Vietluanvanonline.com
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ HUẾ
----
LÊ NGUYÊN PHƯƠNG
PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP
CÓ VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
Ở TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC KINH TẾ
GVHD: TS. NGUYỄN HỒ MINH TRANG
HUẾ, 2020
1
Vietluanvanonline.com
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC BIỂU
2
Vietluanvanonline.com
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
FDI ngày càng có vai trò to lớn đối với việc thúc đẩy quá trình phát triển
kinh tế ở các nước đầu tư và các nước nhận đầu tư. Đối với nước đầu tư, đầu tư ra
nước ngoài giúp nâng cao hiệu quả sử dụng những lợi thế sản xuất ở các nước tiếp
nhận đầu tư, hạ giá thành sản phẩm và nâng cao tỷ suất lợi nhuận của vốn đầu tư...
Đối với các nước nhận đầu tư, đặc biệt là các nước đang phát triển, trong đó có Việt
Nam, FDI có tác dụng lớn trong việc giải quyết những khó khăn về kinh tế, xã hội
như thất nghiệp và lạm phát…
Sau gần 30 năm thực hiện chính sách mở cửa thu hút Đầu tư nước ngoài, đến
nay khu vực kinh tế có vốn FDI của Việt Nam đã trở thành bộ phận của nền kinh tế
với nhiều đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Năm
2016, Việt Nam đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), đây là sự kiện
đánh dấu bước ngoặt lớn trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nhờ đó, các dòng
vốn đầu tư nước ngoài đổ vào Việt Nam tăng mạnh, nhất là nguồn vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI). Môi trường kinh doanh của Việt Nam đã có sự cải thiện
đáng kể. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, FDI vẫn còn tồn tại một số
những hạn chế đòi hỏi cần phải có những giải pháp tích cực để phát triển nguồn vốn
FDI bền vững, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
FDI có ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế của mỗi quốc gia cũng như mỗi
tỉnh, thành của một quốc gia trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa và xã hội. Để thực
hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế thì một trong những nội dung cần được
chú trọng đó là phát triển kinh tế. Dó đó, việc thu hút FDI là một trong những
nhiệm vụ hàng đầu đặt ra đối với các chuyên gia kinh tế và các nhà quản lý kinh tế
nhằm thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế.
Có thể khẳng định những kết quả mà nền kinh tế tỉnh Thừa Thiên Huế đạt
được trong những năm qua có sự đóng góp một phần không nhỏ của các Doanh
nghiệp có vốn FDI. Sự phát triển của các doanh nghiệp có vốn FDI của tỉnh Thừa
Thiên Huế đã có những chuyển biến tích cực, song vẫn còn thấp so với các tỉnh,
thành khác như: Đà Nẵng, Hà Tĩnh, Thanh Hóa, Bắc Ninh, Bình Dương, Ninh
Thuận, Bà Rịa – Vũng Tàu, Đồng Nai... Trong khi đó, Thừa Thiên Huế đang có 6 khu
3
Vietluanvanonline.com
công nghiệp lớn, có cảng sân bay quốc tế Phú Bài, cảng biển Chân Mây (Lăng Cô)
cùng với tiềm năng phát triển các loại hình dịch vụ du lịch; đây là lợi thế cũng như cơ
hội để Thừa Thiên Huế phát triển DN có vốn FDI vào các lĩnh vực kinh tế, các ngành
nghề. Để làm rõ thêm về phát triển doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở
TTH giai đoạn 2012-2017, tôi chọn đề tài “Phát triển doanh ngiệp có vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài ở tỉnh Thừa Thiên Huế” để làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Vấn đề về thu hút FDI và phát triển doanh nghiệp có vốn FDI, ở Việt Nam đã
có nhiều tác giả, công trình nghiên cứu trên từng góc độ khác nhau như:
- Đỗ Thị Ngân Giang (2000) với đề tài “Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong
việc phát triển kinh tế ở Đồng Nai – Phương hướng và giải pháp”.
- Nguyễn Thanh Tịnh (2003) với đề tài “Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hà
Nội: Thực trạng và giải pháp”.
- Trương Đăng Hùng (2004) với đề tài “Đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa
bàn thành phố Hồ Chí Minh. Thực trạng và giải pháp”.
- Hồ Thị Thu Hương (2009) với đề tài “Tác động của đầu tư trực tiếp nước
ngoài tới phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế”.
- Dương Văn An (2012) với đề tài “Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Thừa Thiên Huế”.
- Hoàng Thanh Bình (2012) với đề tài “Nghiên cứu giải pháp thu hút vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài vào tỉnh Thừa Thiên Huế”.
- Nguyễn Thị Anh Linh (2012) với đề tài “Giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) tại tỉnh Thừa Thiên Huế”.
- Nguyễn Thị Nhật Ly (2014) với đề tài “Thực trạng thu hút FDI vào lĩnh
vực công nghệ cao ở tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn hiện nay:
- Võ Thị Hương Hải (2013) với đề tài “Thu hút FDI vào các khu công
nghiệp ở tỉnh Thừa Thiên Huế đến năm 2015, định hướng đến năm 2020”.
Nhìn chung những nghiên cứu trên chỉ tập trung vào phân tích thực trạng thu
hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở các tỉnh và địa phương mà chưa đi sâu phân
tích thực trạng phát triển doanh nghiệp có vốn đầu tư trược tiếp nước nước ngoài ở
tỉnh Thừa Thiên Huế.
4
Vietluanvanonline.com
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu chung
Đề tài phân tích và đánh giá thực trạng phát triển doanh nghiệp có vốn FDI ở
tỉnh Thừa Thiên Huế trong giai đoạn 2015 – 2019. Từ đó đề xuất một số giải pháp
nhằm đẩy mạnh phát triển doanh ngiệp có vốn FDI ở tỉnh Thừa Thiên Huế trong
thời gian tới.
3.2. Mục tiêu cụ thể:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về phát triển doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài
- Phân tích và đánh giá thực trạng phát triển doanh nghiệp có vốn FDI ở tỉnh
Thừa Thiên Huế trong giai đoạn 2015 – 2019 và đánh giá những thành tựu và hạn
chế về phát triển doanh nghiệp FDI ở tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Định hướng và đề xuất các giải pháp đẩy mạnh phát triển doanh nghiệp có
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở tỉnh Thừa Thiên Huế đến năm 2025.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là phát triển doanh nghiệp có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài ở tỉnh Thừa Thiên Huế.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung: đề tài tập trung phân tích thực trạng phát triển doanh ngiệp có
vốn FDI ở tỉnh TTH hoạt động thu hút, quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài.
- Về không gian: Tại tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Về thời gian: giai đoạn 2015 – 2019.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp thu thập thông tin
Dữ liệu của đề tài bao gồm dữ liệu thứ cấp và sơ cấp
- Dữ liệu thứ cấp: Được thu thập từ niên giám thống kê tỉnh Thừa Thiên Huế,
các báo cáo tổng kết và tài liệu liên quan của Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh, Ủy ban
nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế, Cục thống kê tỉnh; ngoài ra, số liệu được lấy từ
nguồn thông tin khác như báo cáo, giáo trình, các website khác.
5
Vietluanvanonline.com
- Dữ liệu sơ cấp: Được thu thập thông qua cuộc khảo sát của tác giả tại 100
doanh nghiệp FDI ở Thừa Thiên Huế nhằm phân tích và đánh giá thực trạng phát
triển doanh nghiệp có vốn FDI của tỉnh Thừa Thiên Huế.
