Ti u ban 3: Đào t o ti ng Vi t nh m t ngo i ng cho ng i n c ngoài
CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO VÀ GIÁO TRÌNH GIẢNG DẠY TIẾNG VIỆT
CHO NGƯỜI NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Nguy n Th Thanh Xuân
Trường Đại học Hà Nội
Tóm t t: Với quan ñiểm hội nhập quốc tế không
thống và hầu như chưa có sự kiểm ñịnh chất lượng,
phải chỉ ñể “nhận” mà còn ñể “cho”, chúng ta cần phải
ñánh giá thống nhất. Trên thực tế, ở Việt Nam, chưa hề
tích cực, chủ ñộng giới thiệu, quảng bá ñể bạn bè thế
có bất kì một chương trình tiếng Việt chuẩn nào dành
giới hiểu hơn về Việt Nam. Trong vô vàn cách quảng
cho người nước ngoài. Và khi cái gốc này ñã không có
bá thì quảng bá thông qua ngôn ngữ, có thể nói, là một
thì tất cả những gì dựa vào nó cũng ñều chỉ mang tính
trong những con ñường hiệu quả và mang tính “bền
“tạm thời”. Theo ñó, việc phân chia trình ñộ (A, B, C
vững” hơn cả.
hay Sơ cấp, Trung cấp, Cao cấp, nâng cao...) xét cho
Có thể nói, hiện nay, số người nước ngoài ñến học
tập, nghiên cứu và làm việc ở Việt Nam có nhu cầu học
tiếng Việt ngày càng nhiều hơn. Ngôn ngữ chính là
công cụ có vai trò như một chiếc cầu nối, là chìa khoá
giúp họ- những người nước ngoài ñến từ những nền
văn hoá khác, ñến với Việt Nam, ñi sâu nghiên cứu
Việt Nam. Trong bài viết này, trước hết tôi muốn trình
bày một số nhận xét (có thể phần nào mang tính chủ
cùng, cũng là vô căn cứ. Mỗi ñơn vị tự ñịnh ra một
“chuẩn”, người học học hết sách này ñược coi là hết
trình ñộ A, hết sách kia ñược coi là hết B hay C; bài
thi/kiểm tra ñánh giá trình ñộ cũng mỗi nơi một kiểu.
Đối với ñối tượng người nước ngoài muốn học tại các
trường ñại học ở Việt Nam, chúng ta cũng hoàn toàn
không có hệ thống ñánh giá, cấp chứng chỉ theo một
chuẩn nhất ñịnh.
quan) về thực trạng chương trình ñào tạo và một số
Thiết nghĩ, ñã ñến lúc chúng ta không phải chỉ quan
vấn ñề liên quan ñến tài liệu giảng dạy tiếng Việt cho
tâm ñến “bề rộng” mà còn phải chú trọng ñến “chiều
người nước ngoài ở Việt Nam hiện nay, cũng như ñưa
sâu” của công tác này.
ra một số kiến nghị cho vấn ñề này.
Abstract: As international integration refers to not
Thực tế cho thấy, trong thời gian qua, các cơ sở
only “receiving” but also “giving”, we need active
ñào tạo tiếng Việt ñã rất cố gắng trong việc ñào tạo
introduction and promotion for foreigners to have better
theo những thế mạnh riêng của mình. Tuy nhiên, ñiều
understandings
chúng ta dễ nhận thấy ngay là chương trình ñào tạo
promotions, it can be said that language is one of the
không có một sự chuẩn hóa nào ñang ñược thực hiện
most effective and sustainable ways to promote.
tràn lan. Đành rằng khi “có cung thì sẽ có cầu”, ñành
rằng lợi nhuận cũng là yếu tố quan trong trong lĩnh vực
ñào tạo hiện nay, nhưng việc chuẩn hóa chương trình
ñào tạo tiếng Việt cho người nước ngoài ñể có ñược
một chương trình thống nhất cho các cơ sở ñào tạo,
tiến tới thực hiện một chiến lược ñào tạo chuyên
nghiệp, lâu dài là vô cùng cần thiết.
about
Vietnam.
