MỞ ĐẦU
Báo chí Việt Nam phát triển mạnh mẽ cả về số lượng, loại hình và
chất lượng thông tin, trở thành phương tiện thông tin đại chúng thiết yếu
trong đời sống xã hội; tích cực phát hiện, đấu tranh với các hành vi tham
nhũng, tiêu cực và các tệ nạn xã hội; truyền tải ý kiến của nhân dân đóng
góp xây dựng chính sách, pháp luật, qua đó phát huy quyền làm chủ của
người dân; đấu tranh giữ vững chủ quyền, lãnh thổ quốc gia; phản bác các
luận điệu sai trái, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng,
Nhà nước và chế độ.
Song, trong thời gian qua,hoạt động báo chí bộc lộ những vấn đề
đáng lo ngại như: cơ quan báo chí không thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích;
thông tin sai sự thật có chiều hướng ngày càng tăng; xu hướng “thương mại
hoá” chậm được khắc phục; thông tin vi phạm thuần phong mỹ tục vẫn
diễn ra. Nhiều thông tin trên báo chí thiếu chọn lọc, nặng về phản ánh mặt
trái, tiêu cực của xã hội; nhiều nội dung tin, bài giật gân, câu khách; tính
trung thực của báo chí bị giảm sút.
Những vấn đề này đặt ra yêu cầu ngày một khẩn thiết đối với nhà
báo trong vấn đề khai thác thông tin. Khi sự kiện, vấn đề thời sự xảy ra,
nhà báo cần phải phản ứng, thu thập chứng cứ hoặc giải thích thông tin thật
nhanh cho độc giả. Điều nhà báo cần làm là xác định được nguồn tin, tìm ra
cá nhân, tổ chức nào sẽ là đối tượng cung cấp những thông tin đáng tin cậy
và chính xác cho mình. Lúc này, nhà báo không chỉ phải đối mặt với luật
pháp mà còn phải đối mặt với cả những nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp
liên quan đến nguồn tin của mình. Mối quan hệ giữa nhà báo với cá nhân,
tổ chức cung cấp thông tin được coi là mối quan hệ “máu thịt”. Cả luật
pháp và đạo đức nghề nghiệp cùng điều chỉnh hành vi của nhà báo trong
mối quan hệ này. Ta có thể nhận thấy, những quy định của luật pháp và đạo
đức liên quan đến quyền và nghĩa vụ của nhà báo đối với nguồn tin chính là
1
một trong những quy định quan trọng nhất đối với những người làm báo
nói riêng và những người hoạt động trong lĩnh vực truyền thông nói chung.
Vì vậy, tác giả lựa chọn vấn đề “Quyền hạn và nghĩa vụ của nhà báo đối
với nguồn cung cấp thông tin báo chí” làm đề tài cho tiểu luận môn Pháp
luật và Đạo đức báo chí. Tác giả mong muốn với sự nghiên cứu của bản
thân có thể phần nào mang đến cho người đọc cái nhìn rõ nét, cụ thể hơn về
vấn đề tiểu luận nêu ra; cũng như đóng góp cho công tác nghiên cứu môn
học Pháp luật và Đạo đức báo chí, một môn học hết sức quan trọng đối với
bản thân những cá nhân, tổ chức đang hoạt động trong lĩnh vực báo chí,
thông tin truyền thông. Với quy mô nhỏ của tiểu luận, cùng thời gian làm
việc còn hạn hẹp, tiểu luận chắc chắn không thể tránh được những sai sót,
tác giả mong nhận được sự góp ý, bổ sung của quý thầy cô, bạn đọc để tiểu
luận có thể hoàn thiện hơn trong những lần nghiên cứu tiếp theo. Tác giả
xin chân thành cảm ơn!
2
NỘI DUNG
I. Những quy định pháp luật và đạo đức trong vấn đề cung cấp
thông tin báo chí của Việt Nam
1. Luật Báo chí
Luật Báo chí năm 1989, chương III: Nhiệm vụ và quyền hạn của báo
chí, có quy định rõ về vấn đề cung cấp thông tin cho báo chí được trong
Điều 7: “Trong phạm vi quyền hạn, nhiệm vụ của mình, các tổ chức có
quyền và nghĩa vụ cung cấp thông tin cho báo chí, giúp cho báo chí thông
tin chính xác, kịp thời và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung
thông tin.
Đối với vụ án đang được điều tra hoặc chưa xét xử thì các cơ quan
tiến hành tố tụng có quyền không cung cấp thông tin cho báo chí, nhưng
báo chí có quyền thông tin theo các nguồn tài liệu của mình và chịu trách
nhiệm trước pháp luật về nội dung thông tin.
Báo chí có quyền và nghĩa vụ không tiết lộ tên người cung cấp thông
tin nếu có hại cho người đó, trừ trường hợp có yêu cầu của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân hoặc Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh và tương
đương trở lên cần thiết cho việc điều tra, xét xử tội phạm nghiêm trọng.”
