Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Cái tôi trong giao tiếp ngôn ngữ và vận dụng vào dạy ngoại ngữ (Qua tư liệu tiếng Việt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (903.22 KB, 6 trang )

Chi n l c ngo i ng trong xu th h i nh p

Tháng 11/2014

CÁI TÔI TRONG GIAO TIẾP NGÔN NGỮ
VÀ VẬN DỤNG VÀO DẠY NGOẠI NGỮ (QUA TƯ LIỆU TIẾNG VIỆT)
Nguy n Văn Khang
Viện Ngôn ngữ học
Tóm t t: Trong giao tiếp ngôn ngữ, con người luôn
mang cái tôi (self) vào trong ñó, vì thế, qua giao tiếp
bộc lộ cái tôi của người giao tiếp. Cái tôi phản ánh vị trí
nhóm cùng các mối quan hệ liên nhân, theo ñó, cái tôi
bao giờ cũng gắn với một nền văn hóa cụ thể. Việc
nghiên cứu cái tôi trong giao tiếp ngôn ngữ gắn với các
cộng ñồng giao tiếp sẽ góp phần vào dạy-học ngôn
ngữ nói chung, ngoại ngữ nói riêng.

Abstract: People always bring their ‘self’ into

language interaction, through which their self is

expressed. The self reflects an individual's position in a

group and interpersonal relationships. The ‘self’,

therefore, is always associated with a specific culture.

Research

on


communication

self

in

language

communities

will

interaction

and

contribute

into

teaching and learning of languages in general and

foreign languages in particular.

1. Cái tôi (ngã, bản ngã), theo cách hiểu ñời
sống là cái làm nên tính cách riêng biệt của mỗi
người. Trong triết học, cái tôi ñược hiểu là cái tôi
ý thức hay ñơn giản là tôi, bao hàm trong ñó
những ñặc tính ñể phân biệt tôi với những cá nhân
khác. Trong phân tâm học, cái tôi (ego) là phần

cốt lõi của tính cách liên quan tới thực tại và chịu
ảnh hưởng của tác ñộng xã hội. Theo Sigmund
Freud, cái tôi cùng với nó (id) và cái siêu tôi
(superego) là ba miền của tâm thức. Cái tôi ñược
hình thành ngay từ khi con người sinh ra và qua
tiếp xúc với thế giới bên ngoài, cái tôi học cách cư
xử sao cho kiểm soát ñược những ham muốn vô
thức không ñược xã hội chấp nhận. Cái tôi có vai
trò trung gian hòa giải giữa những ham muốn vô
thức và những tiêu chuẩn nhân cách và xã hội.

2. Trong giao tiếp con người mang cái tôi vào
trong ñó, vì thế, qua giao tiếp bộc lộ cái tôi của
người giao tiếp.

Trước hết, liên quan ñến cái tôi trong giao tiếp
hiện có các cách gọi như: “cái tôi riêng” trong mối
quan hệ với “cái tôi chung”, “cái tôi ñộc lập”
trong mối quan hệ với “cái tôi tương trợ”.
1) Cái tôi riêng (private self; còn gọi là cái tôi
viết thường) thể hiện ở việc tự ñánh giá mình.
Điều này ñược thể hiện ở các phát ngôn tự khẳng
ñịnh mình. Ví dụ:
“Ôi! Sao hôm nay mình trình bày tự tin thế
nhỉ?”
“Là một người ñã nhiều năm nghiên cứu về
vấn ñề này, tôi khẳng ñịnh, kết quả của luận văn
mà nghiên cứu sinh thực hiện có ñóng góp và có
giá trị khoa học thực sự”.
Cái tôi chung (private Self; còn gọi là cái tôi

viết hoa) là cái tôi có ñược nhờ sự ñánh giá từ
phía không phải mình. Ví dụ:
“Trong cô ấy hôm nay xinh thật!”.
“Mọi người nói từ khi có anh làm chủ tịch
công ñoàn, phong trào văn thể của trường ta khởi
sắc hẳn”.
2) Cái tôi ñộc lập (Independent self) là xu
hướng tự khẳng ñịnh bản thân của các nhân, theo
ñó, các cá nhân tồn tại như một thực thể ñộc lập,
không phụ thuộc vào nhóm hay tập thể. Ví dụ về
trường hợp tham gia chương trình giải trí trên
truyền hình và tự giới thiệu:
“Xin chào mọi người! Tôi xin tự giới thiệu: Tôi
là Minh, năm nay 32 tuổi, tiến sĩ, chưa lập gia
ñình”.
Việc xưng “tôi” và chỉ giới thiệu tên, tuổi, học
vị, trạng thái hôn nhân cho thấy bản lĩnh ñộc lập,
tự tin của người giới thiệu.
579


