ĐỀ ÁN
NÂNG CAO VĂN HÓA CHÍNH TRỊ ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
VÀ VIÊN CHỨC GIAI ĐOẠN 2017 - 2020
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề án
Hoạt động chính trị là hoạt đ ộng mang tính đ ặc thù và mang đ ậm
dấu ấn văn hóa của từng quốc gia. M ỗi dân t ộc, m ỗi vùng mi ền có l ịch
sử phát triển khác nhau nên bi ểu hi ện c ủa văn hóa chính tr ị là khác
nhau, sự khác nhau đó làm cho văn hóa chính tr ị có s ự đa d ạng và
phong phú riêng. Tuy nhiên s ự đa d ạng và phong phú c ủa văn hóa
chính trị không làm nên s ự khác bi ệt đ ể d ẫn đ ến s ự đ ối kháng, bài tr ừ
lẫn nhau mà sự khác nhau đó góp ph ần làm giàu văn hóa chính tr ị.
Khi nói đến chủ th ể của văn hóa chính tr ị c ần kh ẳng đ ịnh ch ắc
chắn rằng, con người là ch ủ th ể c ủa văn hóa chính tr ị. Các ho ạt đ ộng
của con người trong lĩnh v ực chính tr ị bi ểu hi ện ra bên ngoài là văn
hóa chính trị. Vì v ậy, nâng cao văn hóa chính tr ị tr ước h ết và c ơ b ản
nhất phải xuất phát t ừ nâng cao ph ẩm ch ất, năng l ực c ủa con ng ười
mà trước hết là đội ngũ cán bộ, công ch ức và viên ch ức nh ững ng ười
đóng vai trò rất quan tr ọng trong s ự phát tri ển c ủa văn hóa chính tr ị.
Huyện TT tỉnh là một huyện nằm trong tỉnh biên gi ới có vị trí chi ến
lược trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Vai trò c ủa huy ện TT
không chỉ là có chiến lược về quốc phòng, quân sự mà huyện còn có v ị trí
quan trọng trong các hoạt động chính trị. Với vị trí là m ột huy ện c ủa t ỉnh
có đường biên giới giáp với Campuchia lẽ dĩ nhiên vấn đề giao th ương
quốc tế cũng rất quan trọng, sự du nhập của các yếu tố nước ngoài vào
địa bàn huyện cũng rất thuận lợi. Với địa bàn có vị trí quan tr ọng nh ư
vậy đòi hỏi những người làm công tác lãnh đạo, quản lý, điều hành xã
hội là rất quan trọng. Vì vậy, việc nâng cao van hóa chính trị cho đội ngũ
cán bộ, công chức và viên chức ở huyện TT, tỉnh không ch ỉ là đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp chính trị mà nó còn góp phần nâng cao văn hóa
chính trị, làm giàu văn hóa chính trị Việt Nam. Với ý nghĩa đó tác gi ả chọn
viết đề án: “Nâng cao văn hóa chính trị đội ngũ cán bộ, công chức và viên
chức giai đoạn 2017-2020” làm đề án án tốt nghiệp cho chương trình cao
cấp lý luận chính trị niên khóa 2015-2016.
2. Mục tiêu của đề án
2.1. Mục tiêu chung
Trên cơ sở lý luận chung về văn hóa chính trị đề án nhận diện thực
trạng phát triển văn hoá chính trị của đội ngũ cán bộ, công ch ức và viên
chức ở huyện TT, tỉnh hiện nay, trên cơ sở đó đề ra một số giải pháp
nhằm nâng cao văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ, công ch ức và viên
chức ở huyện TT, tỉnh trong thời gian tới
2.2. Mục tiêu cụ thể
Để thực hiện mục tiêu chung nêu trên, đề án sẽ thực hiện các
nhiệm vụ cụ thể sau:
- Hệ thống hoá lý luận chung về văn hoá chính trị.
- Phân tích thực trạng văn hoá chính trị của đội ngũ cán bộ, công
chức và viên chức ở huyện TT, tỉnh hiện nay.
- Tìm hiểu những yêu cầu cơ bản đối với đội ngũ cán bộ, công ch ức
và viên chức ở huyện TT, tỉnh hiện nay.
- Xác định những phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao văn
hoá chính trị của đội ngũ cán bộ, công chức và viên ch ức t ại huy ện TT,
tỉnh giai đoạn 2017-2020.
3. Giới hạn của đề án
- Đối tượng của đề án: Văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ, công
chức và viên chức tại huyện TT, tỉnh .
- Không gian nghiên cứu: Huyện TT, tỉnh
- Thời gian nghiên cứu: Quý 1 năm 2016 đến quý 2 năm 2016
B. PHẦN NỘI DUNG CỦA ĐỀ ÁN
I. CƠ SỞ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
1. Cơ sở lý luận của đề án
1.1. Một số khái niệm chung
1.1.1. Khái niệm văn hóa
Văn hóa là khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều cách hiểu
khác nhau, liên quan đến mọi mặt đời sống vật ch ất và tinh th ần
của con người.
Từ tương ứng với văn hóa theo ngôn ngữ của phương Tây có nguồn
gốc từ các dạng của động từ Latin colere là colo, colui, cultus với hai
nghĩa: (1) giữ gìn, chăm sóc, tạo dựng trong trồng trọt; (2) cầu cúng.
Từ văn hóa trong tiếng Việt là từ gốc Nhật, người Nhật dùng từ này đ ể
định nghĩa cách gọi văn hóa theo phương tây.
Trong cuộc sống hàng ngày, văn hóa thường được hiểu là văn
học, nghệ thuật như thơ ca, mỹ thuật, sân khấu, điện ảnh... Các “Trung
tâm văn hóa” có ở khắp nơi chính là cách hiểu này. Một cách hiểu thông
thường khác: văn hóa là cách sống bao gồm phong cách ẩm thực, trang
phục, cư xử và cả đức tin, tri thức được tiếp nhận... Vì thế chúng ta nói
một người nào đó là văn hóa cao, có văn hóa hoặc văn hóa thấp, vô văn
hóa.
Trong nhân loại học và xã hội học, khái niệm văn hóa được đề cập
đến theo một nghĩa rộng nhất. Văn hóa bao gồm tất cả m ọi th ứ v ốn là
một bộ phận trong đời sống con người [3]. Văn hóa không chỉ là những gì
liên quan đến tinh thần mà bao gồm cả vật chất.
Văn hóa liên kết với sự tiến hóa sinh học của loài người và nó là sản
phẩm của người thông minh (Homo sapiens). Trong quá trình phát triển,
tác động sinh học hay bản năng dần dần giảm bớt khi loài người đạt
được trí thông minh để định dạng môi trường tự nhiên cho chính mình.