Among
various
It can be said that nowadays, more and more
foreigners coming to Vietnam for study, research and
work demand for learning Vietnamese. Language is a
tool which acts as a bridge, a key to help them –
foreigners from other cultures to explore Vietnam. In
this article, the author would like to provide some
comments (which are somehow subjective) on current
Để ñảm bảo chất lượng ñào tạo cho sinh viên thì
situation of training programs and some issues relevant
giáo trình là một yếu tố rất quan trọng quyết ñịnh sự
to Vietnamese teaching materials for foreigners, as well
thành công hay không của chương trình. Thực trạng về
as to introduce some recommendations.
giáo trình và tài liệu giảng dạy tiếng Việt cho người
nước ngoài ở Việt Nam hiện nay, theo ñánh giá của
chúng tôi thì vừa thừa, vừa thiếu, vừa không có hệ
506
In fact, Vietnamese training institutions have made
bold attempt in providing training based on their own
strengths. However, it can be easily noticed that non-
Chi n l c ngo i ng trong xu th h i nh p
Tháng 11/2014
standardized training programs are used widely.
Despite the fact that where this is a demand, there is a
supply, and that profit is an important factor in training
sector
nowadays,
standardize
it
is
Vietnamese
extremely
training
necessary
programs
to
for
foreigners to design a consistent program for all
Vietnamese training institutions, a basic to implement a
long-term and professional training strategy.
It is assessed that the current Vietnamese teaching
materials and curriculum for foreigners in Vietnam are
not systemized and evaluated properly. In fact, in
Vietnam, there is no standardized Vietnamese training
program for foreigners. As a result, everything is
“temporary”. The competence division (A, B, C or pre-
intermediate,
intermediate,
upper-intermediate,
advanced…) seems clueless. Each institution sets up
its own standards, the number of books learnt is used
to assess learners’ competence; tests/evaluations are
different in each area. We do not have any
standardized assessment system for Vietnamese-
majored foreign students. It is time for us not only to pay
attention to the “width” but also the “depth” of this issue.
1. Đặt vấn ñề
Trong xu thế hội nhập, toàn cầu hóa mạnh mẽ
như hiện nay, các trường ñại học trên thế giới
ñang cạnh tranh gay gắt trong việc tuyển sinh sinh
viên quốc tế vì hai mục ñích giáo dục và lợi ích
kinh tế. Theo ñó, giáo dục ñại học “xuyên biên
giới” là hướng ñi tất yếu trong bối cảnh giáo dục
mới ngày nay.Khi ñã là thành viên chính thức của
WTO, giáo dục của Việt Nam cũng không thể
năm ngoài xu hướng tất yếu ñó.
Như chúng ta ñều biết, sau gần ba mươi năm
mở cửa, Việt Nam ñã và ñang hội nhập mạnh mẽ
với thế giới và cũng ngày càng ñược thế giới biết
ñến và quan tâm ñến nhiều hơn. Điều này thể hiện
rất rõ trên tất cả các lĩnh vực của ñời sống xã hội,
kể cả trong lĩnh vực nghiên cứu học thuật.
Số người nước ngoài ñến học tập, nghiên cứu
và làm việc ở Việt Nam có nhu cầu học tiếng Việt
cũng nhiều hơn bao giờ hết. Có thể nói, ngôn ngữ
chính là công cụ có vai trò như một chiếc cầu nối,
là chìa khoá giúp họ- những người nước ngoài ñến
từ những nền văn hoá khác, ñến với Việt Nam, ñi
sâu vào nghiên cứu Việt Nam.
Với quan niệm “mở cửa”, “hội nhập” không
phải chỉ ñể “nhận” mà còn ñể “cho”, chúng ta cần
phải tích cực, chủ ñộng giới thiệu, quảng bá về ñất
nước mình ñể bạn bè thế giới hiểu hơn về Việt
Nam. Trong vô vàn cách quảng bá thì quảng bá
thông qua ngôn ngữ, có thể nói, là một trong
những con ñường hiệu quả và mang tính “bền
vững” hơn cả. Thế giới, vũ trụ là khách quan,
nhưng mỗi dân tộc lại có cách nhìn nhận, chia cắt
thế giới theo cách riêng của mình và ngôn ngữ của
mỗi dân tộc là nơi ñịnh hình cái nhãn quan mang
bản sắc của dân tộc ñó. Do vậy, học một ngôn ngữ
là biết thêm một nền văn hóa, bởi ngôn ngữ chính
là tấm gương phản ánh ñặc trưng văn hóa dân tộc.