Ti u ban 4: Văn hóa trong ho t ñ ng gi ng d y ngo i ng th i kỳ h i nh p

Cái tôi tương trợ (Interdependent self) là xu
hướng mong muốn cá nhân ñược chấp nhận hài
hòa với cộng ñồng giao tiếp. Ví dụ trường hợp
tham gia chương trình giải trí trên truyền hình và
tự giới thiệu:
“Xin chào mọi người! Em xin tự giới thiệu: Em
là Phương, năm nay 23 tuổi, sinh viên, chưa lập

gia ñình. Em ñến từ Trường Đại học Hà Nội. Đây
là ngôi trường ñào tạo ngoại ngữ uy tín, nổi tiếng
của Việt Nam. Em ñến ñây tham gia chương trình
với tinh thần học hỏi. Rất mong ñược mọi người
ủng hộ, ñộng viên, cổ vũ cho em”.
Khác với cách giới thiệu của Minh, trong tự
cách giới thiệu, Phương xưng “em”, gắn mình với
nơi mình ñang công tác ñể giúp khẳng ñịnh bản
thân và tìm ñến sự hòa ñồng giữa bản thân với các
khán giả bằng lối nói khiêm tốn.
Thứ hai, cái tôi phản ánh vị trí nhóm cùng các
mối quan hệ của một cá nhân, theo ñó cái tôi bao
giờ cũng gắn với một nền văn hóa cụ thể. Khi
tham gia giao tiếp, cái tôi ñược bộc lộ, thể hiện
nền văn hóa ấy. Điều này giải thích vì sao, nguyên
lí cộng tác và nguyên lí lịch sự trong giao tiếp
ngôn ngữ ñược xây dựng từ tư liệu ngôn ngữ -văn
hóa phương Tây mặc dù ñược coi là phổ quát
nhưng có những ñiểm không phù hợp với ngôn
ngữ văn hóa phương Đông nói chung, giao tiếp
của người Việt nói riêng. Chẳng hạn, R. Lakoff
cho rằng, trong giao tiếp có hai nguyên lí tổ chức
ngôn ngữ: nguyên lí diễn ñạt rõ ràng và nguyên lí
lịch sự và nhấn mạnh rằng, trong các bối cảnh văn
hoá khác nhau sẽ có thể có sự thể hiện khác nhau
về phương thức nhưng về hình thức cơ bản là
giống nhau.
Nguyên lí diễn ñạt rõ ràng thuộc về nguyên lí
cộng tác (co-operative principle), gồm 4 quy tắc
là:1/ Lượng (quantity; thông tin ñưa ra phải thoả

mãn nhưng không nhiều so với yêu cầu của hội
thoại); 2/ Chất (quality; không nói những ñiều tin
là không ñúng và thiếu căn cứ, không có bằng
chứng xác thực); 3/ Quan hệ (be relevant; những
580