5.2. Phương pháp điều tra tổng thể bằng bảng hỏi
Xây dựng bảng hỏi thu thập ý kiến của toàn bộ các doanh nghiệp FDI ở Thừa
Thiên Huế về các vấn đề liên quan đến phát triển doanh nghiệp FDI ở tỉnh Thừa
Thiên Huế. Theo đó, tác giả tiến hành khảo sát 100 phiếu điều doanh nghiệp FDI và
thu được 100 phiếu hợp lệ.
5.3 Phương pháp thống kê mô tả và phương pháp phân tích định tính:
Phân tích và thống kê các nguồn số liệu phù hợp với nội dung nghiên cứu của luận
văn. Sử dụng phân tích định tính và định lượng nhằm làm sáng tỏ các nhận định và
rút ra những kết luận của vấn đề nghiên cứu.
5.4. Phương pháp chuyên gia
Tiến hành phỏng vấn sâu 30 chuyên gia trong lĩnh vực FDI và các cán bộ
lãnh đạo tỉnh Thừa Thiên Huế nhằm xác định tính lý luận và thực tiễn của vấn đề
nghiên cứu.
- Ngoài ra, đề tài còn sử dụng phần mềm Excel để phân tích thực trạng thu
hút vốn FDI ở Thừa Thiên Huế và vai trò của FDI đến phát triển kinh tế và một số
chỉ tiêu khác của FDI tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2015 – 2019.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục bảng, biểu, tài liệu tham khảo, đề tài
gồm 3 chương:
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN ĐẦU
TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI).
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI (FDI) Ở TỈNH THỪA THIÊN HUẾ.
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI) Ở TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
CHƯƠNG 1
6
Vietluanvanonline.com
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP
CÓ VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1.1. Cơ sở lý luận về phát triển doanh nghiệp có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.1 Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn, tài sản theo các hình thức và cách thức do
pháp luật quy định để thực hiện hoạt động nhằm mục đích lợi nhuận hoặc lợi ích
kinh tế, xã hội khác.
FDI là viết tắt của “Foreign Direct Investment” được dịch sang tiếng Việt
Nam với sát nghĩa là đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Hiện nay, trên thế giới có nhiều quan điểm khác nhau về FDI xuất phát từ
nhiều khía cạnh:
Theo Lênin, trong giai đoạn cạnh tranh tự do, đặc điểm của chủ nghĩa tư bản
là xuất khẩu hàng hoá, còn trong giai đoạn hiện đại là xuất khẩu tư bản. Ông cho
rằng, xuất khẩu tư bản là một đặc điểm kinh tế của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Do tư
bản tài chính trong quá trình phát triển đã xuất hiện hiện tượng “tư bản thừa”, thừa
so với tỉ suất lợi nhuận thấp nếu phải đầu tư trong nước, còn nếu đầu tư ra bên ngoài
thì tỉ suất lợi nhuận sẽ cao hơn. Theo ông: “Chừng nào chủ nghĩa tư bản vẫn là chủ
nghĩa tư bản, số tư bản thừa không phải dùng để nâng cao mức sống của quần
chúng trong nước đó, vì như thế sẽ làm giảm bớt lợi nhuận của bọn tư bản - mà là
để tăng thêm lợi nhuận bằng cách xuất khẩu tư bản ra nước ngoài, vào những nước
lạc hậu. Trong các nước lạc hậu này, lợi nhuận thường cao vì tư bản hãy còn ít, giá
đất đai tương đối thấp, tiền công hạ, nguyên liệu rẻ”. [1, 2]
Lênin cho rằng: “Việc xuất khẩu tư bản ảnh hưởng đến sự phát triển của chủ
nghĩa tư bản và thúc đẩy hết sức nhanh sự phát triển đó trong những nước đã được
đầu tư...” [1, 3]
Samuelson cho rằng đa số các nước đang phát triển đều thiếu vốn, mức thu
nhập thấp chỉ đủ sống ở mức tối thiểu do đó khả năng tích luỹ vốn hạn chế. Điều đó
được thể hiện trong lý thuyết “cái vòng luẩn quẩn” và “cú huých từ bên ngoài”. Mặt
7
Vietluanvanonline.com
khác ông cho rằng, ở các nước đang phát triển, nguồn nhân lực đang bị hạn chế bởi
tuổi thọ và dân trí thấp, tài nguyên khan hiếm, kỹ thuật lạc hậu và gặp phải trở ngại
trong việc kết hợp chúng. Do vậy, ở nhiều nước đang phát triển ngày càng khó khăn
và tăng “cái vòng luẩn quẩn”. Từ đó theo Samuelson: Để phát triển kinh tế phải có
“cú huých từ bên ngoài nhằm phá vỡ cái vòng luẩn quẩn”. Đó là phải có đầu tư của
nước ngoài vào các nước đang phát triển.
R.Nurke đã lấy vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói làm lý luận tạo vốn, trong
cái vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói đó, nguyên nhân cơ bản là thiếu vốn. Do vậy,
mở cửa cho đầu tư trực tiếp nước ngoài được ông xem là giải pháp thực tế nhất đối
với các nước đang phát triển. Theo ông, mở cửa cho FDI có ý nghĩa đối với các
nước đang phát triển có thể vươn đến những thị trường mới cũng như khuyến khích
việc mở rộng kỹ thuật hiện đại và những phương pháp quản lý có hiệu quả. FDI giúp
cho các nước đang phát triển tránh được những đòi hỏi về lãi suất chặt chẽ [3,115]
Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), FDI là một công cuộc đầu tư ra khỏi biên
giới quốc gia, trong đó người đầu tư trực tiếp đạt được một phần hay toàn bộ quyền
sỡ hữu lâu dài một doanh nghiệp đầu tư trực tiếp trong một quốc gia khác. Quyền
sỡ hữu này tối thiểu phải là 10% tổng số cổ phần mới được công nhận là FDI.
Theo Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), đầu tư trực tiếp nước
ngoài phản ánh những lợi ích khách quan lâu dài mà một thực thể kinh tế tại một
nước đạt được thông qua một cơ sở kinh tế tại một nền kinh tế khác với nền kinh tế
thuộc đất nước của nhà đầu tư.
Ngân hàng Thế giới (WB) đưa ra định nghĩa: FDI là một khoản đầu tư được
thực hiện nhằm đạt được một lãi suất ổn định về mặt quản lý (thường tối thiểu là
10% trên số cổ phần có quyền bỏ phiếu) trong một doanh nghiệp hoạt động tại một
quốc gia khác với nước sở tại của nhà đầu tư.
Theo Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO): Đầu tư trực tiếp nước ngoài
xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một
nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó.
Theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (1987) và được bổ sung hoàn
thiện sau ba lần sửa đổi “Đầu tư nước ngoài là việc các tổ chức và cá nhân nước
8
Vietluanvanonline.com
ngoài trực tiếp đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào
được chính phủ Việt Nam chấp nhận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng
hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hay xí nghiệp 100% vốn nước ngoài” (Khoản 3,
điều 2). [5]
Luật đầu tư số 59/2005/QH11 ngày 29/11/2005 của Quốc hội nước Cộng hòa
Xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà
đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư; nhà đầu tư nước ngoài
là tổ chức, cá nhân nước ngoài bỏ vốn để thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam
(Khoản 5, điều 2).
Từ các khái niệm trên, có thể hiểu đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư quốc tế
chủ yếu mà nhà đầu tư nước ngoài đầu tư toàn bộ hay phần lớn vốn đầu tư của các
dự án nhằm giành quyền điều hành các doanh nghiệp sản xuất hoạt động kinh
doanh, dịch vụ. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư mà người bỏ vốn
đầu tư (chủ đầu tư) và người sử dụng vốn đầu tư là một chủ thể, có nghĩa là các
doanh nghiệp, các cá nhân người nước ngoài trực tiếp tham gia vào quá trình quản
lý, sử dụng vốn đầu tư và vận hành các kết quả đầu tư nhằm thu hồi vốn đó bỏ ra.