Như vậy, nhà báo phải bảo vệ nguồn tin của mình. Theo Hiến pháp
và nhiều sắc luật trong đó có Luật Báo chí, bảo đảm an toàn công tác và
cuộc sống của người cung cấp thông tin cho báo chí (bảo vệ nguồn tin)
không chỉ là vấn đề đạo đức, mà trước hết, đó là quyền và nghĩa vụ của nhà
báo và các cơ quan báo chí.
Bảo vệ nguồn tin chính là bảo vệ một trong những quyền cơ bản
của công dân. Điều 69 Hiến pháp 1992 quy định: “Công dân có quyền tự
do ngôn luận, tự do báo chí”. Điều 4 Luật Báo chí cụ thể hơn: “Công dân
có quyền tiếp xúc, cung cấp thông tin cho cơ quan báo chí và nhà báo;
gửi tin, bài, ảnh và tác phẩm khác cho báo chí mà không chịu sự kiểm
3
duyệt của tổ chức, cá nhân nào, và chịu trách nhiệm trước pháp luật về
nội dung thông tin”.
Không chỉ báo chí, các cơ quan có chức năng tiếp nhận nguồn tin từ
quần chúng nhân dân như cơ quan kiểm tra của Đảng, cơ quan thanh tra
của chính quyền, các cơ quan tiến hành tố tụng… đều có nghĩa vụ bảo vệ
nguồn tin.
Tuy trong Điều 7, Luật Báo chí có quy định: “Nguồn tin phải có
nghĩa vụ cung cấp thông tin cho báo chí, giúp cho báo chí thông tin chính
xác, kịp thời và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thông tin”,
nhưng điều này không có nghĩa là bắt buộc họ phải cung cấp. Nhà báo
không được dung các biện pháp, thủ đoạn để đe dọa, gây áp lực buộc
nguồn tin phải cung cấp thông tin cho mình, hay có thái độ xem thường
nguyện vọng, lợi ích và quan điểm của họ. Nhà báo cần phải thuyết phục
để nguồn tin tình nguyện nói chuyện, cung cấp thông tin.
Trên thực tế, hầu hết nhà báo nhận thức được nguyên tắc nghề
nghiệp này, nhưng cũng có bộ phận không nhỏ các nhà báo hay những
người làm báo, vì mục đích riêng mà sẵn sàng bỏ qua nó. Lời biện minh
cho việc làm đó cũng là vì “lợi ích của công chúng” còn gây nhiều tranh cãi
trong ranh giới giữa “lợi ích thật sự” và “sự thỏa mãn, tò mò”.
Tình trạng nhà báo lạm quyền và cửa quyền gia tăng cũng chỉ bởi
nhiều trường hợp nhà báo đã hiểu sai hoặc cố tình hiểu sai chức năng và
quyền hạn của mình.
Điều 7 Luật Báo chí cũng quy định: “Báo chí có quyền và nghĩa vụ
không tiết lộ tên người cung cấp thông tin nếu có hại cho người đó, trừ
trường hợp có yêu cầu của Viện trưởng Viện KSND hoặc Chánh án TAND
cấp tỉnh và tương đương trở lên cần thiết cho việc điều tra, xét xử tội phạm
nghiêm trọng”.
Điều này cũng đang được xem xét, bổ sung trong dự thảo Luật Báo
chí (sửa đổi) được Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Bắc
4
Son, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày trước Quốc hội
ngày 4 tháng 11 năm 2015. Khoản 3 Điều 37 dự thảo Luật nêu rõ: “Cơ
quan báo chí và nhà báo có quyền và nghĩa vụ không tiết lộ người cung
cấp thông tin nếu có hại cho người đó, trừ trường hợp có yêu cầu của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh và
tương đương trở lên cần thiết cho việc điều tra, xét xử tội phạm nghiêm
trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng”.
Điều này đã nhận được ý kiến phản hồi từ các Đại biểu Quốc hội
rằng, việc bảo vệ nguồn tin của báo chí là vô cùng quan trọng đối với người
làm báo. Thực tế hiện nay, loại tội phạm nghiêm trọng rất phổ biến và đa
dạng. Nếu quy định như dự thảo Luật sẽ gây khó khăn cho người làm báo
trong việc bảo vệ nguồn tin. Do đó, đề nghị chỉ nên yêu cầu việc tiết lộ
nguồn tin đối với tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng.
2. Quy chế về phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí
Trong “Quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí” được
Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 04 tháng 05 năm 2013, Thủ tướng
Chính phủ đã quy định rõ về nhưng quyền và nghĩa vụ của nhà báo đối với
nguồn cung cấp thông tin trong những điều sau
-
Điều 3: Phát ngôn và cung cấp thông tin định kỳ
Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ chủ trì, phối hợp với
các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức cung cấp thông tin cho báo
chí theo định kỳ 1 tháng một lần về hoạt động và công tác chỉ đạo, điều
hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ bằng hình thức họp báo và đăng
tải trên Cổng thông tin điện tử của Chính phủ.