ñiều nói ra phải có liên quan ñến hội thoại); 4/
Cách thức (maner; diễn ñạt rõ ràng, khúc chiết, có
lí có tình; tránh tối nghĩa, tránh mập mờ).
Nguyên lí lịch sự gồm 3 quy tắc là, không áp
ñặt, ñể ngỏ sự lựa chọn và tăng cường tình cảm
bằng hữu:1/ Không áp ñặt (Don't impose) là
không áp ñặt ñối với người nghe, ñể người nghe
có thể hành ñộng theo ý muốn của mình); 2/ Để
ngỏ sự lựa chọn (Offer optionality) tức là ñể cho
người nghe tự quyết ñịnh, tránh ñược trách nhiệm
mang tính áp ñặt từ phía người nói); 3/ Thể hiện
tình bằng hữu (Encourage feeling of
cammaraderie) dùng trong giao tiếp bằng vai phải
lứa, trong quan hệ thân hữu, giao tiếp của những
người yêu nhau, của vợ chồng; tỏ ý quan tâm và
tin cậy ở nhau).
Nhìn vào giao tiếp của người Việt với tiếng
Việt với văn hóa Việt Nam, có thể thấy, người
Việt hay ñưa ra lời giải thích, nhận xét trước hoặc
sau nội dung cần thông tháo (ví dụ lời hỏi hoặc lời
ñáp) mà nếu chiểu theo nguyên lí cộng tác thì bị là
thừa do nói quá và theo lí thuyết lịch sự là không
lịch sự vì ñe dọa thể diện, áp ñặt phải theo, không
cho cơ hội lựa chọn. Ví dụ:

Ví dụ 1: Liễu và Hạnh cùng ñi siêu thị. Đến
siêu thị, Liễu phát hiện ra mình quên ví (không
mang tiền theo), và dưới ñây là cuộc ñối thoại của
họ xung quanh việc quên ví:

Liễu: “Mình quên mất ví rồi. Trước khi ñi mình
ñã cho tiền vào ví, thế nào, lúc thay ñồ mình lại
quên. Chán ơi là chán”.
Hạnh: “Lấy tiền của mình cũng ñược mà. Mình
mang nhiều. Hôm qua mới lĩnh ñược một khoản
tương ñối. Mình cũng chỉ ñịnh mua vài thứ thôi.
Thức ăn còn ñầy trong tủ. Mình chỉ mua vài thứ
lặt vặt thôi”
Liễu: “Ngại quá. Thôi cho mình mượn nhé. Về
tôi sẽ chuyển ngay cho bà. Ông xã mình dạo này
cũng ñang phất, vừa nộp thuế cao ngất ngưởng
cho hai mẹ con. Hi hi”


Chi n l c ngo i ng trong xu th h i nh p

Với nội dung cuộc thoại trên, Liễu chỉ cần hỏi
hạnh “có tiền cho mình vay” và hạnh trả lời “có và
ñồng ý cho vay” là ñủ. Nhưng cả hai ñều “vi
phạm” là “nói dài và thừa”, ñó là:
- Liễu thì cố gắng giải thích rằng: 1/Việc quên
tiền là không cố ý (chỉ là do thay ñồ); 2/ Nếu vay
tiền của Hạnh thì sẽ trả ngay (hứa sẽ trả ngay); 3/
Liễu có ñủ thậm chí thừa tiền ñể trả (vì chồng mới
chuyển tiền cho).

- Hạnh thì cố gắng nói rõ: 1/ Sẵn sàng cho vay
(lấy mà dùng; hào hiệp); 2/ Có ñủ tiền ñể cho vay
(mang nhiều tiền, nhưng chỉ mua lặt vặt); 3/ Chậm
trả cũng ñược (mới có ñược một khoản tiền).
Cách giao tiếp này thể hiện nét văn hóa Việt là
ưa giải thích, chứng minh thuyết phục người giao
tiếp nhằm giúp cho NGƯỜI hiểu TA bằng việc
thể hiện cái tôi của mỗi bên: ñối với Liễu chỉ là do
sơ xuất, nếu ñược vay thì có ñủ tiền ñể trả; ñối với
Hạnh thì sẵn sàng cho vay, không hẹp hòi gì và
việc cho vay không ảnh hưởng gì ñến kế hoạch
mua bán của mình, thậm chí “chậm trả” cũng
không sao.
Ví dụ 2: Bình tìm ñến nhà Hằng. Nhưng khi
ñến khu nhà Hằng ở, Bình không nhớ ñược số nhà
và lối vào. Bình liền ghé vào một quán nước cạnh
ñó và cất tiếng hỏi:

Bình: “Chị ơi, cho hỏi chút, chị có biết nhà
Hằng ở ñây không? Chỉ giúp em với. Lâu không
ñến nên không nhớ ra”.
Người bán quán: “Hằng nào? Đây nhiều Hằng
lắm. Có phải cái cô Hằng dạy ở trường gì ấy nhỉ
mới li hôn với chồng mà có ñứa con ñang học
mẫu giáo… nhà tầng 4, số 420. Hình như cô ấy
ñang ñi ñón con. Cậu cứ chờ một lát là cô ấy về
ñấy”.
Bình: “Ôi! Nhớ ra rồi, ñúng là 420. Đi cầu
thang 2. Thế chồng chị Hằng có hay về thăm con
không chị?”.