Hay đầu tư trực tiếp nước ngoài là sự di chuyển vốn quốc tế dưới hình thức vốn sản
xuất thông qua nhà đầu tư ở một nước đưa vốn vào một nước khác, tận dụng các ưu
thế về vốn, trình độ công nghệ, kinh nghiệm quản lý... nhằm thu lợi nhuận và chi
phối hoạt toàn quyền kiểm soát doanh nghiệp.
1.1.1.2 Khái niệm về doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế, có tài sản và tên riêng, có trụ sở giao
dịch ổn định, được cấp giấy đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật để
thực hiện các hoạt động kinh doanh trên trị trường (Theo mục 7 điều 1 chương 1
luật doanh nghiệp 2014).
Trong nền kinh tế thị trường có rất nhiều loại hình doanh nghiệp, trong đó có
doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (Doanh nghiệp FDI).
Trên thực tế, có nhiều các định nghĩa khác nhau, các góc nhìn khác nhau về
doanh nghiệp FDI.
9
Vietluanvanonline.com
Luật Đầu tư 2014 không đề cập trực tiếp loại hình doanh nghiệp này mà chỉ
định nghĩa một cách khái quát tại Khoản 17 Điều 3 như sau: “Tổ chức kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài là tổ chức kinh tế có nhà đầu tư nước ngoài là thành viên
hoặc cổ đông”.
Định nghĩa của doanh nghiệp FDI cũng có được nhắc đến trong định nghĩa
của tổ chức Thương mại Thế giới là: “Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn
tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh, trong những
trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay được gọi là “công ty mẹ” và các tài sản được
gọi là “công ty con” hay “chi nhánh công ty”.
Doanh nghiệp FDI là những loại hình doanh nghiệp có vốn của bên nước
ngoài và có sự quản lý trực tiếp của bên nước ngoài. Doanh nghiệp này hoạt động
theo luật pháp của nước sở tại để tiến hành các hoạt động kinh doanh nhằm thu
được lợi ích cho tất cả các bên [Đinh Trọng Thịnh (2006), Quản trị dự án đầu tư và
quản trị tài chính doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, NXB Tài chính,
Hà Nội, 101].
Doanh nghiệp cso vốn FDI là những tổ chức kinh tế quốc tế có tư cách pháp
nhân của nước chủ nhà, có vốn của bên nước ngoài và có sự quản lý trực tiếp của
bên nước ngoài để tiến hành các hoạt động kingh doanh nhằm thu đươc lợi ích kinh
tế [...,101].
Tuy nhiên, một cách khái quát và ngắn gọn nhất, có thể hiểu rằng: Doanh
nghiệp FDI là các loại hình doanh nghiệp có tư cách pháp nhân tại nước tiếp nhận
đầu tư và có vốn đầu tư tối thiểu để tham gia quản lý trực tiếp hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp nhằm thu lại lợi ích cho các bên tham gia đầu tư.
1.1.1.3. Khái niệm về phát triển doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài
- Khái niệm về phát triển
Theo Từ điển Tiếng Việt “phát triển” được hiểu là quá trình vận động, tiến
triển theo hướng tăng lên, ví dụ phát triển kinh tế, phát triển văn hoá, phát triển xã
hội…
10
Vietluanvanonline.com
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam thì “phát triển là phạm trù triết học chỉ ra
tính chất của những biến đổi đang diễn ra trong thế giới. Phát triển là một thuộc tính
của vật chất. Mọi sự vật và hiện tượng của hiện thực không tồn tại trong trạng thái
khác nhau từ khi xuất hiện đến lúc tiêu vong,… nguồn gốc của phát triển là sự
thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập”.
Phát triển là khuynh hướng vận động đã xác định về hướng của sự vật:
hướng đi từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện.
Phát triển kinh tế là một quá trình tiến hóa theo thời gian và do những nhân
tố nội tại (bên trong) quyết định đến toàn bộ quá trình phát triển đó; là quá trình lớn
lên, tăng tiến mọi mặt của nền kinh tế. Nó bao gồm sự tăng trưởng kinh tế và có sự
hoàn chỉnh về mặt cơ cấu, thể chế kinh tế, chất lượng cuộc sống. [Hoàng Thu Hà và
cộng sự (2001), Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, kinh nghiệm nước ngoài và
phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam, NXB Thống kê, Hà Nội]
- Khái niệm về phát triển doanh nghiệp
Phát triển doanh nghiệp là quá trình vận động đi lên của một doanh nghiệp từ
số lượng doanh nghiệp đến quy mô hoạt động của doanh nghiệp (lao động, nguồn
vốn, doanh thu); hiệu quả hơn về số lượng và có sự hoàn chỉnh hơn về cơ cấu doanh
nghiệp theo vùng lãnh thổ, thành phần kinh tế và ngành sản xuất kinh doanh, góp
phần phục vụ ngày càng đầy đủ và tốt hơn các nhu cầu về hàng hóa, dịch vụ thúc
đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
- Phát triển doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Phát triển doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là sự phát triển về
số lượng cũng như chất lượng của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Trên góc độ vùng, phát triển doanh nghiệp FDI được thể hiện thông qua các
chỉ tiêu sau:
- Số lượng doanh nghiệp tại địa phương tăng lên.
- Sự thay đổi về cơ cấu loại hình doanh nghiệp (phân theo ngành nghề, hình
thức đầu tư, quốc gia đầu tư) theo định hướng phát triển của địa phương.
- Sự tăng lên về quy mô doanh nghiệp (quy mô vốn, lao động, tài sản cố
định, trình độ ứng dụng khoa học công nghệ)
11
Vietluanvanonline.com
Theo góc độ phạm vi trong một doanh nghiệp, phát triển doanh nghiệp FDI
được thể hiện thông qua các chỉ tiêu sau:
- Sự tăng lên về các nguồn lực sản xuất kinh doanh: Đất đai, vốn, lao động
(số lượng và chất lượng), trình độ quản lý, công nghệ sản xuất kinh doanh.
- Thay đổi quá trình sản xuất kinh doanh có lợi cho doanh nghiệp: yếu tố đầu
vào, quá trình sản xuất sản phẩm, dịch vụ; tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ.
- Thay đổi kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp FDI.
Việc phát triển doanh nghiệp FDI luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm,
Văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng nêu rõ: “Rà soát, sửa đổi pháp luật, chính
sách để thu hút mạnh đầu tư nước ngoài, nhất là các dự án có công nghệ cao, thân
thiện môi trường, sản phẩm có giá trị gia tăng và tỷ lệ nội địa hóa cao, tham gia
mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu, thúc đẩy cơ cấu lại nền kinh tế; Tăng cường
thu hút đầu tư nước ngoài có công nghệ cao, thân thiện môi trường, sử dụng nhiều
lao động; Khuyến khích đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng và các ngành công nghiệp
hỗ trợ, năng lượng tái tạo, vật liệu mới, điện tử, công nghệ thông tin, công nghệ sinh
học, giống cây trồng, vật nuôi, đào tạo nhân lực và chăm sóc sức khoẻ chất lượng cao...
Có cơ chế ưu đãi linh hoạt đối với các dự án đặc thù; Khuyến khích thành lập các trung
tâm nghiên cứu triển khai của doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tại Việt Nam”.