Trở lại với nhận ñịnh nêu trên, ñể “hội nhập”,
chúng ta cần phát triển, mở rộng hơn nữa việc dạy
tiếng Việt cho người nước ngoài. Thực tế cho thấy
số lượng các trung tâm dạy tiếng Việt ở trong
nước và nước ngoài cũng như số người có nhu cầu
học có xu hướng ngày càng tăng; số giáo trình, tài
liệu giảng dạy, hỗ trợ giảng dạy và học tiếng Việt
cũng tăng lên, nhưng sự “bùng nổ” này có vẻ như
theo kiểu “mạnh ai người nấy làm”, mỗi người
một kiểu, phục vụ mục ñích riêng của mình.
Trong bài viết này, trước hết tôi muốn trình
bày một số nhận xét, có thể phần nào mang tính
chủ quan, về thực trạng chương trình ñào tạo và
một số vấn ñề liên quan ñến tài liệu giảng dạy
tiếng Việt cho người nước ngoài ở Việt Nam hiện nay,
cũng như ñưa ra một số kiến nghị cho vấn ñề này.
2. Nội dung
2.1. Thực trạng về chương trình ñào tạo
tiếng Việt cho người nước ngoài ở Việt Nam
hiện nay
Ngay sau khi ñất nước bước vào thời kỳ ñổi
mới, do nhu cầu học tiếng Việt, tìm hiểu về Việt
Nam của người nước ngoài ngày càng tăng, ở Việt
Nam ñã xuất hiện nhiều trung tâm giảng dạy tiếng
Việt cho người nước ngoài. Mô hình dạy tiếng
Việt thời gian ñầu là lớp học một thầy, một trò;
giáo trình giảng dạy tiếng Việt lúc ñó còn rất hiếm,
507
Ti u ban 3: Đào t o ti ng Vi t nh m t ngo i ng cho ng i n c ngoài
chủ yếu là do các trung tâm tiếng Việt tự biên soạn.
Hiện nay, tại nhiều cơ sở ñào tạo, chương trình
tiếng Việt ñã ñược phân chia thành Tiếng Việt cơ
sở trình ñộ A, Tiếng Việt trung cấp trình ñộ B,
Tiếng Việt nâng cao trình ñộ C, Tiếng Việt chuyên
sâu theo các kỹ năng (nghe, nói, ñọc, viết), Tiếng
Việt chuyên ngành (ngôn ngữ học, lịch sử, văn
hóa, văn học nghệ thuật,...).
Ngoài ra, một số cơ sở ñào tạo còn giới thiệu
các khóa học tiếng Việt cho người nước ngoài
(Tiếng Việt sơ cấp, Tiếng Việt trung cấp, Tiếng
Việt cao cấp, Tiếng Việt ñàm thoại cấp tốc 3
tháng, Tiếng Việt cho người nội trợ, tiếng Việt dự
bị ñại học cho sinh viên nước ngoài).
Trong khoảng mười năm trở lại ñây, việc dạy
và học tiếng Việt ñã bước sang một giai ñoạn mới
khi các cơ sở ñào tạo không dừng lại ở các khóa
học ngắn hạn và trung hạn nữa mà còn có cả
chương trình cử nhân chính quy dài hạn hệ 0+4,
1+3, 2+2 (sinh viên ñược ñào tạo tại chính ñất
nước của họ một thời gian theo quy ñịnh và thời
gian còn lại học tại Việt Nam). Đối tượng sinh
viên học hệ cử nhân chính quy là sinh viên ngành
Việt Nam học ở nhiều nước trên thế giới, nhưng
chủ yếu là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc,
Thái Lan, Ba Lan, Nga.