Người bán quán: “Chả thấy ñâu. Chỉ tội cho
thằng bé con. Thế cậu là thế nào với cô ấy”.

Tháng 11/2014

Bình: “Không có gì ñâu. Em cùng trường, ñến ñể
trao ñổi với Hằng về công việc thôi. Chào chị nhé”.
Cuộc thoại trên cho thấy, chỉ một chủ ñề “hỏi
ñịa chỉ” và “trả lời, cho biết ñịa chỉ” nhưng lại
“móc” vào ñó rất nhiều tình tiết tưởng như thừa
mà ngược lại là nét văn hóa Việt, ñó các cá thể
không thể tách khỏi cộng ñồng, tức trong TA có
NGƯỜI và trong NGƯỜI có TA:
- Bình: 1/ hỏi ñịa chỉ nhà Hằng; 2/ tỏ ra là
người quen Hằng (ñã dến nhưng quên số nhà); 2/
nhân cơ hội muốn tìm hiểu thêm cuộc sống riêng
của Hằng; 3/ tỏ ra rằng việc tìm gặp Hằng của
mình là trong sáng (giải thích “không có gì ñâu”;
thuần túy là công việc).
- Người bán nước: 1/ cho biết ñịa chỉ; 2/ tỏ ra
là mình biết rất rõ nhân vật Hằng (nghề nghiệp;
tình trạng gia ñình; hiện ñang làm gì); 3/ tìm hiểu
mối quan hệ của người ñang hỏi ñịa chỉ).
Thứ ba, câu hỏi ñặt ra là, phát huy cái tôi như
thế nào trong giao tiếp gắn với văn hóa của mỗi
cộng ñồng giao tiếp.
Như ñã nêu, cái tôi riêng-cái tôi chung, cái tôi
ñộc lập-cái tôi tương trợ là phổ quát chung cho
mọi nền văn hóa, tham gia vào và thể hiện trong
giao tiếp. Tuy nhiên, chúng ñược cụ thể hóa ở

từng nền văn hóa với nghĩa rộng của khái niệm
này: rộng là cộng ñồng lớn như khu vực, quốc gia,
dân tộc; hẹp là cộng ñồng nhỏ như tại một ñịa
phương, một nhóm người cụ thể. Chẳng hạn, nếu
tách văn hóa thế giới làm hai nửa Tây-Đông (văn
hóa phương tây và văn hóa phương Đông) thì theo
ñó, cái tôi trong giao tiếp cũng thể hiện khác nhau:
Văn hóa phương Tây luôn cổ súy cho tính tự
do, ñộc lập trong hành ñộng cá nhân và tự kiểm
soát cá nhân. Theo ñó, cái tôi ñộc lập ñược ñề cao.
Nói cách khác, nền văn hóa phương Tây ñề cao,
cổ súy chủ nghĩa cá nhân vì thế cái tôi ñộc lập nổi
trội hơn và thể hiện rõ trong giao tiếp. Đây là lí do
giải thích vì sao, trong quy tắc “không áp ñặt”
(Don't impose) thuộc nguyên lí lịch sự, từ cứ liệu
581


Ti u ban 4: Văn hóa trong ho t ñ ng gi ng d y ngo i ng th i kỳ h i nh p

ngôn ngữ phương Tây, R. Lakoff ñã cho rằng,
không áp ñặt ñối với người nghe, tức là, người
nghe có thể hành ñộng theo ý muốn của mình;
người nói không ñưa ra hoặc không thỉnh cầu về
những quan ñiểm riêng tư, tránh ñề cập ñến ñời
sống riêng tư (thu nhập, thói quen, tình yêu, hôn
nhân, giới tính, chính trị, tôn giáo, khó khăn về
kinh tế, bệnh tật,…); tránh sử dụng ngôn từ thô lỗ,
tục tằn, tránh dùng tiếng lóng, thổ ngữ.
Văn hóa phương Đông, với ảnh hưởng Nho