Cổng thông tin điện tử của Chính phủ có trách nhiệm cập nhật thông
tin theo các quy định hiện hành để cung cấp kịp thời, chính xác thông tin
chính thống cho các cơ quan báo chí trong cả nước.
Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân
dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức cung cấp thông tin
5
định kỳ cho báo chí về hoạt động của cơ quan mình, về lĩnh vực, địa bàn
thuộc phạm vi quản lý của mình, thông qua các hình thức sau:
Hàng tháng cung cấp thông tin định kỳ cho báo chí và cập nhật thông
tin trên Cổng thông tin điện tử hoặc trang tin điện tử của cơ quan mình theo
các quy định tại Nghị định số 43/2011/NĐ-CP ngày 13 tháng 6 năm 2011
của Chính phủ quy định về việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực
tuyến trên trang thông tin điện tử hoặc cổng thông tin điện tử của cơ quan
nhà nước;
Ít nhất 3 tháng một lần tổ chức họp báo để cung cấp thông tin định
kỳ cho báo chí. Việc tổ chức họp báo thực hiện theo quy định hiện hành;
Trường hợp cần thiết, cơ quan hành chính nhà nước tổ chức cung cấp
thông tin định kỳ cho báo chí bằng văn bản hoặc thông tin trực tiếp tại các
cuộc giao ban hàng tuần do Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và
Truyền thông và Hội Nhà báo Việt Nam tổ chức;
Cung cấp thông tin kịp thời, chính xác cho Cổng thông tin điện tử
của Chính phủ theo quy định hiện hành.
-
Điều 4: Phát ngôn và cung cấp thông tin trong trường hợp đột
xuất, bất thường
Người phát ngôn hoặc Người được ủy quyền phát ngôn có trách
nhiệm phát ngôn và cung cấp thông tin kịp thời, chính xác cho báo chí
trong các trường hợp đột xuất, bất thường sau đây:
Khi thấy cần thiết phải thông tin trên báo chí về các sự kiện, vấn đề
quan trọng có tác động lớn trong xã hội thuộc phạm vi quản lý của cơ quan
hành chính nhà nước nhằm cảnh báo kịp thời và định hướng dư luận.
Trường hợp xảy ra vụ việc cần có ngay thông tin ban đầu của cơ
quan hành chính nhà nước thì Người phát ngôn hoặc Người được ủy quyền
phát ngôn có trách nhiệm chủ động phát ngôn, cung cấp thông tin cho báo
chí trong thời gian chậm nhất là một (01) ngày, kể từ khi vụ việc xảy ra.
Khi cơ quan báo chí hoặc cơ quan chỉ đạo, quản lý nhà nước về báo
chí có yêu cầu phát ngôn hoặc cung cấp thông tin về các sự kiện, vấn đề
6
của cơ quan, lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của cơ quan đã được nêu trên
báo chí hoặc về các sự kiện, vấn đề nêu tại Khoản 1 Điều này.
Khi có căn cứ cho rằng báo chí đăng tải thông tin sai sự thật về lĩnh
vực, địa bàn do cơ quan mình quản lý, Người phát ngôn hoặc Người được
ủy quyền phát ngôn yêu cầu cơ quan báo chí đó phải đăng tải ý kiến phản
hồi, cải chính theo quy định của pháp luật.
- Điều 6: Quyền và trách nhiệm của người phát ngôn, người được ủy
quyền phát ngôn
Người phát ngôn, Người được ủy quyền phát ngôn được nhân danh
đại diện cơ quan hành chính nhà nước phát ngôn và cung cấp thông tin cho
báo chí.
Người phát ngôn, Người được ủy quyền phát ngôn có trách nhiệm từ
chối, không phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí trong các trường
hợp sau:
Những vấn đề thuộc bí mật nhà nước; những vấn đề bí mật thuộc
nguyên tắc và quy định của Đảng; những vấn đề không thuộc quyền hạn
phát ngôn;
Các vụ án đang được điều tra hoặc chưa xét xử, trừ trường hợp các
cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan điều tra có yêu cầu cần thông tin
trên báo chí những vấn đề có lợi cho hoạt động điều tra và công tác đấu
tranh phòng, chống tội phạm;
Các vụ việc đang trong quá trình thanh tra; nghiên cứu giải quyết
khiếu nại, tố cáo; những vấn đề tranh chấp, mâu thuẫn giữa các cơ quan,
đơn vị nhà nước đang trong quá trình giải quyết, chưa có kết luận chính
thức của người có thẩm quyền mà theo quy định không được cung cấp
thông tin cho báo chí;
Những văn bản chính sách, đề án đang trong quá trình soạn thảo mà
theo quy định của pháp luật chưa được cấp có thẩm quyền cho phép phổ
biến.