Đến lúc này, bản tính con người không không còn mang tính bản năng
mà là văn hóa. Khả năng sáng tạo của con người trong việc đ ịnh hình th ế
giới hơn hẳn bất kỳ loài động vật nào khác và chỉ có con người dựa vào
văn hóa hơn là bản năng để đảm bảo cho s ự sống còn c ủa
chủng loài mình. Con người có khả năng hình thành văn hóa và với tư
cách là thành viên của một xã hội, con người tiếp thu văn hóa, bảo tồn
nó đồng thời truyền đạt nó từ thế hệ này sang thế hệ khác. Việc cùng có
chung một văn hóa giúp xác định nhóm người hay xã hội mà các cá th ể là
thành viên.
Văn hóa là bao gồm tất cả những sản phẩm của con người, và nh ư
vậy, văn hóa bao gồm cả hai khía cạnh: khía cạnh phi vật ch ất c ủa xã h ội
như ngôn ngữ, tư tưởng, giá trị và các khía cạnh vật ch ất nh ư nhà c ửa,
quần áo, các phương tiện,... Cả hai khía cạnh cần thiết đ ể làm ra s ản
phẩm và đó là một phần của văn hóa.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa, mỗi định nghĩa ph ản ánh
một cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau. Ngay từ năm 1952, hai
nhà nhân loại học Mỹ là Alfred Kroebervà Clyde Kluckhohn đã từng
thống kê có tới 164 định nghĩa khác nhau về văn hóa trong các công trình
nổi tiếng thế giới. Văn hóa được đề cập đến trong nhiều lĩnh v ực nghiên
cứu như dân tộc học, nhân loại học (theo cách gọi của Mỹ hoặc dân tộc
học hiện đại theo cách gọi của châu Âu), dân gian học, địa văn hóa
học, văn hóa học, xã hội học,... và trong mỗi lĩnh vực nghiên cứu đó định
nghĩa về văn hóa cũng khác nhau. Các định nghĩa về văn hóa nhi ều và
cách tiếp cận khác nhau đến nỗi ngay cả cách phân loại các đ ịnh nghĩa
về văn hóa cũng có nhiều. Một trong những cách đó phân lo ại các đ ịnh
nghĩa về văn hóa thành những dạng chủ yếu sau đây:
Về mặt thuật ngữ khoa học: Văn hóa được bắt nguồn từ
chữ Latinh “Cultus” mà nghĩa gốc là gieo trồng, được dùng theo
nghĩa Cultus Agri là “Gieo trồng ruộng đất” và Cultus Animi là “Gieo trồng
tinh thần” tức là “Sự giáo dục bồi dưỡng tâm hồn con người ”. Theo
nhà triết học Anh Thomas Hobbes (1588-1679): “Lao động dành cho đất
gọi là sự gieo trồng và sự dạy dỗ trẻ em gọi là gieo trồng tinh thần ”.
Các định nghĩa miêu tả: Định nghĩa văn hóa theo những gì mà văn
hóa bao hàm, chẳng hạn nhà nhân loại học người Anh Edward Burnett
Tylor (1832 - 1917) đã định nghĩa văn hóa như sau: văn hóa hay văn
minh hiểu theo nghĩa rộng trong dân tộc học là một tổng thể phức hợp
gồm kiến thức, đức tin, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục và bất
cứ những khả năng, tập quán nào mà con người thu nhận được với tư
cách là một thành viên của xã hội.
Các định nghĩa lịch sử: Nhấn mạnh các quá trình kế thừa xã hội,
truyền thống dựa trên quan điểm về tính ổn định của văn hóa. Một
trong những định nghĩa đó là của Edward Sapir (1884 - 1939), nhà nhân
loại học, ngôn ngữ học người Mỹ: văn hóa chính là bản thân con người,
cho dù là những người hoang dã nhất sống trong một xã hội tiêu biểu cho
một hệ thống phức hợp của tập quán, cách ứng xử và quan đi ểm đ ược
bảo tồn theo truyền thống.
Các định nghĩa chuẩn mực: Nhấn mạnh đến các quan niệm về giá
trị, chẳng hạn William Isaac Thomas (1863 - 1947), nhà xã hội
học người Mỹ coi văn hóa là các giá trị vật chất và xã hội của bất kỳ
nhóm người nào (các thiết chế, tập tục, phản ứng cư xử,...) .
Các định nghĩa tâm lý học: Nhấn mạnh vào quá trình thích nghi
với môi trường, quá trình học hỏi, hình thành thói quen, lối ứng x ử c ủa
con người. Một trong những cách định nghĩa như vậy của William
Graham Sumner (1840 - 1910), viện sỹ Mỹ, giáo sư Đại học
Yale và Albert Galloway Keller, học trò và cộng sự của ông là: Tổng thể
những thích nghi của con người với các điều kiện sinh sống của họ chính
là văn hóa, hay văn minh... Những sự thích nghi này được b ảo đ ảm b ằng
con đường kết hợp những thủ thuật như biến đổi, chọn lọc và truyền đạt
bằng kế thừa.
Các định nghĩa cấu trúc: Chú trọng khía cạnh tổ chức cấu trúc của
văn hóa, ví dụ Ralph Linton (1893 - 1953), nhà nhân loại học người Mỹ
định nghĩa: Văn hóa suy cho cùng là các phản ứng lặp lại ít nhi ều có t ổ
chức của các thành viên xã hội; Văn hóa là sự kết hợp giữa lối ứng xử mà
các thành tố của nó được các thành viên của xã hội đó tán thành và
truyền lại nhờ kế thừa.
Các định nghĩa nguồn gốc : Định nghĩa văn hóa từ góc độ nguồn gốc
của nó, ví dụ định nghĩa của Pitirim Alexandrovich Sorokin (1889 1968), nhà xã hội học người Mỹ gốc Nga, người sáng lập khoa Xã h ội h ọc
của Đại học Harvard: Với nghĩa rộng nhất, văn hóa chỉ tổng thể những gì
được tạo ra, hay được cải biến bởi hoạt động có ý thức hay vô thức của
hai hay nhiều cá nhân tương tác với nhau và tác động đến lối ứng xử của
nhau. [11]
Năm 2002, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: Văn
hóa nên được đề cập đến như là một tập hợp của những đ ặc tr ưng
về tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm
người trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách
sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thốngvà đức tin.
Theo Đại từ điển tiếng Việt của Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa
Việt Nam - Bộ Giáo dục và đào tạo, do Nguyễn Nh ư Ý chủ biên, Nhà xuất
bản Văn hóa - Thông tin, xuất bản năm 1998, thì: “ Văn hóa là những giá
trị vật chất, tinh thần do con người sáng tạo ra trong lịch sử”.
Trong Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, do Nhà xuất bản
Đà Nẵng và Trung tâm Từ điển học xuất bản năm 2004 thì đ ưa ra m ột
loạt quan niệm về văn hóa: Văn hóa là tổng th ể nói chung nh ững giá tr ị
vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình l ịch s ử.
Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh th ần do con
người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động th ực tiễn, trong s ự
tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên xã hội.