giáo, Phật giáo coi trọng giá trị chuẩn mực cộng
ñồng, nên chú trọng tới cái tôi tương trợ. Điều này
thể hiện trong các thành ngữ, các khuôn ngôn từ
ñịnh hình trong giao tiếp của người Việt luôn
nghiêng về cộng ñồng trong mối quan hệ chằng
chịt. Điều này ñược thể hiện trong các thành ngữ
tục ngữ và các cách diễn ñạt ñã thành khuôn
(stereotype) giao tiếp. Ví dụ:
ñánh chó ngó chủ; vuốt mặt nể mũi; bán anh
em xa mua láng giếng gần; một miếng giữa làng
bằng một sàng xó bếp; góc chiếu giữa ñình; xấu
chàng hổ em;

Hướng quan tâm ñến nơi tôi làm việc:
“Viện ngôn ngữ thầy có biết (một người cụ thể
nào ñó như GS. A, tiến sĩ B) không?”
“Viện Ngôn ngữ nghe nói ñang có vấn ñề phải
không?”
“Viện ngôn ngữ mà có cuốn Từ ñiển tiếng Việt
ấy à?”
“Viện Ngôn ngữ bây giờ ai làm viện trưởng
nhỉ?”
“Viện Ngôn ngữ có nhiều ñề tài không ạ?”
v.v.
Hướng quan tâm ñến cuộc sống của tôi:
“Cô cũng là giáo viên hả thầy?”
“Anh chị nhà thầy chắc trưởng thành rồi? Có
ai theo nghề của thầy không?”
“Thầy năm nay bao nhiêu tuổi rồi? Chắc thầy
cũng sắp về hưu rồi nhỉ?”

“Giáo sư như thầy chắc là lương cao lắm
nhỉ?”

Được như vậy thì gia ñình cũng mát mặt…..

“Thầy chắc hay ñi xa nhà lắm nhỉ?”

Làm xấu mặt họ hàng/cơ quan…..

v.v.

Có ñược/ñạt ñược như vậy là nhờ….
Văn hóa ñề cao cộng ñồng của người phương
Đông nói chung, người Việt Nam nói riêng, ñược
thể hiện trong giao tiếp hỏi han khi gặp nhau của
người Việt: Người Việt gặp nhau là hỏi thăm như
hỏi về tuổi, hỏi về tình trạng hôn nhân, hỏi về
cuộc sống gia ñình, hỏi về công việc, về mối quan
xã hội,… nói chung là, có thể hỏi tất cả những gì
liên quan ñến ñối tượng giao tiếp và coi ñó là việc
làm thu hẹp khoảng cách (D) liên nhân trong giao
tiếp. Ví dụ: Khi tham gia giảng dạy hay hội họp,
tôi thường nhận ñược sự quan tâm của một số
người với câu hỏi “Thầy ñang công tác ở ñâu ạ?”.
Sau khi trả lời rằng, tôi làm việc ở Viện Ngôn ngữ
học thì lập tức sẽ có các phát ngôn hỏi hoặc nhận
xét theo các “hướng”:
582

Cách giao tiếp theo kiểu quan tâm này là rất

bình thường ñối với người Việt, thậm chí, còn tỏ
ra thú vị, nhưng sẽ làm “nản lòng” những người
phương Tây cũng như những người Việt có xu
hướng Tây học. Vì thế, Phạm Thị Hồng Nhung
(2013) có lí khi cho rằng, trong giao tiếp của
người Việt, xu thế nghiêng về cái tôi tương trợ,
bởi, người Việt coi cái tôi tương trợ như một phần
của quan hệ xã hội và theo ñó hành vi của mình
chịu sự chi phối, sự nhìn nhận, ñánh giá của người
khác. Đến lượt mình, “người khác” này người
khác trở thành một thành tố bên trong ngữ cảnh
mà ở ñó mỗi cá nhân ñược nối kết ñiều chỉnh sao
cho thích nghi, phù hợp với cái chung. Đây cũng
là nguyên do của một cuộc tranh luận chưa có hồi
kết thúc về lịch sự (Politeness) trong giao tiếp khi