7
Người phát ngôn, Người được ủy quyền phát ngôn có trách nhiệm
phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí theo quy định tại Điều 3, Điều
4 Quy chế này và chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước người đứng đầu
cơ quan hành chính nhà nước về nội dung phát ngôn và thông tin cung cấp
cho báo chí.
- Điều 7: Trách nhiệm của cơ quan báo chí, nhà báo
Cơ quan báo chí, nhà báo có trách nhiệm đăng, phát, phản ánh trung
thực nội dung phát ngôn và thông tin do Người phát ngôn, Người được ủy
quyền phát ngôn cung cấp, đồng thời phải ghi rõ họ tên Người phát ngôn
hoặc Người được ủy quyền phát ngôn, tên cơ quan hành chính nhà nước
của Người phát ngôn, Người được ủy quyền phát ngôn. Trường hợp cơ
quan báo chí đăng, phát đúng nội dung thông tin mà Người phát ngôn,
Người được ủy quyền phát ngôn cung cấp thì không phải chịu trách nhiệm
về nội dung thông tin đó.
Nghĩa vụ của nhà báo là phải đăng phát đúng nội dung phát ngôn và
thông tin do người phát ngôn cung cấp. Trách nhiệm cung cấp thông tin
cho báo chí được chú trọng, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quy chế
người phát ngôn, có trách nhiệm cung cấp thông tin chính thống cho báo
chí. Tuy nhiên, việc thực thi trên thực tiễn vẫn có nhiều khó khăn. Người
phát ngôn của các cơ quan tổ chức đa phần là kiêm nhiệm, thậm chí có cơ
quan chưa có người phát ngôn, do đó khi báo chí yêu cầu cơ quan cung cấp
thông tin thì người phát ngôn bận, hoặc chưa có người phát ngôn thì đùn
đẩy trách nhiệm giữa các cá nhân nên báo chí không tiếp cận được với
nguồn tin hoặc tiếp cận không kịp thời.
• Theo Quy chế xác định nguồn tin trên Báo chí ban hành kèm theo
Quyết định số 52/2008/QĐ-BTTTT :
Điều 2: Cơ quan báo chí, tác giả bài báo phải viện dẫn nguồn tin
được sử dụng để đăng, phát trên báo chí. Khi viện dẫn nguồn tin phải thể
hiện rõ nguồn tin cho cá nhân, cơ quan, tổ chức nào cung cấp hoặc thể hiện
8
rõ là theo nguồn tin riêng của phóng viên, nguồn tin riêng của cơ quan báo
chí và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về xuất xứ và tính xác thực
của nguồn tin.
Điều 3: Cơ quan báo chí phải đảm bảo tính nguyên vẹn, chính xác
của thông tin được cung cấp; không được đăng, phát những thông tin về
thân nhân và các mối quan hệ của cá nhân trong các vụ án, vụ việc tiêu cực
khi không có căn cứ cho rằng những thân nhân và các mối quan hệ đó liên
quan đến vụ án, vụ việc tiêu cực hoặc chưa có kết luận của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền, làm ảnh hưởng xấu đến đời tư của công dân.
3. Quy định về đạo đức nghề nghiệp của người làm báo Việt
Trong những “Quy định về đạo đức nghề nghiệp của người làm báo
Việt” được Hội Nhà báo Việt Nam ban hành, nhà báo có những ràng buộc
về mặt đạo đức được nêu rõ trong Điều 6: “Bảo vệ bí mật quốc gia, nguồn
tin và giữ bí mật cho người cung cấp thông tin”. Việc bảo vệ nguồn tin và
giữ bí mật cho cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp thông tin cho báo chí
được đặt ngang với việc bảo vệ bí mật quốc gia. Điều này cho thấy tầm
quan trọng của việc bảo vệ, giữ bí mật về nguồn tin đối với người làm báo.
Việc bảo vệ nguồn tin là nguyên tắc cơ bản nhất trong đạo đức báo
chí. Đặc biệt với thể loại báo chí điều tra, chống tiêu cực, tham nhũng,
nguồn tin là số một. Nếu không có nguồn tin, có người cung cấp thông tin
thì không thể có những loạt bài điều tra tốt. Trong hoạt động báo chí có
nhiều câu chuyện chỉ có thể được phanh phui nhờ vào những thủ thuật.
Hoạt động tác nghiệp bí mật là một công việc hết sức khó khăn và nguy
hiểm. Tuy nhiên, nhà báo cần phải đặt mình vào nhiều trường hợp để cân
nhắc đến tình hợp pháp và chuẩn mực đạo đức. Không thể vì muốn có được
thông tin mà nhà báo không màng đến việc tuân thủ các quyền và những lợi
ích hợp pháp của những người là đối tượng bị quan sát, thu thập thông tin.