1.1.2 Đặc điểm của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (doanh nghiệp FDI) xuất hiện với
nhiều loại hình, cách thức tổ chức và hoạt động khác nhau. Việc nhận thức khái
niệm, đặc điểm có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo hiệu quả quản lý nhà nước
đối với chúng. Doanh nghiệp FDI Việt Nam có một số đặc điểm như sau:
FDI là hình thức đầu tư bằng vốn của các nhà đầu tư nước ngoài, các nhà đầu
tư nước ngoài tự mình ra quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự
chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Hình thức này mang tính khả thi và hiệu quả cao. Chủ đầu
tư nước ngoài điều hành doanh nghiệp hoạt động theo tỷ lệ góp vốn của mình. Các chủ
đầu tư phải đóng góp một khối lượng vốn tối thiểu theo quy định của từng quốc gia.
Luật Đầu tư nước ngoài của Việt Nam quy định chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp
tối thiểu 30% vốn pháp định của dự án.
12
Vietluanvanonline.com
Doanh nghiệp FDI có sự tham gia quản lý trực tiếp của nước ngoài, các chủ
đầu tư cũng có thể điều hành toàn bộ mọi hoạt động đầu tư nếu là doanh nghiệp 100%
vốn nước ngoài. Sự phân chia quyền quản lý các doanh nghiệp phụ thuộc vào mức độ
đóng góp vốn. Nếu đóng góp 10% vốn thì doanh nghiệp hoàn toàn do chủ đầu tư nước
ngoài điều hành và quản lý.
Tỷ lệ vốn quy định vốn phân chia quyền lợi và nghĩa vụ các chủ đầu tư, thu
nhập chủ đầu tư phụ thuộc vào kết quả kinh doanh và được phân chia theo tỷ lệ góp
vốn sau khi nộp thuế và trả lợi tức cổ phần. Nhà đầu tư nước ngoài sau một thời gian
đầu tư, họ có thể mở rộng đầu tư bằng nguồn lợi nhuận thu được của dự án đầu tư.
FDI đang có xu hướng quay trở lại các thị trường các nước công nghiệp hóa
phát triển. Theo Hội nghị của Liên hiệp quốc về thương mại và phát triển (UNCTAD),
dòng vốn đầu tư FDI đang có sự chuyển dịch quan trọng, theo đó, vốn đầu tư từ các
nước phát triển, từ các tập đoàn đa quốc gia ngày càng chảy nhiều hơn vào các nước
công nghiệp hóa, thay vì các nước đang phát triển như những năm trước đây. Trong khi
đó, các nền kinh tế mới nổi cũng gia tăng mạnh đầu tư ra nước ngoài để tiếp cận những
thị trường mới.
Dựa trên số liệu và dự báo của các tổ chức quốc tế như WB, IMF, Cục Dân số
Liên hiệp Qquốc, ASEANstats, UNCTAD, ILO, PwC nhận định: Việt Nam đang là
nền kinh tế mới nổi năng động nhất trong khu vực đạt được thành tựu phát triển mạnh
mẽ trên ba phương diện: kinh tế, đầu tư trực tiếp nước ngoài và nhân khẩu học.
Về thu hút đầu tư nước ngoài, Việt Nam là một trong số ít các quốc gia ASEAN
liên tục ghi nhận sự tăng trưởng tích cực về FDI trong những năm gần đây.
Cơ cấu và phương thức FDI trở nên đa dạng hơn. Trong những năm gần đây
cơ cấu và phương thức đầu tư nước ngoài trở nên đa dạng hơn so với trước đây.
Theo đó, đã hình thành hệ thống phân công lao động quốc tế ngày càng sâu rộng và
sự thay đổi môi trường kinh tế thương mại toàn cầu.
Cơ cấu FDI vào các nước công nghiệp phát triển đã có những thay đổi rõ
rệt: Thứ nhất, vai trò và tỉ trọng của đầu tư vào các ngành có hàm lượng khoa học
cao tăng lên. Hơn 1/3 FDI tăng lên hàng năm tập trung vào các ngành then chốt
như: điện tử, chế tạo máy tính, chất dẻo, hoá chất và chế tạo máy. Thứ hai, tỷ trọng
13
Vietluanvanonline.com
của các ngành công nghiệp chế tạo giảm xuống trong khi FDI vào các ngành dịch
vụ tăng lên. Một số lĩnh vực được ưu tiên là các dịch vụ thương mại, bảo hiểm, các
dịch vụ tài chính và giải trí.
FDI không chỉ gắn liền với di chuyển vốn mà còn gắn liền với chuyển giao
công nghệ, chuyển giao kiến thức và kinh nghiệm quản lý và tạo ra thị trường mới
cho cả phía đầu tư và phía nhận đầu tư. Nước nhận đầu tư tiếp nhận được công nghệ
ký thuật tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý hiện đại của nước ngoài thông qua
các chương trình đào tạo hoặc qua trực tiếp tham gia quản lý. FDI đang trở thành
kênh quan trọng nhất của việc chuyển giao công nghệ với xu hướng ngày càng gắn
bó chặt chẽ với chuyển giao công nghệ. Đây chính là hình thức có hiệu quả nhất của
sự lưu chuyển vốn và kỹ thuật trên phạm vi quốc tế. Một số nước như Hong Kong,
Singapo và Đài Loan rất tích cực khuyến khích các công ty xuyên quốc gia chuyển
giao công nghệ cùng với quá trình đầu tư để phát triển kinh tế trong nước.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam phải được tổ chức
dưới các hình thức doanh nghiệp theo quy định của pháp luật Việt Nam. Nhà đầu tư
nước ngoài có quyền lựa chọn một loại hình doanh nghiệp phù hợp với nhu cầu của
mình để thực hiện hoạt động kinh doanh ở Việt Nam: Doanh nghiệp tư nhân; Công
ty hợp danh; Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên; Công ty TNHH hai
thành viên trở lên; và Công ty cổ phần.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam có tư cách pháp nhân
hoặc không có tư cách pháp nhân phụ thuộc vào loại hình doanh nghiệp mà họ
đăng ký thành lập theo pháp luật Việt Nam. Trừ trường hợp nhà đầu tư nước ngoài
lựa chọn loại hình doanh nghiệp tư nhân (không có tư cách pháp nhân), các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thành lập theo các hình thức công ty TNHH, công
ty cổ phần, công ty hợp danh đều có tư cách pháp nhân.
Doanh nghiệp EDI thường có phần sở hữu của các công ty đa quốc gia, nên
các quyết định của nó không hoàn toàn phụ thuộc vào khuôn khổ pháp lý của Việt
Nam. Phần vốn góp của nhà đâu tư nước ngoài càng cao, thì hoạt động của doanh
nghiệp FDI có thẻ càng chịu nhiều sự ảnh hưởng của bên nước ngoài. Mặt khác, xu
hướng tự nhiên của doanh nghiệp FDI bao giờ cũng coi lợi nhuận là mục tiêu duy
14
Vietluanvanonline.com
nhất hàng đầu; trong khi đó, nước chủ nhà lại quan tâm nhiều đến hiệu quả kinh tế xã hội, đến sự phát triển tổng thể nền kinh tế. Do vậy, quản lý nhà nước đối với
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải dung hòa được hai lợi ích này.
Doanh nghiệp FDI năm trên lãnh thổ Việt Nam, chịu sự quản lý vĩ mô, chịu
ảnh hưởng của tình hình chính trị, kinh tế - xã hội của Nhà nước Việt Nam trên các
phương tiện môi trường sinh thái, môi trường chính trị, kinh tế - xã hội... Đồng thời
cũng có tác động trở lại đối với đất nước Việt Nam, có thể tích cực hoặc tiêu cực,
tuy thuộc vào tình hình hoạt động đúng hay chệch hướng, hiệu quả hay thua lỗ của
doanh nghiệp.