Chi n l c ngo i ng trong xu th h i nh p

mà có luồng ý kiến cho rằng, lịch sự của phương
Tây là lịch sự chiến lược, còn lịch sự phương
Đông là lịch sự chuẩn mực (Nguyễn Văn Khang,
2012). Theo chúng tôi, ñã là phổ quát thì cả hai
cái tôi (cái tôi cá nhân và cái tôi tương trợ) cũng
có cả hai kiểu kiểu lịch sự (lịch sự chuẩn mực và
lịch sự liến lược) luôn ñược xuất hiện trong giao
tiếp, tức là, không có “duy nhất” mà chỉ có “nổi
trội”. Theo ñó, cái tôi tương trợ (cái tôi viết hoa)
trong giao tiếp của người Việt tỏ ra nổi trội hơn.
Chẳng hạn, trở lại ví dụ giới thiệu ở trên, người

Việt khi giới thiệu ít khi chỉ nói ngắn gọn theo
kiểu phương Tây. So sánh cách tự giới thiệu giữa
hai nền văn hóa Tây-Đông:
Văn hóa phương Tây:
I’m Rose Smith. You can tell me Rose. I’m a
teacher. (* dẫn từ Nguyễn Thị Hồng Nhung, 2013)
Văn hóa phương Đông (Việt Nam):
B: Chào thầy!
A: Chị là….

Tháng 11/2014

thành tố ñược ñặc biệt chú trọng. Đã nói ñến văn
hóa thì không thể không nói ñến cái tôi, bởi cái tôi
gắn với giao tiếp. Vấn ñề còn lại là nên vận dụng
như thế nào? Ở ñây chúng tôi không bàn ñến vai
trò hay nội dung dạy-học cái tôi trong giao tiếp mà
chỉ chỉ nêu ra ñiều cần thảo luận, ñó là:
Khi giao tiếp bằng ngoại ngữ, có nhất thiết phải
triệt ñể theo cái tôi của nền văn hóa có ngôn ngữ
ñó hay có thể vận dụng linh hoạt trong giao tiếp,
tức là, giao tiếp bằng ngoại ngữ với cái tôi của nền
văn hóa mình. Cụ thể, người Việt có thể sử dụng
ngoại ngữ ñể giao tiếp theo kiểu văn hóa Việt
ñược không?
Như vậy, liên quan ñến cái tôi, sẽ có ba khả năng
xẩy ra trong giao tiếp bằng phi bản ngữ:
(1) Giao tiếng phi bản ngữ bằng chính nền văn
hóa của ngôn ngữ ñó.
(2) Giao tiếp phi bản ngữ bằng nền văn hóa của

người sử dụng ngoại ngữ.
(3) Giao tiếp phi bản ngữ có thể bằng nền văn
hóa của ngôn ngữ ñó pha trộn với nền văn hóa của
người sử dụng ngoại ngữ.

B: Dạ, Em là Hà. Thầy ñừng gọi em thế, em sợ
Phải chăng là phải tìm ñến (3) ñể có sự linh hoạt
lắm. Em là nghiên cứu sinh, học trò lười của thầy
Đại, bạn của thầy ấy mà. Thầy có hay gặp thầy trong sử dụng ngôn ngữ. Chẳng hạn:
Đại không ạ. Thầy Đại hay nhắc ñến thầy lắm ñấy.
Trở lại ví dụ “hỏi han” ở trên: có thể “hỏi han
Nhân vật nghiên cứu sinh tên là Hà ñã có chiến mọi thứ” bằng tiếng Anh khi với người Việt giao
lược trong giao tiếp, ñể kéo gần khoảng cách giao tiếp với nhau và không thể như thế khi giao tiếp
tiếp, làm cho thân mật hơn: 1/ Khéo ñề nghị thầy với người bản ngữ. Lí do là vì, chiến lược hội
thay ñổi cách xưng hô: hãy gọi là em, ñừng gọi là thoại khác nhau phản ánh hai quy ước văn hoá xã
chị; 2/ “móc nối” hay quy chiếu vào một mối quan hội khác nhau. Nếu không sẽ xẩy ra xung ñột.
hệ xã hội: mà “trung tâm” là thầy Đại). Sự quy
chiếu ở ñây chính là chỉ ra các mối liên hệ liên
quan, nhằm làm xích gần mối tương tác giao tiếp.
Có thể nói, giao tiếp gắn với cái tôi, mà cái tôi
là sự thể hiện của một nền văn hóa. Ví thế, có thể
thông qua ñó hiểu ñược hành vi giao tiếp trong
những nền văn hóa ñó.
3. Trong dạy và học ngôn ngữ nói chung, ngoại
ngữ nói riêng, không thể không quan tâm ñến văn
hóa, thậm chí còn dành cho văn hóa sự quan tâm
ñặc biệt. Nhất là ñối với ngoại ngữ, văn hóa là một

