mình, đó là hậu quả tất yếu. Đặt ra
mục đích này giúp hình phạt vừa có tính răn đe, vừa có tính chất giáo dục để
mọi người không thực hiện những điều cấm được quy định trong BLHS.
Tuy nhiên, cả trừng trị và cải tạo, giáo dục người phạm tội đều không
thể là mục đích cuối cùng của hình phạt. Hình phạt bản chất của nó là biện
pháp cưỡng chế của Nhà nước, của xã hội, thể hiện phản ứng của Nhà nước,
xã hội đối với hành vi nguy hiểm cho sự tồn tại của xã hội luôn có tính chất
trừng trị. Trừng trị vừa là thuộc tính, vừa là nội dung, vừa là phương thức
thực hiện hình phạt. Trừng trị là thuộc tính của hình phạt ở bất kỳ xã hội nào.
16
Nhưng cưỡng chế của Nhà nước trong hình phạt không chỉ có tính chất trừng
trị vì nếu hình phạt chỉ nhằm mục đích trừng trị người phạm tội thì có nghĩa là
mới chỉ dừng ở mức độ nêu ra phương thức đấu tranh với tội phạm mà chưa
giải quyết được vấn đề cơ bản đó là phương thức đấu tranh đó hướng đến mục
đích gì.
Chính vì vậy tính chất chủ yếu trong mục đích của hình phạt không chỉ
mang tính chất trừng trị mà nó đồng thời còn có ý nghĩa cải tạo đối với người
phạm tội. Chính tính chất trừng trị của hình phạt đã răn đe người phạm tội, tác
động vào tư tưởng, ý thức người phạm tội để họ nhận ra sai lầm của mình, sửa
chữa, cải tạo mình trở thành công dân có ích cho xã hội, có ý thức tôn trọng
pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, hạn chế hoặc loại trừ điều kiện tái
phạm của người phạm tội. Cải tạo, do vậy cũng là thuộc tính của hình phạt.
Mặt khác cải tạo cũng là nội dung, là phương thức thực hiện hình phạt. Trừng
trị với tính cách là phương thức thực hiện hình phạt, chính là biện pháp,
phương thức để hình phạt đạt được mục đích.
Vai trò của luật hình sự nói chung và hình phạt nói riêng là đảm bảo
các điều kiện cần thiết mà trước hết là trật tự xã hội để xã hội tồn tại và phát
triển. Vai trò này của hình phạt đã xác định mục đích của nó là nhằm góp
phục hồi lại công lý - sự công bằng cho xã hội. Đó chính là mục đích chính
của hình phạt.
Đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, hình phạt tù có thời hạn áp dụng
với đối tượng này cũng sẽ đảm bảo được mục đích của hình phạt nói chung,
tuy nhiên, do đây là đối tượng có nhiều đặc điểm riêng, mang tính chất đặc
thù nên việc áp dụng hình phạt, nhất là hình phạt tù có thời hạn có những nét
riêng biệt. Mục đích của hình phạt tù có thời hạn áp dụng đối với người dưới
18 tuổi phạm tội có những đặc điểm đặc trưng riêng.
Trước hết, căn cứ vào độ tuổi, ta thấy người dưới 18 tuổi là những
17