Trong cuốn Xã hội học Văn hóa của Đoàn Văn Chúc, Viện Văn hóa và
Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin, xuất bản năm 1997, tác gi ả cho r ằng:
Văn hóa - vô sở bất tại: Văn hóa - không n ơi nào không có! Đi ều này cho
thấy tất cả những sáng tạo của con người trên nền của thế giới tự nhiên
là văn hóa; nơi nào có con người nơi đó có văn hóa.
Trong cuốn Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, PGS.TSKH Trần Ngọc
Thêm cho rằng: Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá tr ị vật ch ất và
tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình ho ạt đ ộng th ực
tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã
hội của mình.
Theo tổ chức giáo dục và khoa học của Liên Hiệp Quốc UNESCO:
Văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác v ới dân t ộc
kia.
Như vậy, có thể thấy rằng: Văn hóa là tất cả những giá trị v ật th ể
do con người sáng tạo ra trên nền của thế giới tự nhiên.
Ngoài ra còn nhiều cách tiếp cận khác và nhiều cách hiểu về văn
hóa khác, điển hình có các quan niệm sau:
- Văn hóa là những hoạt động của con người nh ằm th ỏa mãn nhu
cầu đời sống tinh thần (nói tổng quát).
- Văn hóa là tri thức, kiến thức khoa học (nói khái quát).
- Văn hóa là trình độ cao trong sinh hoạt xã h ội, bi ểu hiện c ủa văn
minh.
- Văn hóa còn là cụm từ để chỉ một nền văn hóa của một th ời kỳ l ịch
sử cổ xưa, được xác định trên cơ sở một tổng thể những di vật có những
đặc điểm giống nhau, ví dụ Văn hóa Hòa Bình, Văn hóa Đông Sơn, văn
hóa ốc eo…
Tóm lại, Văn hóa là những giá trị vật chất, tinh thần do con người
sáng tạo ra trong quá trình lịch sử.
1.1.2. Khái niệm chính trị
Chính trị theo nghĩa rộng là hoạt động của con người nh ằm làm ra,
gìn giữ và điều chỉnh những luật lệ chung mà nh ững luật lệ này tác đ ộng
trực tiếp lên cuộc sống của những người góp phần làm ra, gìn gi ữ và
điều chỉnh những luật lệ chung đó. Với cách hiểu nh ư th ế này thì dù
trong xã hội cộng sản, chính trị vẫn còn tồn tại và vẫn giữ vai trò hết sức
quan trọng đối với từng con người cũng như toàn xã hội. Trong bất kỳ xã
hội nào thì cũng cần những luật lệ chung để hoạt động nh ịp nhàng và
khoa học, tránh tình trạng vô tình hay cố ý xâm phạm quy ền l ợi, l ợi ích,
tài sản, sức khỏe hay thậm chí tính mạng của người khác hay của cộng
đồng. Một ví dụ đơn giản, xã hội dù có phát triển đến đâu thì cũng c ần
có luật giao thông để con người có thể lưu thông một cách trật t ự và
hiệu quả. Hay, con người không thể sống trong một xã hội mà tình tr ạng
an ninh không đảm bảo (cướp bóc, khủng bố chẳng hạn) do thi ếu lu ật
lệ. Mặc dù phần lớn xã hội hiện nay trên thế giới không tránh kh ỏi các
hiện tượng cướp bóc và khủng bố nhưng phải thừa nhận rằng pháp luật
đã góp phần ngăn chặn đáng kể những hành vi bất lương đó.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê Nin thì chính trị là tất cả
những hoạt động, những vấn đề gắn với quan hệ giai cấp, dân tộc, quốc
gia và các nhóm xã hội xoay quanh một vấn đề trung tâm đó là vấn đề
giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước. Từ đó các ông đi đến định
nghĩa: Chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp, các tập đoàn ng ười
trong việc giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị.
1.1.3. Khái niệm văn hóa chính trị
Văn hóa chính trị là khái niệm phái sinh từ văn hóa, nó là một bộ phận,
một phương diện của văn hóa trong xã hội có giai cấp, nhưng điều đó không
có nghĩa Văn hóa chính trị là phép cộng giản đơn giữa văn hóa với chính trị,
mà đó là sự thẩm thấu, xâm nhập vào nhau, chuyển hóa lẫn nhau giữa văn
hóa với chính trị, chính trị với văn hóa.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về văn hóa chính trị, mà điển hình có
một số cách hiểu sau đây:
- Hai nhà chính trị học Mỹ H.Almond và H.Paul đã đưa ra định nghĩa
văn hóa chính trị cho đến nay vẫn được nhiều người đồng tình: “Văn hoá
chính trị là tập hợp các lập trường và các xu hướng cá nhân của những
người tham gia trong một hệ thống nào đó, là lĩnh vực chủ quan làm cơ sở
cho hành động chính trị và làm cho hoạt động chính trị có ý nghĩa. Những
định hướng cá nhân bao gồm một số thành tố; cụ thể là:
+ Định hướng nhận thức: Là hiểu biết đúng sai về các khách thể và các
tư tưởng chính trị. Những hiểu biết này có thể là hiểu biết trực quan về
chính trị, cũng có thể là tư duy chính trị đã được khoa học hóa.
+ Định hướng tình cảm: Đó là cảm giác về những mối liên hệ, s ự lôi
cuốn, về mâu thuẫn... với các khách thể chính trị nào đó.
+ Định hướng đánh giá: Là ý kiến, nhận xét về các khách th ể trên c ơ
sở căn cứ vào những hệ thống giá trị và tiêu chuẩn để đánh giá” 1.
- Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin tuy chưa đưa ra khái niệm Văn hóa chính
trị nhưng trong hệ thống học thuyết của các ông đều toát lên những tư
tưởng, quan điểm cơ bản về Văn hóa chính trị trên mọi khía cạnh đời sống
chính trị của giai cấp vô sản và nhân dân lao động như: vấn đề đấu tranh
giành quyền lực, vấn đề cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới; vấn đề xây
dựng con người xã hội chủ nghĩa; vấn đề dân chủ xã hội chủ nghĩa...
- Theo từ điển chính trị rút gọn của Liên Xô (tr ước đây) các tác gi ả
cho rằng: “Văn hoá chính trị là trình độ và tính chất của những hiểu biết
chính trị, những nhận định, những hành vi của công dân, cũng nh ư nội
dung, chất lượng của những giá trị xã hội, những chuẩn mực xã hội và sự
hoàn thiện của hệ thống tổ chức quyền lực, phù hợp với sự phát triển và
tiến bộ xã hội, góp phần điều chỉnh hành vi và quan hệ xã hội” 2.
- Hồ Chí Minh quan tâm giáo dục các mục tiêu của Văn hóa chính trị
theo cả mô thức dân tộc - khoa học - đại chúng trong giai đo ạn cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đồng thời Người xác lập quan hệ văn
hoá - chính trị trên nền tảng dân tộc với nội dung ch ủ nghĩa xã h ội trong
giai đoạn cách mạng chủ nghĩa xã hội Văn hóa chính trị được tạo lập
1 Tập thể tác giả, chính trị học đại cương, NXB TP Hồ Chí Minh, 1999 , Tr.216
2 Phân viện báo chí và tuyên truyền, chính trị học đại cương, NXBCTQG, Tr. 288
trong các quan hệ chính trị mới, mà trong những quan hệ đó đánh d ấu
sự trưởng thành về nhân cách chính trị của nhân dân, làm gia tăng các
khả năng sáng tạo của quần chúng nhân dân.