Sau khi Bộ Giáo dục và Đào tạo thông qua và
cho triển khai thực hiện ñào tạo ñại học Việt Nam
học (1997) và ñặc biệt là khi Bộ Giáo dục ban
hành văn bản cho phép các trường ñại học cao
ñẳng phát triển ngành ñào tạo Khu vực học trong
ñó có Việt Nam học (2003) thì số trường ñại học
và cao ñẳng ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam mở
mã ngành Việt Nam học ngày càng tăng. Dù học
hệ ñào tạo nào thì việc học tiếng Việt cũng là
ñiểm khởi ñầu của những người nước ngoài quan
tâm ñến Việt Nam và tiếng Việt. Cho ñến nay, tại
Việt Nam ñã có rất nhiều cơ sở ñào tạo Việt Nam
học và tiếng Việt cho người nước ngoài hệ cử
nhân. Tuy nhiên, chương trình ñào tạo tại tất cả
các cơ sở ñào tạo không mấy thống nhất do Việt
Nam học là một ngành mới và quan niệm của các
cơ sở ñào tạo về giảng dạy Việt Nam học và tiếng
Việt cho lưu học sinh có sự khác nhau cho nên
508
việc thiết kế chương trình cũng khác nhau. Qua
quan sát và tập hợp tư liệu, chúng tôi nhận thấy
chương trình giảng dạy cho người nước ngoài tại
Việt Nam hiện ñang ñi theo mấy hướng chính sau:
- Chương trình ñào tạo thiên về du lịch
- Chương trình ñào tạo thiên về ngôn ngữ
- Chương trình ñào tạo thiên về văn hóa-xã hội
- Chương trình ñào tạo tiếng Việt như một
ngoại ngữ theo ñịnh hướng nghề nghiệp
Có thể nói, trong thời gian qua, các cơ sở ñào
tạo tiếng Việt ñã rất cố gắng trong việc ñào tạo
theo những thế mạnh riêng của mình. Tuy nhiên,
ñiều chúng ta dễ nhận thấy ngay là chương trình
ñào tạo không có một sự chuẩn hóa nào ñang ñược
thực hiện tràn lan, thực hiện ở bất cứ cơ sở ñào tạo
nào có học viên nước ngoài muốn học tiếng Việt.
Đành rằng khi “có cung thì sẽ có cầu”, ñành rằng
lợi nhuận cũng là yếu tố quan trong trong lĩnh vực
ñào tạo hiện nay, nhưng việc chuẩn hóa chương
trình ñào tạo tiếng Việt cho người nước ngoài ñể
có ñược một chương trình thống nhất cho các cơ
sở ñào tạo, tiến tới thực hiện một chiến lược ñào
tạo chuyên nghiệp, lâu dài là vô cùng cần thiết.
2.2. Thực trạng về giáo trình, tài liệu giảng
dạy tiếng Việt cho sinh viên nước ngoài ở Việt
Nam hiện nay
Để ñảm bảo chất lượng ñào tạo cho sinh viên
thì giáo trình là một yếu tố rất quan trọng quyết
ñịnh sự thành công hay không của chương trình.
Thực trạng về giáo trình và tài liệu giảng dạy
tiếng Việt cho người nước ngoài ở Việt Nam hiện
nay, theo ñánh giá của chúng tôi thì vừa thừa, vừa
thiếu, vừa không có hệ thống và hầu như chưa có
sự kiểm ñịnh chất lượng, ñánh giá thống nhất.
Trong một bài viết ñề cập ñến vấn ñề này tại Hội
thảo về nghiên cứu, ñào tạo Việt Nam học và
tiếng Việt nhân kỷ niệm 45 năm thành lập Khoa
Việt Nam học và tiếng Việt của Trường ĐH
KHXH và NV, chúng tôi cũng ñã từng ñề cập ñến
vấn ñề này (7). Cụ thể, chúng tôi tạm chia số
lượng giáo trình, tài liệu hiện ñang ñược dùng ñể
giảng dạy tại các cơ sở ñào tạo tiếng Việt theo hai
loại chính sau ñây:
Chi n l c ngo i ng trong xu th h i nh p
Thứ nhất là giáo trình thực hành tiếng Việt. Có
thể nói, ñây là loại giáo trình ña dạng nhất tại Việt
Nam hiện nay. Các giáo trình này ñược các soạn
giả chia theo trình ñộ A, B, C và nâng cao hay còn
gọi là giáo trình tiếng Việt trình ñộ sơ cấp, trung
cấp và cao cấp dành cho sinh viên nước ngoài. Về
loại giáo trình này, chúng tôi có thể kể ñến hàng
trăm giáo trình khác nhau của các soạn giả cả
trong và ngoài nước. Với số lượng giáo trình lớn
như vậy, các cơ sở ñào tạo có thể dễ dàng lựa
chọn giáo trình phù hợp với ñối tượng sinh viên
của mình. Tuy nhiên, sau khi lựa chọn giáo trình
và sử dụng một thời gian, nếu cảm thấy không phù
hợp hoặc phát hiện ra một số lỗi của giáo trình, cơ
sở ñào tạo sẽ ñưa ngay ra giải pháp là chuyển sang
dùng giáo trình khác ñể thay thế hoặc là tự copy ý
tưởng của một số giáo trình và “chế biến” thành
giáo trình của riêng mình ñể tiện sử dụng. Từ thực
trạng ñó, chúng ta có thể thấy loại giáo trình thực
hành tiếng Việt tuy có ña dạng nhưng cũng chưa
phải là ñã ñáp ứng ñược hoàn toàn nhu cầu giảng
dạy và học tập tiếng Việt cơ bản hiện nay.