Chỉ các tổ chức mới có nghĩa vụ phải cung cấp thông tin cho báo chí,
còn các cá nhân thì không có nghĩa vụ đó. Nhà báo phải có thái độ lịch sự,
9
nhã nhặn khi giới thiệu bản thân, mục đích của mình và của cơ quan báo
chí nhằm tranh thủ được sự ủng hộ của nguồn tin. Nhà báo không được
quyền ép buộc nguồn tin cá nhân cung cấp thông tin cho mình; phải lịch sự,
tôn trọng, gây thiện cảm, lòng tin khi lấy thông tin.
II. Thực hiện quyền và nghĩa vụ bảo vệ nguồn cung cấp thông tin
báo chí của quốc tế và Việt Nam – Thực trạng và giải pháp
1. Thực trạng
a. Những vụ việc nổi tiếng của báo chí thế giới
Trên thế giới đã có không ít những sự kiện có thật về việc giữ bí mật
nguồn tin của nhà báo. Và dưới đây là những ví dụ về những vụ việc các
nhà báo sẵn sàng ngồi tù vì tội ‘khinh lệnh tòa’ để bảo vệ nguồn tin:
Trong lịch sử báo chí Mỹ, cái tên Judith Miller cũng được người ta
nhắc đến như là một nhà báo thà ngồi tù chứ không để lộ nguồn tin. Câu
chuyện liên quan đến vụ bê bối Plame, là vụ rò rỉ tên tuổi điệp viên mật
CIA Valerie Plame Wilson vào năm 2003. Khi cái tên Valerie Plame bị tiết
lộ, CIA đã gửi thư cho Bộ Tư pháp Mỹ yêu cầu điều tra. Cuộc điều tra xác
định có năm nhà báo nắm được thông tin mật này, trong đó có bà Judith
Miller của tờ New York Times. Cho dù bà Miller không hề viết bài về bà
Plame, tháng 7-2005 công tố viên Fitzgerald vẫn yêu cầu bà Miller ra tòa
cung cấp lời khai. Xuất hiện trước tòa, bà Miller đã từ chối tiết lộ nguồn tin
của mình. Bà Miller khẳng định: "Nếu không ai tin tưởng các nhà báo giữ
bí mật nguồn tin thì các nhà báo sẽ không thể tác nghiệp được. Do đó cũng
sẽ không thể có tự do báo chí”. Tòa đã kết luận hành động của bà Miller là
tội coi thường tòa án. Ngày 7-7-2005, bà Miller bị bắt giam. Phải đến ngày
29-9-2005, sau 85 ngày ngồi tù, bà Miller mới được trả tự do sau khi đồng
ý đưa lời khai trước tòa án với sự đồng ý của nguồn tin.
Ở một vụ việc cũng liên quan đến việc bảo vệ nguồn tin bất chấp khả
năng phải ngồi tù, nữ nhà báo Jana Winter của hãng tin Fox News, Mỹ từng
10
phải đối mặt với nguy cơ ngồi tù vì quyết bảo vệ nguồn tin của mình trong
vụ xả súng kinh hoàng tại rạp chiếu phim ở Colorado năm 2012.
Câu chuyện của Winter và Miller khiến nhiều người nhớ lại rất nhiều
vụ án mà trong đó, các nhà báo thà chịu ngồi tù còn hơn là tiết lộ nguồn tin
của mình. Nếu không thể bảo vệ cho các nguồn tin của nhà báo, thế giới có
thể sẽ không được chứng kiến những sự thật rúng động phanh phui từ nhiều
vụ bê bối chính trị, tham nhũng tầm cỡ lớn. Đơn cử ở đây như vụ bê bối
Watergate.
Vụ Watergate là một vụ bê bối chính trị trên chính trường Mỹ, từ
năm 1972 đến năm 1974, dẫn đến việc Tổng thống Richard Nixon phải từ
chức. Vụ việc xảy ra vào thời điểm Chiến tranh Việt Nam, khi chính quyền
Nixon đã lạm dụng quyền lực để ngăn cản phong trào phản chiến và lực
lượng chính trị đối lập là Đảng Dân chủ. Washington Post cho biết, trong
vài tháng đầu tiên sau khi vụ Watergate nổ ra, cả Chủ bút của tờ báo và Ban
biên tập đã bị Chính phủ Mỹ khi đó nhiều lần dồn ép, hăm dọa buộc họ tiết
lộ danh tính nhân vật cung cấp nguồn tin. Tuy nhiên, bất chấp sức ép từ
giới chức trách, Washington Post đã kiên quyết không tiết lộ. Trong thời
gian này, chi tiết các nội dung và diễn biến của vụ scandal vẫn tiếp tục
được phơi bày trên mặt báo. Và phải cho đến hơn 30 năm sau đó, vào năm
2005, người cung cấp thông tin của vụ việc mới được đưa ra ánh sáng.