Doanh nghiệp FDI hoạt động trong một thời hạn nhất định do Chính phủ
nước Cộng Hòa XHCN Việt Nam quyết định đối với từng dự án, thường không quá
50 năm, trường hợp đặc biệt có thể đài hơn nhưng tối đa không quá 70 năm. Hết
thời hạn qui định, doanh nghiệp FDI phải giải thể hoặc chuyển cho phía Việt Nam
(theo hình thức bồi hoàn hoặc không bồi hoàn).
Doanh nghiệp FDI là nơi gặp gỡ và cọ xát giữa các nền văn hoá khác nhau,
phản ánh sự pha trộn các yếu tố văn hoá của nhiêu nước, thể hiện qua triết lý kinh
doanh, tập quán, sự hiểu biết pháp luật, ngôn ngữ, lối sống, thói quen, lòng tin, thái
độ, phong cách ứng xử của các bên tham gia. Văn hoá kinh doanh của doanh nghiệp
FDI tương đối phức tạp, nhiều khi mang sắc thái chính trị, tôn giáo rõ rệt, làm cho
quá trình triển khai và vận hành doanh nghiệp FDI hết sức phức tạp đòi hỏi Việt
Nam phải chuẩn bị đủ các điều kiện cần thiết để tham gia kinh doanh với các nhà
đầu tư nước ngoài một cách bình đẳng và đảm bảo hiệu quả, đồng thời hạn chế tối
đa những thua thiệt có thể xảy ra đối với nước mình.
1.1.3. Phân loại doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Xét về hình thức sở hữu, tỷ trọng góp vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thường
có 3 hình thức:
Doanh nghiệp liên doanh
Đây là hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài, hình thức này có đặc trưng là
mỗi bên tham gia vào doanh nghiệp liên doanh là 1 pháp nhân riêng, nhưng doanh
15
Vietluanvanonline.com
nghiệp liên doanh là một pháp nhân độc lập. Khi các bên đã đóng góp đủ số vốn quy
định vào liên doanh thì dù 1 bên có phá sản, doanh nghiệp liên doanh vẫn tồn tại.
Hình thức này được áp dụng phổ biến, các nhà đầu tư nước ngoài thích áp
dụng hình thức liên doanh vì thấy được ưu thế giữa hình thức xí nghiệp liên doanh
so với hình thức xí nghiệp 100% vốn nước ngoài. Điều này có thể tranh thủ được
những hiểu biết của các đối tác cũng như việc hỗ trợ trong tất cả các khâu hình
thành, thẩm định và thực hiện dự án.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh
Đây là hình thức đầu tư trực tiếp trong đó hợp đồng hợp tác kinh doanh được
ký kết giữa hai hay nhiều bên (gọi là các bên hợp tác kinh doanh) để tiến hành một
hoặc nhiều hoạt động kinh doanh ở nước nhận đầu tư trong đó quy định trách nhiệm
và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên tham gia mà không cần thành lập xí
nghiệp liên doanh hoặc pháp nhân mới. Hình thức này không làm hình thành một
công ty hay một xí nghiệp mới. Mỗi bên vẫn hoạt động với tư cách pháp nhân độc
lập của mình và thực hiện các nghĩa vụ của mình trước nước nhà.
Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài
Đây là doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của tổ chức hoặc cá nhân nước
ngoài, được hình thành bằng toàn bộ vốn nước ngoài và do tổ chức hoặc cá nhân
nước ngoài thành lập, tự quản lý, điều hành và hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết
quả kinh doanh. Theo điều 26 NĐ12-CP quy định: Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư
nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại
Việt Nam, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh doanh.
Doanh nghiệp này được thành lập dưới dạng các công ty trách nhiệm hữu hạn, là pháp
nhân Việt Nam và chịu sự điều chỉnh của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Xét theo nhu cầu đầu tư về hạ tầng, các công trình xây dựng còn có hình thức:
Hợp đồng xây dựng – kinh doanh – chuyển giao (BOT)
Là một phương thức đầu tư trực tiếp được thực hiện trên cơ sở văn bản được
ký kết giữa nhà đầu tư nước ngoài (có thể là tổ chức, cá nhân nước ngoài) với cơ
quan nhà nước có thẩm quyền để xây dựng kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng
trong một thời gian nhất định, hết thời hạn nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao cho
16
Vietluanvanonline.com
nước chủ nhà. Theo điều 12 khoản 2 luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam: “Hợp
đồng xây dựng – kinh doanh – chuyển giao là văn bản kí giữa cơ quan có thẩm
quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng kinh doanh công trình
kết cấu hạ tầng trong thời hạn nhất định, hết thời hạn nhà đầu tư nước ngoài chuyển
giao không bồi hoàn công trình đó cho nhà Việt Nam.”
Hợp đồng xây dựng – chuyển giao – kinh doanh
Là phương thức đầu tư dựa trên văn bản ký kết giữa cơ quan nhà nước có
thẩm quyền của nước chủ nhà và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng, kinh doanh
công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển
giao công trình cho nước chủ nhà. Nước chủ nhà có thể dành cho nhà đầu tư quyền
kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi
nhuận hợp lý.
Hợp đồng xây dựng – chuyển giao (BT)
Là một phương thức đầu tư nước ngoài trên cơ sở văn bản ký kết giữa cơ
quan nhà nước có thẩm quyền của nước chủ nhà và nhà đầu tư nước ngoài để xây
dựng công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài
chuyển giao công trình đó cho nước chủ nhà. Chính phủ nước chủ nhà tạo điều kiện
cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận
hợp lý.
Theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam: “Hợp đồng xây dựng chuyển
giao là hợp đồng kí kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà
đầu tư nước ngoài để xây dựng kết cấu hạ tầng. Sau khi xây xong nhà đầu tư nước
ngoài chuyển giao công trình đó cho nhà nước Việt Nam. Chính phủ Việt Nam tạo
điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện các dự án khác để thu hồi vốn đầu tư
và lợi nhuận hợp lý (khoản 13 điều 2).
Xét theo loại hình pháp lý của doanh nghiệp, có thể chia làm 3 loại chính:
- Công ty trách nhiệm hữu hạn có vốn FDI
Là một loại hình công ty đối vốn, gồm các thành viên liên kết với nhau để
kinh doanh trên cơ sở bản điều lệ công ty, trong đó các thành viên thỏa thuận hình
thức góp vốn, phân chia kết quả kinh doanh và quyền quản lý giữa các thành viên.
17
Vietluanvanonline.com
Công ty đối vốn là công ty trong đó các thành viên cùng góp vốn để tiến hành hoạt
động kinh doanh và mỗi thành viên chỉ chịu trách nhiệm trong phần vốn của mình
đối với các khoản nợ của công ty, tức chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn. Công ty trách
nhiệm hữu hạn có vốn FDI có đặc điểm giống như công ty trách nhiệm hữu hạn nói
chung như: nguồn vốn của công ty là do các thành viên đóng góp một cách tự
nguyện và phần vốn của mỗi thành viên không nhất thiết phải bằng nhau. Các thành
viên trong công ty trách nhiệm hữu hạn có vốn FDI phải có quốc tịch khác nhau.
Các thành viên có thể góp vốn bằng tiền, bất động sản hoặc bí quyết công nghệ…
Phần góp vốn của tất cả các thành viên phải được góp đủ ngay khi thành lập công ty
và được ghi rõ trong điều lệ công ty. Công ty chỉ chịu trách nhiệm trên phần vốn mà
các thành viên đã đóng góp và không cho phép phát hành bất kỳ một loại chứng
khoán nào. Việc chuyển nhượng vốn giữa các thành viên diễn ra tự do, nhưng nếu
một thành viên muốn chuyển nhượng vốn cho một người bên ngoài công ty thì phải
được các thành viên đại diện cho ít nhất là ¾ vốn điều lệ của công ty chấp nhận.