Quan điểm nổi bật nhất và đặc sắc nhất trong tư tưởng Văn hóa
chính trị của Hồ Chí Minh là xã hội mới phải có con người m ới đại diện
cho nó: “Muốn xã hội chủ nghĩa, phải có: người xã hội ch ủ nghĩa. Mu ốn
có người xã hôi chủ nghĩa, phải có t ư tưởng xã h ội ch ủ nghĩa” 3. Đối với
Hồ Chí Minh, xây dựng thành công con người mới xã hội ch ủ nghĩa là xác
lập cơ sở bền vững của Văn hóa chính trị mới.
Trên cơ sở quan điểm mang tính định hướng của tư tưởng Hồ Chí
Minh, các nhà nghiên cứu lý luận Việt Nam đã đưa ra nhiều cách diễn đạt
về khái niệm van hóa chính trị.
- PGS.TS Hoàng Chí Bảo quan niệm: “Văn hóa chính trị là chất lượng
tổng hòa của tri thức, tình cảm, niềm tin chính trị, tạo thành ý thức chính trị
công dân, thúc đẩy họ tới những hành động chính trị tích cực phù hợp với lý
tưởng chính trị của xã hội, là thói quen và nhu cầu tham gia một cách tự
giác chủ động vào các quan hệ chính trị xã hội, trở thành giá trị xã hội của
công dân, góp phần hướng dẫn họ trong cuộc đấu tranh vì lợi ích chung của
xã hội vì tiến bộ và phát triển”4.
Khoa chính trị học Học viện Báo chí tuyên truyền - Hà Nội định nghĩa:
“Văn hoá chính trị là một lĩnh vực biểu hiện đặc biệt của văn hóa của loài
người trong xã hội có giai cấp được hiểu là trình độ phát triển của con
người được thể hiện ở trình độ hiểu biết về chính trị, trình độ tổ chức hệ
thống quyền lực theo một chuẩn giá trị xã hội nhất định nhằm điều hòa các
quan hệ lợi ích của giai cấp cầm quyền, phù hợp với xu thế phát triển và
3 Tập thể tác giả, chủ nghĩa Mac-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chính trị, NXBCTQG, Tr. 228
4 Viện Mac-Lênin, “một số vấn đề về khoa học chính trị”, Hà Nội 4/1994
tiến bộ xã hội”5.
Từ cách tiếp cận xem chính trị là lĩnh vực hoạt động gắn liền v ới
những quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, các tập đoàn xã h ội khác
nhau mà hạt nhân là vấn đề giành, giữ và th ực thi quy ền l ực nhà n ước,
sự tham gia vào công việc nhà nước, sự qui định các hình th ức, nhiệm vụ,
nội dung hoạt động của nhà nước được xem như là cái quan trọng nhất
của chính trị, các nhà khoa học của Viện Khoa học chính trị đã xem xét
Văn hóa chính trị từ góc độ rộng hơn của khoa học chính trị, “Văn hoá
chính trị là một phương diện của văn hóa trong xã hội có giai cấp, nói lên
tri thức, năng lực sáng tạo trong hoạt động chính trị dựa trên nhận thức
sâu sắc các quan hệ chính trị hiện thực cùng những thiết chế chính trị tiến
bộ được lập ra để thực hiện lợi ích chính trị cơ bản của giai cấp hay của
nhân dân, phù hợp với sự phát triển của lịch sử. VHCT nói lên phẩm chất và
hình thức hoạt động chính trị của con người cùng những thiết chế chính trị
mà họ lập ra để thực hiện lợi ích giai cấp cơ bản của chủ thể tương ứng”6.
Từ những phân tích trên có thể đưa định định nghĩa Văn hóa chính trị
như sau: “Văn hoá chính trị là tổng hợp những giá trị vật chất và tinh
thần được hình thành trong thực tiễn chính trị, nó góp phần chi phối hoạt
động của các cá nhân, các nhà chính trị, góp phần định h ướng ho ạt đ ộng
của họ trong việc tham gia vào đời sống chính trị để phục vụ lợi ích căn
bản của một giai cấp nhất định. Rộng hơn, nó là một trong nh ững c ơ s ở
định hình và định hướng cho các phong trào chính trị, cho từng n ền chính
trị khác nhau trong lịch sử chính trị”7.
5 Phân viện báo chí và tuyên truyền, “chính trị học đại cương”, NXBCTQG, Tr.229
6 Viện Khoa học chính trị, học viện CTQG Hồ Chí Minh, Tập bài giảng chính trị học, NXBCTQG,
H.1999, Tr.279
7 Viện Khoa học chính trị, học viện CTQG Hồ Chí Minh, Tập bài giảng chính trị học, NXBCTQG,
H.1999, Tr.279
1.2. Cấu trúc của văn hóa chính trị
1.2.1. Tri thức và sự hiểu biết chính trị
Tri thức chính trị là nền tảng của văn hoá chính trị, được định lượng
một cách phổ biến bởi tri thức chính trị. Tri thức chính trị là trình độ học
vấn và sự hiểu biết của con người về chính trị. Văn hoá chính trị luôn cần
và cần phải có học vấn chính trị. Tuy học vấn và văn hóa là hai khái niệm
không đồng nhất với nhau nhưng chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Trình độ học vấn giúp cho các chủ thể hiểu biết và nhận thức rõ hơn về
các giá trị văn hóa, từ đó xác định các nguyên tắc, lý tưởng sống cho bản
thân mình, lúc đó trình độ học vấn đã trở thành một khía cạnh của nhân
cách văn hóa. Ngược lại, văn hóa lại khẳng định những giá trị xã hội của
học vấn, chủ thể nào có trình độ học vấn mà không cống hiến cho xã hội,
thậm chí phá hoại xã hội thì học vấn đó đứng ngoài văn hóa. Có trình độ
học vấn, quần chúng nhân dân tự giác và nâng cao ý thức trách nhiệm,
tham gia tích cực và có hiệu quả trong thực hiện đường lối, chủ trương,
chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.
Sự hình thành của văn hóa chính trị trước hết xuất phát từ trình độ học
vấn của con người. Nói về vai trò của học vấn đối với chính trị, V.I. Lênin có
một nhận xét nổi tiếng: “Người không biết chữ là người đứng ngoài chính
trị”. Chính trị là trí tuệ, không có tri thức chính trị khó có thể đạt tới trình độ
tự giác, tích cực. Những biểu hiện phiêu lưu, manh động, tính tự phát vô
chính phủ trong các hành vi chính trị phần lớn đều xuất phát từ việc thiếu
hiểu biết, thiếu sự dẫn dắt của lý trí sáng suốt, tỉnh táo tức là thiếu lý luận
khoa học; “Thực tiễn không có lý luận dẫn đường là thực tiễn mù quáng”.