Ở một sự kiện khác, việc công nhận đặc quyền của các phóng viên
đã được Tòa án châu Âu về Nhân quyền (ECtHR) khẳng định đầy thuyết
phục qua vụ Goodwin kiện nước Anh (1996). Vụ kiện này liên quan tới
phóng viên William Goodwin, người đã tiếp nhận thông tin tài chính mật
của một công ty từ một nguồn tin mà ông đã đồng ý sẽ bảo mật danh tính.
Công ty này đã tuyên bố rằng tài liệu này bị đánh cắp và đã xin được lệnh
cấm công bố thông tin, đồng thời cũng xin được lệnh theo Luật Bất tuân
Tòa án buộc Goodwin phải tiết lộ danh tính người đã cung cấp thông tin
cho anh “nhân danh công lí” để công ty này có thể làm thủ tục kiện lại
11
người đưa tin này. Sau khi Tòa phúc thẩm và Thượng viện ủng hộ lệnh này,
Goodwin đã kháng án lên ECtHR, theo đó ông lập luận rằng theo Điều 10
của Công ước châu Âu về Nhân quyền (ECHR), chỉ có các trường hợp bất
thường mới đủ cơ sở để buộc ông ra đối chất và tiết lộ danh tính nguồn tin.
Về phần mình, Chính phủ Anh lập luận rằng trong trường hợp này không
có lợi ích công cộng biện minh cho việc trao đặc quyền cho phóng viên,
đặc biệt là trong trường hợp xấu nhất nguồn tin đã hành động vô trách
nhiệm khi cung cấp thông tin kinh doanh mật của công ty cho Goodwin.
Tòa đã xử Goodwin thắng kiện vì Tòa cho rằng lợi ích của công ty
trong việc truy tìm nguồn tin không lớn hơn lợi ích công cộng trong vấn đề
bảo vệ quyền giữ bí mật nguồn tin của các nhà báo
b. Thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với nguồn cung cấp thông tin ở
Việt Nam
Ở Việt Nam, chúng ta cũng có những ví dụ cụ thể về việc nhà báo,
cơ quan báo chí áp dụng Điều 7, luật Báo chí trong công việc
Vụ việc thứ nhất:
Nguồn tin giấu tên ghi được hình ảnh một số CSGT nhận tiền mãi lộ
trên quốc lộ 3, đoạn qua tỉnh Thái Nguyên tháng 3 năm 2012. Sau khi Tiền
Phong đăng tải thông tin do nguồn tin cung cấp, Thanh tra Bộ Công an làm
việc với các phóng viên, đề nghị cung cấp băng ghi hình và danh tính
nguồn tin. Các phóng viên đã cung cấp đầy đủ băng ghi hình, giúp cán bộ
thanh tra có căn cứ xử lý cán bộ sai phạm; tuy nhiên, họ từ chối cung cấp
danh tính nguồn, tránh việc nguồn tin có thể gặp khó khăn khi chạy xe qua
địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
Vụ việc thứ hai:
Trong vụ án “hậu PMU18”, một số PV Tiền Phong được cơ quan
điều tra triệu tập, yêu cầu khai báo việc một số cán bộ điều tra từng cung
cấp thông tin về công tác điều tra vụ án trước đó (có dấu hiệu làm lộ bí mật
điều tra). Các phóng viên không thể viện dẫn Điều 4 Luật Báo chí để từ
12
chối, bởi Viện trưởng Viện KSND Tối cao đã có văn bản yêu cầu, và việc
khai báo là để phục vụ điều tra vụ án có tính chất nghiêm trọng.
Hai ví dụ trên cho thấy Điều 7 Luật Báo chí vừa có tác dụng bảo vệ
quyền tự do báo chí của công dân, vừa có hành lang để xử lý hành vi lợi
dụng quyền tự do báo chí vi phạm pháp luật.
Theo nhiều chuyên gia pháp luật và báo chí, quy định tại Điều 7 Luật
Báo chí không cản trở hoạt động điều tra; nó tương tự quy định chỉ có Viện
trưởng Viện Kiểm sát hoặc Chánh án Tòa án mới có quyền gia hạn tạm
giam bị can, bị cáo, còn thủ trưởng cơ quan không có quyền này. Vậy nên,
nếu trong Luật Báo chí sửa đổi trong thời gian tới thay đổi theo hướng thủ
trưởng tất cả các cơ quan tư pháp đều có quyền yêu cầu báo chí cung cấp
nguồn tin sẽ làm tăng nguy cơ xâm hại quyền tự do báo chí của công
dân.Điều này làm hạn chế không nhỏ đến kết quả tác nghiệp của báo chí
trong phòng chống tham nhũng, tiêu cực.Cần xem thông tin về phòng
chống tham nhũng trên báo chí là nguồn tin từ dư luận xã hội.Nếu có gì
chưa thỏa đáng, gây bất bình trong cộng đồng thì cơ quan nhà nước có
quyền điều tra, xác minh và nếu có thiếu sót, đương nhiên cơ quan báo chí
phải chịu trách nhiệm.