Công ty có thể tăng vốn điều lệ bằng cách gọi thêm vốn góp trong các thành viên,
kết nạp thêm thành viên mới hay tái đầu tư từ lợi nhuận giữ lại theo quyết định của
Hội đồng quản trị. Hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn chỉ thích hợp với giai
đoạn đầu trong hoạt động doanh nghiệp và thường được áp dụng ở những nước
thiếu vốn và ít kinh nghiệm trong quản lý kinh doanh.
- Công ty cổ phần có vốn FDI
Là một loại công ty đối vốn, trong đó các thành viên (cổ đông) có cổ phiếu và chỉ
chịu trách nhiệm đến hết giá trị những cổ phần mà mình nắm giữ. Công ty cổ phần có vốn
FDI có đặc điểm cơ bản giống với công ty cổ phần nói chung: vốn của công ty được chia
thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Các cổ phần được trao đổi trên thị trường
chứng khoán gọi là cổ phiếu. Công ty cổ phần được phát hành các loại cổ phiếu, trái phiếu
để gọi thêm vốn trên thị trường chứng khoán. Các thành viên Hội đồng quản trị phải có
một số lượng cổ phiếu tối thiểu và không được chuyển nhượng trong suốt thời gian tại
chức và trong 2 năm kể từ ngày thôi giữ chức thành viên Hội đồng quản trị. Tuy nhiên,
công ty cổ phần có vốn FDI bắt buộc phải có sự tham gia Hội đồng quản trị của các nhà
đầu tư nước ngoài và các nhà đầu tư nước ngoài phải có một số vốn tối thiểu theo quy định
của nước nhận đầu tư. Đại hội đồng là cơ quan quyết định cao nhất của công ty. Ở Việt
18
Vietluanvanonline.com
Nam, theo nghị định số 38/2003/NĐ-Cp ngày 15/4/2003 của Chính phủ, công ty cổ phần
có vốn FDI là doanh nghiệp có vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là
“cổ phần”; trong đó các cổ đông sáng lập nước ngoài nắm giữ ít nhất 30% vốn điều lệ.
- Công ty sở hữu hoàn toàn và công ty sở hữu chung
Công ty sở hữu hoàn toàn là công ty có trên 95% vốn thuộc quyền sở hữu của một
thành viên nào đó. Còn ngược lại thì được coi là công ty sở hữu chung.
1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển doanh nghiệp có vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài
Thực tế có thể chia thành ba nhóm nhân tố ảnh hưởng đến FDI: Nhân tố từ
môi trường kinh tế vĩ mô; nhân tố nội tại của địa phương tiếp nhận vốn FDI; nhân
tố liên quan đến các nhà đầu tư nước ngoài.
* Nhân tố từ môi trường kinh tế vĩ mô:
- Chiến lược thu hút vốn để phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia: Chiến
lược thu hút vốn để phát triển kinh tế của một quốc gia nói chung và của quốc gia
đối với vùng kinh tế nói riêng là nhân tố có ý nghĩa quyết định đến việc thu hút vốn
FDI vào địa phương.
- Độ mở cửa kinh tế quốc tế của quốc gia tiếp nhận: Với xu thế toàn cầu hóa,
mức độ phụ thuộc lẫn nhau ngày càng lớn các quốc gia hoạt động trong mối quan
hệ mở và cũng không có quốc gia nào cô lập khép kín lại phát triển tốt được. Hợp
tác cùng tồn tại và phát triển là xu thế tất yếu của các quốc gia trên thế giới ngày
nay. Hợp tác trong kinh tế quốc tế là đem lại lợi ích trước hết cho quốc gia, dân tộc
mình nhằm phát triển đất nước mình nhưng đồng thời cũng giải quyết đúng đắn mối
quan hệ giữa lợi ích quốc gia mình với quốc gia khác. Tham gia quan hệ kinh tế
quốc tế các nước có cơ hội trao đổi thương mại quốc tế, hợp tác quốc tế về kinh tế
và khoa học công nghệ, hợp tác đầu tư quốc tế, các dịch vụ thu ngoại tệ…
- Sự ổn định môi trường kinh tế vĩ mô: Ổn định về kinh tế, chính trị, xã hội
là điều kiện hết sức quan trọng để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Các nhà đầu
tư nước ngoài sẽ rất hạn chế khi tham gia đầu tư vào những nước có môi trường
kinh tế vĩ mô kém ổn định vì khi đầu tư vào những nơi này sẽ tạo ra những rủi ro
kinh doanh mà các nhà đầu tư không thể lường trước được.
19
Vietluanvanonline.com
Vì vậy, môi trường kinh tế vĩ mô có tác động trực tiếp tạo điều kiện hoặc cản trở
việc thu hút vốn của các nhà đầu tư nước ngoài và muốn thu hút được vốn từ các nhà
đầu tư nước ngoài thì các nước phải ổn định được môi trường kinh tế vĩ mô trước.
- Hệ thống pháp luật của nước tiếp nhận vốn FDI: Hệ thống pháp luật của
nước sở tại bao gồm các luật liên quan đến hoạt động đầu tư như Luật Đầu tư, Luật
Doanh nghiệp, Luật Bảo vệ môi trường… và các văn bản hướng dẫn luật, các quy
định về hoạt động đầu tư đối với người nước ngoài, các văn bản về quản lý Nhà
nước trong hoạt động đầu tư… đây chính là hành lang pháp lý đảm bảo sự an tâm
cho các nhà đầu tư nước ngoài. Hệ thống pháp luật được xây dựng theo hướng
thông thoáng, đầy đủ chặt chẽ là cơ sở tạo môi trường đầu tư thuận lợi. Hoạt động
FDI liên quan đến nhiều chủ thể tham gia và có yếu tố nước ngoài vì vậy các văn
bản ngoài yếu tố đồng bộ, chặt chẽ, tránh chồng chéo gây khó hiểu, còn phải phù
hợp với thông lệ quốc tế. Các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào một nước nào
đó thì họ sẽ quan tâm đến cá nhân họ khi đầu tư được bảo vệ như thế nào, tài sản
của họ có được đảm bảo không, các quy định chuyển phần lợi nhuận về nước họ ra
làm sao… đây cũng chính là nhân tố ảnh hưởng đến các quyết định đầu tư của nhà
đầu tư nước ngoài. Mặt khác, hệ thống pháp luật không chỉ tạo điều kiện thuận lợi
cho các nhà đầu tư nước ngoài mà còn có chức năng ngăn cản những tác động tiêu
cực mà các nhà đầu tư cố tình vi phạm ảnh hưởng đến lợi ích cộng đồng, an ninh
quốc gia và tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng giữa các nhà đầu tư. Đồng thời với việc
xây dựng hệ thống pháp luật, phải xây hệ thống chính sách kinh tế liên quan đến
đầu tư nước ngoài thực sự mềm dẻo, hấp dẫn cũng là điều kiện quan trọng để thu
hút vốn FDI như:
* Nhân tố nội tại của địa phương tiếp nhận vốn FDI
- Sự phát triển cơ sở hạ tầng tại địa phương: Sự phát triển cơ sở hạ tầng là
một điều kiện vật chất hàng đầu để các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vốn FDI. Cơ
sở hạ tầng bao gồm mạng lưới giao thông, mạng lưới thông tin liên lạc, hệ thống
cung cấp năng lượng, cấp thoát nước, các công trình công cộng phục vụ sản xuất
kinh doanh như cảng biển, sân bay… cơ sở hạ tầng tốt là một trong các yếu tố quan
trọng giúp các nhà đầu tư nước ngoài giảm các chi phí gián tiếp trong sản xuất kinh
20
Vietluanvanonline.com
doanh và có thể triển khai các hoạt động đầu tư. Thực tế thu hút tại các địa phương
trong cả nước cho thấy các dòng vốn chỉ đổ vào nơi nào có hạ tầng phát triển, đủ
khả năng phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các nhà đầu tư. Mạng lưới
giao thông cũng đóng góp một phần quan trọng vào thu hút vốn FDI, là cơ sở để
vận chuyển vật liệu, đi tiêu thụ sản phẩm và quan trọng nhất là các đầu mối giao
thông tiếp giáp với thế giới như cảng biển, cảng hàng không… Các tuyến đường
giao thông trọng yếu cũng làm cầu nối sự giao lưu phát triển kinh tế giữa các địa
phương của một quốc gia. Một mạng lưới giao thông đa phương tiện và hiện đại sẽ
giúp các nhà đầu tư giảm được chi phí vận chuyển không cần thiết.