Kinh nghiệm hoạt động chính trị thực tiễn cho thấy, nhiệt tình không dựa
trên cơ sở hiểu biết nhiều khi dẫn tới hành vi phá hoại, cản trở xu thế phát
triển nói chung.
Sự hiểu biết chính trị không chỉ biểu hiện ở trình độ học vấn chính trị
mà còn ở trình độ kinh nghiệm, sự khôn ngoan, sự từng trải, sự nhạy bén,
mẫn cảm... về chính trị được tích lũy qua thực tiễn chính trị của chủ thể. Ở
đó trình độ học vấn được thẩm thấu vào hành vi nhận thức, suy nghĩ, tình
cảm của con người, trở thành những giá trị ứng xử của con người dưới
dạng nguyên tắc sống hướng tới chân, thiện, mỹ, giúp chủ thể khắc phục
căn bệnh chủ quan, duy ý chí.
Về lý thuyết, giữa học vấn chính trị và kinh nghiệm chính trị thì học
vấn chính trị có vị trí chi phối, nhưng trong thực tiễn khó khẳng định
được cái nào quan trọng hơn cái nào. Do vậy, tri thức chính trị và sự hiểu
biết chính trị với tư cách là nhân tố cấu thành văn hoá chính trị phải là sự
thống nhất giữa tri thức lý luận và tri thức kinh nghiệm, trong đó tri thức
lý luận càng đạt tới tính khách quan, khoa học bao nhiêu càng có vai trò to
lớn, mở đường cho hành động đúng bấy nhiêu; nó giúp cho các chủ thể
nhận thức rõ bản chất các quá trình chính trị, các qui luật chính trị, các lợi
ích chính trị. Tri thức kinh nghiệm sẽ là những giá trị tăng thêm sức mạnh
cho tri thức lý luận, nhưng nó chỉ trở thành giá trị văn hoá chính trị khi nó
kết hợp với tri thức, lý tưởng và niềm tin chính trị. Tuyệt đối hóa kinh
nghiệm là sai lầm, “Bệnh kinh nghiệm” sẽ trói cột con người, không dám
thừa nhận cái mới, áp dụng kinh nghiệm một cách máy móc, chủ quan
trong giải quyết các vấn đề chính trị. Văn hoá chính trị sẽ là “Vòng kim cô”
tốt nhất để điều khiển và phát huy tốt những giá trị quí báu của kinh
nghiệm chính trị. Vì vậy, tuyệt đối hóa hoặc phủ nhận vai trò của yếu tố
nào cũng đều hạ thấp giá trị và trình độ văn hoá chính trị. Nếu văn hóa là
thước đo trình độ hiểu biết thì văn hoá chính trị phải được xem là trình
độ giác ngộ khoa học về chính trị. Sự hiểu biết đúng đắn, khoa học về
chính trị cùng với sự hỗ trợ quan trọng của kinh nghiệm chính trị, kinh
nghiệm sống của các chủ thể chính trị giúp họ nâng cao tính tự giác trong
hoạt động thực tiễn.
Trong đời sống chính trị hiện đại, sự đa dạng, phức tạp về chủ thể
chính trị, sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ và trình độ dân
trí ngày càng cao, nền kinh tế phát triển theo xu hướng xã hội hóa và toàn
cầu hóa, cùng với sự phát triển của nhân loại lấy mục đích nhân đạo, nhân
văn, dân chủ làm định hướng lý tưởng mà nội dung cơ bản là giải phóng
mọi năng lực sáng tạo của con người ở cấp độ cá nhân lẫn xã hội đã tạo ra
những phương thức, những công cụ để giành, giữ và thực thi quyền lực
chính trị phong phú hơn, trí tuệ hơn và nhân đạo hơn. Do vậy, làm chính trị
và hoạt động chính trị hiện đại không thể chỉ là bạo lực, không thể chỉ
bằng khát vọng mãnh liệt và sự quyết đoán mà còn phải có sự hiểu biết
sâu sắc về chính trị, nhất là về quyền lực chính trị. Trên cơ sở đó xác định
bản lĩnh chính trị vững vàng, có cơ sở khoa học, tự tin trong mọi quyết định
chính trị, nhạy bén, sáng suốt, tinh tế trước các tình huống phức tạp của
hoạt động chính trị thực tiễn. Đó là đòi hỏi cần thiết đối với mọi chủ thể
trong hoạt động chính trị hiện đại. “Thái độ thành thực về chính trị là kết
quả của sức mạnh, thái độ giả dối về chính trị là kết quả của sự hèn yếu”.
Với ý nghĩa đó, văn hoá chính trị là tổng hợp các giá trị như: tri thức, kinh
nghiệm hoạt động thực tiễn, tình cảm, niềm tin chính trị... được hình thành
trong thực tiễn chính trị, tạo thành ý thức chính trị của các chủ thể, chi
phối hành vi của các chủ thể trong quá trình hiện thực hóa lợi ích chính trị
căn bản của giai cấp mình, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử, của
tiến bộ xã hội.
1.2.2. Niềm tin và tình cảm chính trị
Niềm tin và tình cảm chính trị được hình thành bằng những con
đường khác nhau, ở mỗi đối tượng cụ thể trong một không gian và thời
gian chính trị nhất định. Niềm tin và tình cảm chính trị là sự bộc lộ những
phẩm chất, sắc thái cá nhân đối với lý tưởng, chế độ chính trị, nhà nước,
chính đảng, đối với các cơ quan lãnh đạo, các nhà lãnh đạo... Nếu là kết quả
của nhận thức đúng đắn, sâu sắc về lý tưởng chính trị đã lựa chọn, không
chịu bất cứ sự áp đặt, cưỡng bức nào thì niềm tin chính trị sẽ mang tính ổn
định và bền vững, cả khi đời sống chính trị thuận lợi, cả trong những lúc
biến động nhiều trắc trở, khó khăn.
Thực tiễn cách mạng nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
Việt Nam là ví dụ sinh động về điều này. Với niềm tin trên cơ sở khoa học
và cách mạng, nhiều cán bộ cách mạng và quần chúng nhân dân đã nêu cao
chủ nghĩa anh hùng cách mạng thể hiện rõ nét tính cách anh dũng, kiên
cường, bất khuất... trong chiến đấu, lao động, học tập, trong những tình
huống nguy hiểm, thậm chí “Ngàn cân treo sợi tóc”, đe dọa tính mạng; trong
những lúc khủng hoảng, khó khăn nhất... nhưng vẫn giữ niềm tin vào lý
tưởng cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân đã lựa chọn - độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội. Nhưng ngược lại, niềm tin chính trị dựa trên nhận
thức cảm tính, giản đơn dễ bi quan dao động, thậm chí phản bội lại lý
tưởng chính trị khi tình thế chính trị khó khăn, phức tạp. Cuộc khủng
hoảng và sụp đổ của Đông Âu và Liên Xô đã minh chứng điều đó, sự thật là
“mất niềm tin thì mất tất cả”.