Dẫn nguồn là minh bạch hoá thông tin. Nhưng điều này không có
nghĩa là nhà báo dựa hẳn vào nguồn tin mà quên đi nhiệm vụ của mình là
kiểm chứng thông tin.
Nói chuyện tại Học viện Báo chí và tuyên truyền gần đây, nhà báo
Nguyễn Văn Hải (Báo Tuổi Trẻ) cho biết tại Mỹ, một tin điều tra có khi dẫn
đến 10 nguồn. Tại Báo Tuổi Trẻ, sau vụ PMU18, đã có quy định cho phóng
viên mỗi thông tin phải kiểm chứng từ ít nhất 3 nguồn. Thông tin từ cơ
quan nhà nước tuy được coi là chính thống nhưng nhà báo phải xác định đó
cũng chỉ là 1 trong nhiều nguồn tin cần kiểm chứng.
Với các văn bản pháp luật và hành lang pháp lý như vậy, nhưng
trong quá trình thực hiện, nhà báo vẫn có thể gặp phải nhiều khó khăn khi
tiếp cận nguồn tin:
13
Đối với nguồn tin là người đứng đầu, hoặc người phát ngôn của cơ
quan hành chính nhà nước:
Pháp luật hiện hành quy định nghĩa vụ cung cấp thông tin cho báo
chí, nghĩa vụ trả lời báo chí của người đứng đầu cơ quan nhà nước, tổ chức
xã hội tạo điều kiện cho báo chí thực hiện nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu tiếp
cận thông tin của nhân dân. Tuy nhiên, những quy định này chưa có chế tài
để bảo đảm thực hiện, dẫn tới tình trạng cơ quan nhà nước, tổ chức chính
trị xã hội chưa thực sự hợp tác và chưa coi việc cung cấp thông tin cho cơ
quan báo chí là trách nhiệm phải thực hiện của mình, từ chối cung cấp
thông tin hoặc cung cấp thông tin không kịp thời.
Ví dụ: Nhiều cơ quan hiện nay chưa có người phát ngôn; nếu có thì
người phát ngôn cũng chưa thực hiện đúng trách nhiệm của mình, gây khó
khăn cho báo chí tác nghiệp. Ngay như tại các báo chí địa phương, muốn lấy
nguồn tin từ người phát ngôn của UBND tỉnh là rất khó. Trường hợp của nhà
báo Trần Vũ, Báo Pháp luật TP.HCM. Ngày 17/12/2015, Sở TT&TT Cà
Mau nhận đơn của nhà báo Trần Vũ yêu cầu xử lý người có chức năng,
quyền hạn cung cấp thông tin nhưng không cung cấp thông tin cho báo chí.
Theo đơn của Trần Vũ, anh đã nhận được đơn tố cáo của người dân liên
quan đến dự án giao thông tại huyện Đầm Dơi (một số nhà thầu đã gửi đơn
tố cáo Chủ tịch UBND huyện Đầm Dơi có dấu hiệu vi phạm Luật Đấu thầu,
sắp xếp thầu). Mục đích liên hệ với lãnh đạo huyện của Trần Vũ là nhằm tìm
hiểu rõ đơn tố cáo của các nhà thầu, nhưng không được Chủ tịch UBND
huyện Đầm Dơi hợp tác. Từ ngày 5/12, Trần Vũ đã liên hệ với Văn phòng
UBND huyện Đầm Dơi và được hứa sẽ bố trí lịch để cung cấp thông tin và
trả lời phỏng vấn. Sau 3 lần nhắc nhở, với 12 ngày chờ đợi, nhà báo Trần Vũ
vẫn chưa nhận được phản hồi. Phó Chánh Văn phòng UBND huyện Đầm
Dơi Lê Tấn Phát cho biết lý do là lãnh đạo bận họp, chưa có thời gian. Và
nhà báo Trần Vũ đã làm đơn yêu cầu xử lý người có chức năng, quyền hạn
cung cấp thông tin của UBND huyện Đầm Dơi.
14
Việc thiếu các quy định ràng buộc trách nhiệm của các cơ quan nhà
nước trong việc công khai thông tin trong một số trường hợp là nguyên
nhân dẫn đến tình trạng lợi dụng vị trí đặc quyền trong tiếp cận thông tin để
trục lợi, gây nên sự bất bình đẳng, thiếu công bằng trong xã hội.Việc thiếu
minh bạch, công khai của các cơ quan nhà nước đã phần nào làm hạn chế
sự tham gia của công dân, tổ chức vào hoạt động quản lý nhà nước với vai
trò là người giám sát, phản biện. Điều này cũng dẫn tới những trường hợp
giấu thông tin, từ chối cung cấp thông tin cho người dân, cho báo chí để
trốn tránh trách nhiệm.