Hệ thống thông tin liên lạc là nhân tố quan trọng trong bối cảnh bùng nổ
thông tin như hiện nay, khi mà thông tin về tất cả các biến động trên thị trường ở
mọi nơi được truyền tải liên tục trên thế giới. Chậm trễ trong thông tin liên lạc sẽ
đánh mất cơ hội kinh doanh. Môi trường đầu tư hấp dẫn dưới con mắt của nhà đầu
tư đó phải có hệ thống thông tin liên lạc rộng lớn và cước phí rẻ. Ngoài ra, hệ thống
các ngành dịch vụ như: tài chính ngân hàng, bưu chính viễn thông, tư vấn hay cung
cấp năng lượng và nước sạch… đảm bảo cho việc sản xuất quy mô lớn và liên tục,
các dịch vụ này nếu không đáp ứng được nhu cầu sản xuất thì sẽ gây rất nhiều trở
ngại cho nhà đầu tư.
- Lợi thế so sánh của địa phương: Địa phương muốn phát triển kinh tế cần
có nhiều yếu tố và điều kiện khác nhau, ngoài các yếu tố về cơ sở hạ tầng được xây
dựng cần có thêm các điều kiện khác như: vị trí địa lý thuận lợi, địa chất nơi đó ổn
định, quy mô thị trường rộng lớn, nguồn nhân lực dồi dào, giá nhân công rẻ, nguồn
tài nguyên phong phú…
Với vị trí địa lý thuận lợi sẽ tạo ra khả năng phát triển du lịch, xuất khẩu, vận
chuyển khẩu hàng hóa qua các vùng, các khu vực trên thế giới. Những địa phương
biết phát huy lợi thế vị trí địa lý của từng vùng kinh tế của đất nước sẽ có cơ hội thu
hút được nhiều vốn FDI. Những địa phương biết phát huy lợi thế vị trí địa lý bằng
việc hiện đại hóa hệ thống cảng biển, miễn lệ phí cảng biển, cảng hàng không làm
giảm và tạo các tiện ích cho các nhà đầu tư sẽ tạo ra sức hấp dẫn tối đa vốn FDI.
21
Vietluanvanonline.com
Với tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng cho phép phát triển kinh tế
tại địa phương đó theo hướng đa ngành và tham gia tích cực vào phân công lao
động quốc gia và quốc tế. Địa phương có tài nguyên thiên nhiên phong phú, gần
nguồn nguyên liệu sẽ làm cho chi phí sản xuất trở nên rẻ hơn, thu hút được nhiều
nhà đầu tư nước ngoài hơn.
Nguồn lực dồi dào, giá nhân công rẻ là lợi thế so sánh của địa phương trong
hoạt động thu hút vốn FDI. Xu hướng đầu tư ngày nay của các nhà đầu tư nước
ngoài trong việc lựa chọn địa điểm đang chuyển từ việc xem xét gần thị trường tiêu
thụ sang ưu tiên tiêu chí trình độ, giá cả sức lao động của công nhân, trình độ ngoại
ngữ của dân bản địa bởi vì công nghệ thông tin phát triển sẽ giúp cho các nhà sản
xuất dễ dàng hơn trong việc tiếp cận các thị trường ở xa.
- Chất lượng nguồn nhân lực tại địa phương: Một trong những yếu tố xã hội
quan trọng của thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào địa phương là chất
lượng nguồn nhân lực và giá cả sức lao động. Đây là một trong những yếu tố rất cần
thiết để các nhà đầu tư lập kế hoạch kinh doanh. Một nhà đầu tư muốn mở một nhà
máy thì trên phương diện nguồn nhân lực nhà đầu tư sẽ chọn khu vực có thể đáp
ứng được cả về số lượng và chất lượng của lao động, ngoài ra giá cả sức lao động là
một trong những chỉ tiêu đánh giá của các nhà đầu tư. Chất lượng lao động là một
lợi thế cạnh tranh đối với các nhà đầu tư vào lĩnh vực có hàm lượng công nghệ cao
hay có sử dụng nhiều công nghệ hiện đại. Ngoài ra, yếu tố văn hoá cũng ảnh hưởng
tới yếu tố lao động như sự cần cù, tính kỷ luật, ý thức trong lao động…
Vì vậy, yếu tố lao động là một trong những điều kiện tác động tới các nhà đầu tư
nước ngoài khi tiến hành kinh doanh. Tuy nhiên, để có lực lượng lao động tốt thì lại
phụ thuộc vào hệ thống giáo dục, đào tạo, chất lượng đào tạo nghề…
- Thủ tục hành chính liên quan đến FDI tại địa phương: Thủ tục hành chính
là một yếu tố rất quan trọng góp phần tạo nên sự thành công của việc thu hút vốn
FDI. Thủ tục hành chính càng đơn giản, gọn nhẹ, rõ ràng thì sức hút của môi trường
đầu tư đối với các nhà đầu tư nước ngoài càng lớn. Thủ tục hành chính ảnh hưởng
đến tất cả các hoạt động đầu tư, nếu thủ tục hành chính không được quan tâm sát
sao dễ tạo ra hiện tượng nhũng nhiễu, tiêu cực từ đó làm tăng chi phí kinh doanh,
22
Vietluanvanonline.com
làm mất lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài quy trình thực hiện chung,
cách thực hiện tục hành chính của mỗi địa phương là khác nhau, vì vậy có những
nơi nhà đầu tư gặp rất nhiều khó khăn trong việc xin cấp giấy phép đầu tư, đăng ký
kinh doanh…. Sự đơn giản hóa các thủ tục hành chính sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
nhà đầu tư nước ngoài trong quá trình đăng ký, triển khai thực hiện dự án đầu tư
cũng như giảm các chi phí cả về vật chất và thời gian, tạo dựng được độ tin cậy của
các nhà đầu tư nước ngoài.
- Năng lực và tư tưởng nhận thức của lãnh đạo, hoạt động của cơ quan xúc
tiến tại địa phương: Tư tưởng nhận thức, thái độ của lãnh đạo các địa phương cũng
là yếu tố tác động mạnh đến thu hút vốn FDI vào địa phương đó. Nếu lãnh đạo của
địa phương thấy được vai trò của vốn FDI thì sẽ có những ưu tiên, tạo môi trường
điều kiện thuận lợi, chủ động trong việc tìm đối tác đầu tư nước ngoài phù hợp để
thu hút được các nguồn vốn FDI về với địa phương của mình. Hoạt động có hiệu
quả của các cơ quan xúc tiến đầu tư tại các địa phương cũng có vai trò hết sức quan
trọng và là một trong những nhân tố quan trọng để thu hút được vốn FDI.