Niềm tin chính là biểu hiện của sự ổn định chính trị. Nhưng trong
thực tế không có sự ổn định chính trị tuyệt đối, vì chính trị là cuộc đấu
tranh cho những lợi ích khác nhau, là sự phản ánh một cơ cấu lợi ích không
thuần nhất, thậm chí đối kháng. Vì vậy, trong sự ổn định không thể tránh
khỏi những mâu thuẫn, bất đồng, thậm chí xung đột ở nơi nào đó, lúc nào
đó. Để giữ vững ổn định chính trị cần phải giải quyết thỏa đáng những mối
quan hệ lợi ích, điều chỉnh các quan hệ lợi ích trong giới hạn nhất định,
nếu vượt quá chính trị sẽ “Đổi màu”. Nói cách khác, ổn định chính trị nào
cũng có cái bất biến và cái khả biến. Đối với sự ổn định chính trị của nước
ta, cái bất biến là giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động làm
chủ xã hội, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Sự ổn định chính trị nào suy
cho cùng đều là sự ổn định của cơ cấu nhà nước và do uy tín của nhà nước
quyết định, vì cái căn bản của chính trị là vấn đề chính quyền. Niềm tin vào
chế độ của nhân dân là chỗ dựa vững chắc nhất cho sự ổn định chính trị.
Nhưng để có được niềm tin đó, thì nhà nước phải tạo ra những thay đổi,
phát triển trên mọi phương diện của đời sống xã hội, đó là tiêu chuẩn thực
tiễn của chân lý - cái tạo cơ sở vững chắc nhất cho niềm tin.
Từ những phân tích trên chúng ta thấy, muốn xây dựng văn hoá
chính trị tiến tiến, cách mạng, văn hoá chính trị xã hội chủ nghĩa thì phải
xây dựng được niềm tin trên cơ sở khoa học, chính nghĩa, tiến bộ, phù
hợp với xu thế phát triển của nhân loại. Chính vì v ậy, vi ệc nâng cao trình
độ học vấn, đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, t ư t ưởng cho các ch ủ
thể chín trị, đặc biệt là cho quần chúng nhân dân; nâng cao đời sống v ật
chất và tinh thần cho quần chúng; cán bộ thật sự là nh ững tấm g ương
sáng vì nhân dân...
1.2.3. Các truyền thống chính trị
Bất kỳ quốc gia nào cũng có truyền thống lịch sử của mình, các truyền
thống đó làm phong phú cho văn hóa chính trị. Cơ sở lịch sử xã hội của văn
hoá chính trị được hình thành từ những nhân tố như: truyền thống, các giá
trị chính trị đã được các thế hệ trước tạo ra trong quá trình lịch sử, địa
chính trị, đạo đức, thẩm mỹ, tôn giáo... Tất cả những nhân tố này bổ sung
cho nhau, quan hệ với nhau một cách biện chứng, hỗ trợ cho việc hình
thành văn hoá chính trị của một dân tộc, một quốc gia.
Đối với mỗi quốc gia, mỗi dân tộc trong lịch sử hình thành và phát
triển đều tạo nên những giá trị nhất định được cả cộng đồng thừa nhận.
Văn hoá chính trị trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định bao giờ cũng
là sự kế thừa và phát triển những giá trị chính trị truyền thống phù hợp với
yêu cầu, điều kiện cụ thể. Các giá trị văn hoá chính trị truyền thống không
chỉ là những “Chất liệu” tạo nên văn hoá chính trị mà còn tạo nên bản sắc
dân tộc cho văn hoá chính trị. Bản sắc văn hóa dân tộc bao giờ cũng gắn
liền với ý thức tự khẳng định mình của mỗi dân tộc, coi đó là niềm tin
truyền thống và tâm hồn dân tộc. Vì vậy, truyền thống là nhân tố không
thể thiếu trong hệ giá trị văn hoá của dân tộc. Tính dân tộc được thể hiện
qua ý thức dân tộc, nó là cái cốt lõi để giữ gìn bản sắc dân tộc. Giá trị
truyền thống của dân tộc ta trong hàng ngàn năm văn hiến đã tạo thành
nền tảng tinh thần xã hội, tạo thành sức sống, sức sáng tạo và bản lĩnh dân
tộc Việt Nam.
Vì vậy, ở Việt Nam việc giữ gìn và phát huy những giá trị chính tr ị
truyền thống có ý nghĩa rất quan trọng, góp phần tạo dựng nhân cách
con người Việt Nam mới.
1.2.4. Lý tưởng chính trị
Lý tưởng chính trị là những mục tiêu cao đẹp mà con người hướng
đến trong các hoạt động chính trị của mình. Những lý tưởng chính trị cao
đẹp vừa đóng vai trò là động lực kích thích họat động chính trị vừa đóng vai
trò là xung lực nội tại để hoàn thiện tư chất của chủ thể chính trị vươn tới
những giá trị chân, thiện, mỹ trong hoạt động chính trị. Lý tưởng chính trị
phụ thuộc phần lớn vào trí tuệ và đạo đức của chủ th ể. Lý t ưởng chính
trị cao cả, tột bậc của Chủ tịch Hồ Chí Minh “ Là làm sao cho nước ta
được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có
cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành ”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn
thể cán bộ, đảng viện và quần chúng nhân dân đang phấn đ ấu th ực hiện
lý tưởng “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Để thực hiện lý tưởng chính trị của mình, chủ thể chính trị phải
biết lựa chọn những phương thức, phương tiện hoạt động chính trị phù
hợp. Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa nhằm thực hiện m ục tiêu, lý
tưởng giải phóng triệt để con người thì những phương tiện mà ch ủ th ể
sử dụng phải đáp ứng được những nhu cầu, khát vọng giải phóng đó. S ự
nhạy bén, tính sáng tạo trong việc hoạch định những chính sách chính tr ị
đúng đắn để thực hiện lý tưởng chính trị đã xác định là một nhân tố hết
sức quan trọng trong văn hóa cầm quyền của Đảng ta, mà năng l ực đó
không chỉ phụ thuộc vào đội ngũ cán bộ mà còn phụ thuộc vào tính tích
cực tự giác trong phát huy quyền làm chủ của quần chúng nhân dân.
Như vậy, vai trò của lý tưởng chính trị không chỉ là làm cho cá nhân
phát triển tốt hơn mà nó còn trở thành mục tiêu tốt đ ẹp h ướng đ ến s ự
phát triển chung của cộng đồng.
1.2.5. Quá trình hiện thực hóa các giá trị chính trị thành lý tưởng, niềm
tin, động cơ, nhu cầu, thói quen chính trị
Quá trình hiện thực hóa các giá trị chính trị thành lý tưởng, niềm tin, động
cơ, nhu cầu, thói quen chính trị chính là quá trình thực hành văn hoá chính
trị trong hoạt động của chủ thể. Chỉ trên cơ sở này mới tạo cho văn hoá
chính trị sự ổn định vững chắc trong đời sống chính trị. Vì vậy, đây cũng là
tiêu chí để đánh giá trình độ trưởng thành về văn hoá chính trị của chủ
thể.