Một ví dụ khác, Linda Wai Liyong (1982) ñã
tiến hành nghiên cứu sự xung ñột tương tác lời nói

giữa dân tộc nói tiếng Hán và dân tộc nói tiếng
Anh và tác giả ñã có những phát hiện như sau:
- Trong câu phức của tiếng Hán, nguyên nhân
ở trước, kết luận hoặc luận ñiểm trung tâm ở sau.
Còn trong tiếng Anh thì ngược lại. So sánh:

如果 X 那?么/就 Y

Tiếng Hán:
thì
Y
Tiếng Anh: Y
Y…..

if

X

: Nếu X

: Y….. nếu

583


Ti u ban 4: Văn hóa trong ho t ñ ng gi ng d y ngo i ng th i kỳ h i nh p

Qua ñiều tra, tác giả ñã chỉ ra nguyên nhân của
sự khác nhau này:
- Người Trung Quốc ñề cao sự hoà hợp, cố

gắng tránh “cọ sát” lẫn nhau. Việc tránh sự lỗ
mãng có thể xảy ra ở bản thân ñể ép buộc, làm cho
khách thể giao tiếp khó nghĩ, khó xử. Chiến lược
tránh sự ép buộc hoặc thể hiện sự tôn trọng chính
là lịch sự âm mà S. Levison ñã nêu ra.
- Về quan niệm “thể diện”, do sợ khách thể
giao tiếp không ñồng ý cho nên nêu trước lí do, ñể
cho khách thể giao tiếp có “khoảng trống” suy
nghĩ và khi nào cảm thấy chín muồi mới ñề xuất
yêu cầu.
- Về chiến lược giao tiếp, nếu ñề xuất yêu cầu
trước sau nó nêu lí do thì có thể có khả năng
không gây ñược chú ý.

chúng tôi muốn trao ñổi trong dạy-học ngoại ngữ
hiện nay. Đó là việc “thực tế hóa” dạy học ngoại
ngữ trong bối cảnh toàn cầu hóa với sự ña dạng,
cởi mở về văn hóa, cởi mở trong sử dụng ngôn ngữ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
1. Nguyễn Văn Khang, Ngôn ngữ học xã hội. Nxb
Giáo dục Việt Nam, 2013.
2. Phạm Thị Hồng Nhung, Xu thế nghiêng về cái tôi
tương trợ trong giao tiếp của người Việt, Ngôn ngữ số
2, 2013
3. Triandis Triandis H.C, The self and social
behaviour in differing cultural contexts, Psychological
Review, 96 (3), 506-520, 1989.
4. Lustig, M.W.& Koester, J. (2010). Intercultural
Competence: interpersonal communication across
cultures. Person Education, 2010.

5. Penbek, S.et al., Intercultural Competence: A Study
about the Intercultural Sensitivity of University
Students Based on their Education and International
Experiences. EMOIS, 2009.

Cũng theo Linda Wai Liyong, cách nói nêu lí
do trước, sau ñó mới nêu yêu cầu của người Trung
Quốc làm cho những người Anh nói tiếng Anh khi
giao tiếp với người Trung Quốc cảm thấy rất khó
nắm bắt ñược ý ñồ của người Trung Quốc.

6. Ting-Toomy,
S.,
Communication
Across
Cultures.The United States of America: The Guilford
Press, 1999.

Ba khả năng xẩy ra trong giao tiếp bằng phi
bản ngữ nêu trên liên quan ñến cái tôi cũng là ñiều

8. />
584

7. />


×