* Nhân tố liên quan đến các nhà đầu tư nước ngoài
- Môi trường kinh tế thế giới: Do đặc tính của FDI là hết sức nhạy cảm với
các biến động của môi trường kinh tế quốc tế, đây là nhân tố khách quan tác động
đến các dòng vốn đầu tư nước ngoài vào các nước. Khi nền kinh tế thế giới có sự ổn
định sẽ tác động tích cực đến sự di chuyển các dòng vốn đầu tư nước ngoài, làm cho
quá trình thu hút đầu tư của các nước thuận lợi hơn rất nhiều, ngược lại khi môi
trường kinh tế thế giới không ổn định, tình trạng lạm phát cao, suy thoái kinh tế
diễn ra nhiều nơi thì sẽ rất khó khăn cho các nước tiếp nhận dòng vốn từ các nhà
đầu tư nước ngoài. Ở nước ta, dòng vốn FDI cũng biến động theo sự biến động của
môi trường kinh tế thế giới, như do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á năm
1997 nên dòng vốn FDI vào nước ta những năm sau đó giảm sút nhiều. Sau giai
đoạn đó, khi nền kinh tế thế giới có sự phục hồi, thì dòng vốn đầu tư vào nước
ngoài bắt đầu tăng nhanh cùng với sự phát triển của nền kinh tế thế giới.
- Hướng dịch chuyển của dòng vốn FDI quốc tế: Đây là nhân tố bên ngoài có
ý nghĩa quyết định đến khả năng thu hút vốn FDI của quốc gia nói chung và địa
23
Vietluanvanonline.com
phương nói riêng. Mức độ tăng, giảm của việc thu hút vốn FDI chịu sự chi phối của
xu hướng vận động của các dòng vốn FDI trên thế giới. Nếu quốc gia nằm trong khu vực
mà dòng vốn FDI đang hướng tới thì khả năng tiếp nhận vốn FDI của quốc gia hay địa
phương đó là thuận lợi và ngược lại khi các quốc gia nằm ngoài vùng dịch chuyển của
dòng vốn FDI thì sẽ rất khó cho các quốc gia thu hút được nguồn vốn này.
Đón bắt được xu hướng chuyển dịch vốn FDI trên thế giới là một yếu tố
quan trọng để chính quyền Trung ương và địa phương đưa ra các chính sách phù
hợp để tiếp nhận dòng vốn FDI chuyển về. Nằm trong vùng kinh tế phát triển năng
động của thế giới, trong những năm gần đây khu vực Đông Nam Á đã trở thành khu
vực hấp dẫn của các nhà đầu tư nước ngoài. Điều này là do so với các nước phát
triển thì khu vực này có mức độ cạnh tranh thấp hơn, hơn nữa giá nhân công của
khu vực này tương đối rẻ, môi trường đầu tư ngày càng được cải thiện. Là một quốc
gia nằm trong khu vực hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, nước ta có cơ hội đón
dòng chảy FDI đổ về nếu biết tận dụng lợi thế so sánh của mình và cải thiện tốt hơn
nữa về môi trường đầu tư. Khi vốn FDI vào quốc gia thì việc thu hút vốn FDI vào
vùng kinh tế nào đó của đất nước sẽ dễ dàng hơn bằng các chính sách thích hợp
riêng cho từng vùng.
- Chiến lược đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài: Các nước muốn thu hút
được vốn FDI thì ngoài yếu tố hoàn thiện về môi trường đầu tư, về các chính sách
đối ngoại, về hoạt động xúc tiến… còn phải quan tâm đến chiến lược của các nhà
đầu tư nước ngoài. Trên thế giới hiện nay bị chi phối nhiều bởi các nhà đầu tư lớn
đó chính là MNCs, TNCs và nhà đầu tư đến từ các nước phát triển như Nhật Bản,
Hàn Quốc, Mỹ… Những nhà đầu tư nước ngoài này có tiềm lực tài chính mạnh, có
nhiều kinh nghiệm trong đầu tư quốc tế, có uy tín trong kinh doanh…chiến lược
kinh doanh của họ có xu hướng đầu tư vào các ngành công nghệ cao, ngành chế tác,
sử dụng lao động có tay nghề và vào khu vực có nhiều triển vọng trong kinh doanh.
Cùng với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, các nước đang phát triển đã từng bước
giảm dần những hạn chế như nới lỏng các chính sách thương mại, chính sách tài
chính, tiền tệ làm cho các dòng vốn FDI vào các nước đang phát triển thuận lợi hơn.
Đặc biệt, nhiều nước phát triển chủ động làm giảm tính hấp dẫn đầu tư trong nước,
24
Vietluanvanonline.com
tạo ra yếu tố đẩy dòng vốn đầu tư ra nước ngoài. Chẳng hạn, từ thập kỷ 80 bên cạnh
giá lao động trong nước tăng nhanh, Mỹ đã thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt,
tăng lãi suất, còn Nhật Bản thì tăng thuế doanh thu đối với đầu tư trong nước nhưng
lại giảm thuế lợi tức cho các công ty đầu tư ra bên ngoài, nhất là các nước đang phát
triển. Một số nước thì tăng giá đồng nội tệ, thả nổi tỷ giá, thực hiện tự do hoá thị
trường vốn, ký hiệp định song phương và đa phương…chính sách nhập khẩu của
các nước phát triển giành cho các nước đầu tư phát triển cũng có lợi như nới lỏng
hạn ngạch, giảm thuế nhập khẩu hàng hoá…từ đó đã tạo cơ hội cho các nhà đầu tư
từ các nước phát triển đầu tư sang các nước đang phát triển sau đó lại xuất hàng hoá
trở lại tiêu thụ ở chính quốc để có lợi nhuận cao hơn so với sản xuất nội địa. Đối với
các nhà đầu tư đến từ khu vực nổi tiếng như Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan…
thì chủ yếu đầu tư vào lĩnh vực chế biến, lắp ráp, khai thác tài nguyên thì những quốc
gia hay địa phương có ưu thế về tài nguyên thiên nhiên, giá lao động rẻ sẽ có rất
nhiều cơ hội để thu hút các nhà đầu tư này. Tuy nhiên, với những ngành khai thác,
chế biến, lắp ráp… thì giá trị gia tăng mang lại cho nền kinh tế là thấp lại ảnh hưởng
nhiều đến môi trường và nhiều vấn đề an sinh xã hội khác không được đảm bảo.
- Tiềm lực tài chính, năng lực kinh doanh của nhà đầu tư nước ngoài:
+ Tiềm lực tài chính của các nhà đầu tư nước ngoài: Tiền lực tài chính của
các nhà đầu tư nước ngoài là một trong những yếu tố quyết định đến khả năng thực
hiện các hoạt động đầu tư của họ, với việc các quốc gia tạo ra nhiều điều kiện thuận
lợi và có nhiều cơ hội để kinh doanh nhưng nếu không có khả năng tài chính thì các
nhà đầu tư nước ngoài cũng không thể thực hiện đầu tư được. Đối với nước nhận
đầu tư, trước khi cấp phép đầu tư cũng phải thẩm định năng lực tài chính của nhà
đầu tư nhằm đảm bảo dự án được triển khai đúng như đăng ký, điều này giúp nước
sở tại hạn chế các nhà đầu tư nước ngoài đã xin được giấy phép đầu tư nhưng không
có vốn để triển khai các dự án, thậm chí rút vốn không triển khai được gây thiệt hại
kinh tế cho nước sở tại.
+ Năng lực kinh doanh của các nhà đầu tư nước ngoài: Lợi nhuận là mục tiêu
cuối cùng mà các nhà đầu tư nước ngoài muốn hướng tới, lợi nhuận từ việc đầu tư
lại phụ thuộc vào năng lực kinh doanh của chính nhà đầu tư. Mặc dù mọi hoạt động
25