Ví dụ: Như trong trường hợp quy hoạch đô thị, giải phóng mặt
bằng...Có một đồ án quy hoạch chi tiết khu dân cư liên quan đến bốn
phường thuộc quận 6 - TPHCM đã được phê duyệt từ năm 1998, nhưng
cho đến nay vẫn chưa được công bố rộng rãi đến người dân. Cuộc sống của
hơn 1.500 hộ dân trong khu vực gặp không ít khó khăn (Báo Người lao
động đưa tin). Trong khi hầu hết các cơ quan báo chí cũng rất khó trong
việc nắm được thông tin của bản quy hoạch này.
2. Giải pháp nâng cao việc thực hiện quyền hạn và nghĩa vụ của
nhà báo với nguồn tin
Nâng cao đạo đức nghề nghiệp của nhà báo, tạo môi trường thuận
lợi cho năng lực nghề nghiệp của nhà báo phát triển một cách toàn diện.
Thực hiện quyền tiếp cận thông tin và chức năng thông tin tuyên truyền có
hiệu quả hay không cũng phụ thuộc vào năng lực và kỹ năng của người làm
báo, để thực hiện quyền được tiếp cận thông tin đã quy định trong các văn
bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, có những nhà báo, cán bộ của cơ quan
báo chí chưa có kỹ năng nghiệp vụ để nắm bắt và khai thác, yêu cầu cung
cấp thông tin, do đó chưa khai thác được những thông tin cần thiết, kịp thời
để cung cấp cho nhân dân.
Tăng cường sức mạnh của luật và các văn bản pháp luật: Trên thực
tế, do luật thiếu hoặc không rõ ràng nên trong nhiều trường hợp khó xác
15
định được ranh giới giữa đạo đức và luật pháp. Đã có trường hợp vi phạm
không có sự nhất trí trong cách xử lý vi phạm giữa các cơ quan chức năng
với nhau. Vì vậy, hệ thống văn bản luật cần rà soát, điều chỉnh cho phù
hợp, đồng bộ và nghiêm minh hơn.
Tăng tính hiệu lực của Quy định đạo đức nghề nghiệp của người
làm báo Việt Nam: Một là, tăng sự ràng buộc và cơ chế giám sát của Quy
định đạo đức. Hai là, công tác phổ biến, giáo dục các Quy định đạo đức cần
được quan tâm chú ý hơn nữa.
Với những giải pháp đã nêu ở trên, quyền và nghĩa vụ của nhà báo
đối với cá nhân, tổ chức cung cấp thông tin sẽ ngày càng được hoàn thiện.
Đây sẽ là tiền đề hết sức quan trọng cho sự phát triển của nền báo chí nước
ta hiện nay.
16
KẾT LUẬN
Bảo vệ các nguồn tin báo chí là một trong những điều kiện căn bản
cho tự do báo chí…Nếu không có sự bảo vệ đó, các nguồn tin có thể e ngại
không giúp đỡ báo chí trong việc đưa tin đến công chúng về những vấn đề
công chúng quan tâm. Hệ quả là vai trò giám sát của báo chí sẽ bị xói mòn
và khả năng báo giới cung cấp thông tin chính xác, đáng tin cậy có thể phải
chịu những ảnh hưởng tiêu cực. Xét đến tầm quan trọng của việc bảo vệ
các nguồn tin báo chí đối với tự do báo chí trong một xã hội dân chủ và xét
đến tác động đáng sợ tiềm tàng của lệnh buộc tiết lộ nguồn tin đối với việc
thực thi quyền tự do này, yêu cầu đặt ra cho nhà quản lý cũng hết sức
nghiêm túc. Luật pháp cũng như các quy định về mặt đạo đức cần phát
triển hoàn thiện hơn nữa, là cơ sở cho nhà báo, cơ quan báo chí phát huy
quyền và nghĩa vụ bảo vệ nguồn cung cấp thông tin.
Từ những nội dung vừa nghiên cứu ở trên, ta có thể đưa ra kết luận
rằng, quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của nhà báo đối với nguồn tin, các cá
nhân, tổ chức cung cấp thông tin đã được quy định tương đầy đủ, rõ ràng
trong các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước . Đây là những quyền
vã nghĩa vụ hết sức quan trọng, có sự ảnh hương lớn đối mới hoạt động báo
chí , truyền thông trên thế giới nói chung cũng như Việt Nam nói riêng. Tuy
nhiên, để điều tiết mối quan hệ giữa nhà báo với cá nhân, tổ chức cung cấp
thông tin ngoài các quy định của luật pháp còn dựa vào những quy tắc đạo
đức nghề nghiệp. Những quy tắc đạo đức nghề nghiệp sẽ giúp mối quan hệ
“máu thịt” giữa phóng viên, cơ quan báo chí và nguồn cung cấp thông tin
ngày càng khăng khít, bền chặt hơn. Đó là tiền đề cho sự phát triển ngày
càng mạnh mẽ của báo chí hiện đại.
17