Quá trình biến những giá trị chính trị đã được thiết lập thành lý tưởng,
niềm tin, động cơ, nhu cầu, thói quen chính trị... trong hoạt động chính trị
của chủ thể đóng vai trò quan trọng, nó làm cho văn hoá chính trị hiện
diện được trong đời sống xã hội. Đó là quá trình hiện thực hóa các giá trị
văn hoá chính trị, biến các giá trị văn hoá chính trị thành lợi ích chính trị,
thành động lực chính trị.
1.2.6. Phương tiện chính trị
Trước hết phải nói đến hình thức tổ chức quản lý Nhà n ước và h ệ
thống chính trị nói chung. Đó là những yếu tố cấu thành văn hoá chính
trị dưới dạng thực thể vật chất và tinh thần tiêu biểu của nó. Do v ậy, sự
hoàn thiện của các thể chế chính trị khẳng định sức mạnh, tính hiệu lực,
tính pháp lý... của các giá trị, chuẩn mực chính tr ị trong vi ệc đi ều ch ỉnh
những hành vi, những quan hệ xã hội - chính trị phù h ợp v ới nh ững mục
tiêu chính trị. Đồng thời nó biểu hiện sự kiện toàn và sức mạnh của h ệ
thống tổ chức quyền lực trong tổ chức xã hội, trong phối hợp hành đ ộng,
trong sử dụng các thế mạnh kinh tế, chính trị, xã h ội đ ể th ực hiện các
mục tiêu chính trị. Những yêu cầu chính trị thực tiễn trong mỗi giai đoạn
lịch sử sẽ có hình thức tổ chức quyền lực chính trị, quản lý Nhà nước, cơ
chế vận hành tương ứng. Trong đời sống chính trị hiện đại, muốn đáp ứng
yêu cầu văn hoá chính trị cao thì chúng ta phải đổi mới về tổ chức và
phương thức hoạt động của hệ thống quyền lực của nước ta, trong đó việc
đổi mới cơ chế để phát huy quyền làm chủ của nhân dân có ý nghĩa quan
trọng. Việc triển khai thực hiện Qui chế dân chủ ở cơ sở hiện nay cũng
hàm chứa những giá trị trên.
1.2.7. Hệ tư tưởng chính trị
Hệ tư tưởng là yếu tố cốt lõi nhất, là định hướng cơ bản cho đời sống
tinh thần xã hội,đóng vai trò hạt nhân của văn hoá chính trị, giữ vị trí trung
tâm, có tác dụng chi phối các nhân tố khác trong văn hoá chính trị, cũng như
trong toàn bộ nền văn hoá chính trị nói chung của một thể chế chính trị. Nó
qui định tính chất, nội dung, khuynh hướng phát triển và tính tích cực của
văn hoá chính trị trong một xã hội nhất định. Hệ tư tưởng chính trị của một
thời đại là hệ tư tưởng của giai cấp thống trị. Ngoài ra còn có nhiều yếu tố
khác tham gia vào sự hình thành văn hoá chính trị, đóng góp vào cấu trúc
của văn hoá chính trị. Như vậy, văn hoá chính trị của bất cứ chủ thể nào
cũng là một hệ thống cấu trúc của nhiều nhân tố, có lôgic vận động nội tại.
Lôgic này phản ánh mối liên hệ, tác động, chuyển hóa lẫn nhau giữa các
nhân tố cấu thành văn hoá chính trị. Tri thức chính trị, qua thực tiễn chính
trị biến thành niềm tin, lý tưởng của chủ thể. Từ niềm tin, lý tưởng đó biến
thành hành động chính trị thực tiễn, qua đó hình thành những chuẩn mực
chính trị, thành nếp sống, thói quen hành vi trong ứng xử chính trị. Chỉ đến
khi những chuẩn mực giá trị và sự ứng xử chính trị đó thẩm thấu vào tư
chất của chủ thể hoạt động chính trị, làm cho chúng có mặt thường trực
trong hành vi xử lý các tình huống chính trị, trong đời sống chính trị hàng
ngày thì lúc đó văn hoá chính trị mới thực sự được xác lập ổn định trong
chủ thể tương ứng.
1.3. Các nhân tố tác đọng đến văn hóa chính trị của đội ngũ cán b ộ,
công chức và viên chức huyện TT tỉnh
1.3.1. Những yếu tố chủ quan
* Trình độ nhận thức của cá nhân người cán bộ, công chức và viên
chức
Biểu hiện trước hết của trình độ nhận thức là ở trình độ học vấn và
trình độ chuyên môn. Khi đội ngũ cán bộ, công ch ức có trình đ ộ h ọc v ấn
và trình độ chuyên môn cao họ có khả năng triển khai th ực hiện và c ụ
thể hóa đường lối, chủ trương nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà
nước trong hoạt động thực tiễn; Năng lực lãnh đạo, điều hành, quản lý,
xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội sẽ có chuy ển biến tích c ực; Kh ả
năng thích nghi với cơ chế thị trường tốt hơn và tích lũy được thêm
nhiều kinh nghiệm; Tính chủ động, sáng tạo được phát huy, gần gũi, gắn
bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm và có nh ững đóng
góp quan trọng vào công cuộc xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội.
Ngoài ra trình độ nhận thức của đội ngũa cán bộ, công chức và viên
chức còn biểu hiện trình độ chuyên môn mà còn ở kinh nghiệm, sự khôn
ngoan, sự từng trải, sự nhạy bén mẫn cảm... của đội ngũ cán bộ, công chức
và viên chức. Đội ngũ cán bộ, công chức và viên chức huyện TT tỉnh thường
là những người xuất thân từ những gia đình có truyền thống cách mạng, có
hiểu biết sâu sắc về truyền thống cách mạng của dân tộc và truyền thống
cách mạng địa phương. Những truyền thống văn hóa, cách mạng của dân
tộc và địa phương đã thẩm thấu vào hành vi nhận thức, suy nghĩ, tình cảm
của họ và trở thành những giá trị ứng xử dưới dạng nguyên tắc sống
hướng tới chân, thiện, mỹ, giúp chủ thể khắc phục căn bệnh chủ quan, giáo
điều, duy ý chí. Với trình độ tri thức và thực tiễn kinh nghiệm chính trị như
vậy đã hình thành nên nét văn hóa chính trị của người cán bộ, công chức và
viên chức ở huyện TT tỉnh là những người có tri thức, tiến bộ và đại diện
cho truyền thống yêu nước, gắn bó chặt chẽ với nhân dân qua các thời kỳ
lịch sử.
* Tinh thần đoàn kết, thống nhất trong đ ội ngũ cán b ộ, công
chức và viên chức
Tình thần đoàn kết, thống nhất trong đội ngũ cán bộ, công chức và
viên chức ở huyện TT, tỉnh biểu hiện ở những nội dung:
Một là, Sự đoàn kết, thống nhất được thể hiện trong ý chí chung của
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, công chức. Ý chí chung của huyện TT tỉnh
là hướng đến phát triển huyện thành một huyện kinh tế phát triển cao,
bền vững, người dân có cuộc sống vật chất và tinh thần đầy đủ, Trẻ em
được đến trường, mạng lưới giao thông phát triển, chính trị ổn định vũng
vàng…
Hai là, Sự đoàn kết thống nhất được biểu hiện ở lợi ích chung trong
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, công chức và viên chức huyện TT. Sự đoàn
kết, thống nhất trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, công chức và viên chức
huyện TT tỉnh đã hình thành nên nét văn hóa chính trị đó là nét văn hóa
thể hiện cho sự tuân thủ ý chí chung, văn hóa chính trị vì cộng đồng và vì
sự phát triển chung của xã hội.
* Niềm tin và tình cảm chính trị của đội ngũ cán bộ, công chức và
viên chức huyện TT tỉnh
Niềm tin và tình cảm chính trị là sự bộc lộ những phẩm chất, sắc thái
cá nhân đối với lý tưởng, chế độ chính trị, nhà nước, chính đảng, đối với
các cơ quan lãnh đạo, các nhà lãnh đạo... Nếu là kết quả của nhận thức
đúng đắn, sâu sắc về lý tưởng chính trị đã lựa chọn, không chịu bất cứ sự
áp đặt, cưỡng bức nào thì niềm tin chính trị sẽ mang tính ổn định và bền
vững, cả khi đời sống chính trị thuận lợi, cả trong những lúc biến động
nhiều trắc trở.
Hiện nay, đội ngũ cán bộ, công chức và viên chức huyện TT tỉnh hầu
hết đều là những người sinh ra, lớn lên và trưởng thành từ mảnh đất
huyện TT tỉnh . Họ là những người có am hiểu về truyền thống cách mạng
của vùng đất oai hùng, bất khuất. Lịch sử hào hùng mà các thế hệ cha ông
TT xưa đã ăn sâu, bám rễ vào trong tâm trí những người cán bộ lãnh đạo,
công chức ở đây. Truyền thống ấy đã hun đúc nên niềm tin chính trị của
người cán bộ, công chức và viên chức huyện TT tỉnh niềm tin khoa học và
cách mạng, nhiều cán bộ cách mạng đã nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách
mạng thể hiện rõ nét tính cách anh dũng, kiên cường, bất khuất... trong
chiến đấu, lao động, học tập, trong những tình huống nguy hiểm. Trong
những lúc khủng hoảng, khó khăn nhất... người cán bộ, công chức và viên
chức huyện TT tỉnh vẫn giữ niềm tin vào sự nghiệp, lý tưởng cách mạng
mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn, tin tưởng vào con đường độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.
* Quá trình biến những giá trị chính trị đã được thiết lập thành lý
tưởng, niềm tin, động cơ, nhu cầu, thói quen thành hoạt động chính trị
của đội ngũ cán bộ, công chức và viên chức huyện TT tỉnh
Quá trình biến những giá trị đã được thiết lập thành ý tưởng, niềm tin,
động cơ, nhu cầu thói quen thành hành động chính trị là quá trình thực
hành văn hóa chính trị trong hoạt động của người cán bộ, công chức. Chỉ
trên cơ sở thực hành văn hóa chính trị mới tạo cho văn hóa chính trị sự ổn
định vững chắc trong đời sống chính trị. Vì vậy, đây cũng là tiêu chí để đánh
giá trình độ trưởng thành về văn hóa chính trị của người lãnh đạo chính trị.
Biểu hiện của những giá trị chính trị được người cán bộ thực hiện trong
những hoạt động cụ thể :
Một là, những giá trị chính trị của người cán bộ lãnh đạo được biểu
hiện qua trách nhiệm đối với công việc hàng ngày. Người cán bộ lãnh đạo
chính trị là người luôn ý thức được quyền lực mà họ đang thực hiện là
quyền lực mà nhân dân trao cho, việc thực hiện quyền lực không gì khác là
đại diện cho ý chí, nguyện vọng và lợi ích cho nhân dân. Vì vậy, người cán
bộ, công chức phải có trách nhiệm với công việc mà nhân dân đã giao cho.
Hai là, những giá trị chính trị của người cán bộ, công chức còn được
biểu hiện ở quá trình phục vụ nhân dân trong các hoạt động chính trị. Các
hoạt động chủ yếu của người cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở thực chất là hoạt
động giải quyết các nhu cầu của người dân. Như vậy, các hoạt động của
người cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở là hoạt động phục vụ nhân dân. Người
cán bộ vì dân là người cán bộ phải nắm bắt được các nhu cầu của nhân
dân, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân và là người “ Đày tớ trung thành
của nhân dân”. Khi người cán bộ lấy người dân làm đối tượng phục vụ sẽ
hình thành nên nét văn hóa chính trị người cán bộ.
Ba là, những giá trị chính trị của người cán bộ, công chức còn được
biểu hiện ở việc đảm bảo lợi ích cho nhân dân trong các hoạt động chính
trị. Người cán bộ, công chức và viên chức huyện TT tỉnh cần nắm bắt được
tâm tư, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân một cách thiết thực nhất. Khi
người cán bộ, công chức hết lòng vì lợi ích của nhân dân sẽ hình thành nên
nét văn hóa người cán bộ “Vì nhân dân”.
* Sự chủ động, sáng tạo trong các hoạt động chính trị của đội ngũ
cán bộ, công chức và viên chức huyện TT tỉnh
Nói đến các nhân tố chủ quan ảnh hưởng đến văn hóa chính trị của
người cán bộ, công chức và viên chức huyện TT tỉnh không thể không nói
đến sự chủ động, tích cực của họ. Không thể có một người cán bộ lãnh đạo
giỏi, có bản lĩnh chính trị vững vàng nếu bàn thân người đó không có nỗ lực
cá nhân hướng đến sự phát triển toàn diện. Thời cuộc và thực tiễn phát
triển xã hội có thể tạo ra thời cơ cho mọi người, nhưng chỉ con người có
khả năng nhận thức được nó mới có thể vận dụng nó và thúc đẩy nó phát
triển. Chẳng hạn, những người sinh ra cùng thời với Chủ tịch Hồ Chí Minh
rất nhiều, nhưng chí có sự chủ động, khả năng nhận định vấn đề của Hồ
Chí Minh mới có thể xác định đúng yêu cầu của con đường cứu nước, giải
phóng dân tộc. Sự chủ động, sáng tạo chính trị của đội ngũ cán bộ, công
chức và viên chức huyện TT tỉnh được biểu hiện ở khả năng tiếp biến các
giá trị văn hóa. Hoàn cảnh lịch sử tỉnh gắn liền với hoàn cảnh lịch sử Việt
Nam, chịu sự tác động lớn lao của tư tưởng văn hóa ngoại lai trong đó phải