Thứ hai là loại giáo trình tiếng Việt chuyên
ngành và một số tài liệu lưu hành nội bộ khác do
chính các thầy cô giáo tham gia giảng dạy tại các
cơ sở ñào tạo tự biên soạn ñể giảng dạy do những
giáo trình thuộc loại này hiện có không ñáp ứng
ñược nhu cầu giảng dạy và học tập.
Thông qua việc thống kê các giáo trình giảng
dạy tiếng Việt hiện nay thuộc hai loại trên, chúng
tôi tạm chia số lượng sách giảng dạy tiếng Việt
hiện có theo cách thức trình bày gồm 06 nhóm sau:
Nhóm thứ nhất: Không phân chia trình ñộ mà
chỉ ñặt tên sách
Những cuốn giáo trình ñược trình bày theo
cách thức này bao gồm: Tiếng Việt cho người
nước ngoài, Tiếng Việt thực hành (Dùng cho
người nước ngoài), Thực hành tiếng Việt (Dùng
cho người nước ngoài), Chương trình ñào tạo
tiếng Việt cho người nước ngoài hệ ngắn hạn [Bùi
Phụng (chủ biên), Tiếng Việt cho người nước
ngoài, Nxb Giáo dục, 1992; Đinh Thanh Huệ (chủ
biên), Tiếng Việt thực hành (Dùng cho người
nước ngoài), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 1997;
Tháng 11/2014
Khoa Việt Nam học và tiếng Việt, Trường ñại học
Khoa học xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN:
Chương trình ñào tạo tiếng Việt cho người nước
ngoài hệ ngắn hạn; Mai Ngọc Chừ, Tiếng Việt
cho người nước ngoài, Nxb Giáo dục, 1995;
Nguyễn Anh Quế, Tiếng Việt cho người nước
ngoài, Nxb Văn hóa thông tin; Nguyễn Việt
Hương, Thực hành tiếng Việt (dùng cho người
nước ngoài), Nxb Giáo dục, 1996].
Đặc ñiểm về trình ñộ của các sách dạy tiếng
Việt loại này là ñều ñi từ trình ñộ của người bắt
ñầu học tiếng Việt, nhưng nếu xếp theo thang
trình ñộ thì mức trình ñộ tiếng Việt trong mỗi
cuốn sách trên cũng khác nhau (dung lượng từ
vựng cao thấp khác nhau, dung lượng ngữ pháp
cao thấp khác nhau). Nói chung là tên gọi của các
cuốn sách trên ñều theo cùng một kiểu là “Tiếng
Việt cho người nước ngoài” hoặc là “Thực hành
tiếng Việt (Dùng cho người nước ngoài)” và trình
ñộ từ ñầu sách ñều ñi từ trình ñộ cho người bắt
ñầu học tiếng Việt nhưng mức trình ñộ tiếng Việt
trong các cuốn sách không có sự thống nhất, bởi
mỗi tác giả ñều viết theo tiêu chí riêng của mình,
mỗi cuốn sách dạy tiếng Việt là một công trình
ñộc lập, không liên quan ñến nhau và cũng không
theo một chuẩn chung nào.
Nhóm thứ hai: Không phân chia theo trình ñộ
mà chỉ phân bộ sách theo tập
Đây là cách phân chia của nhóm tác giả viết
sách dạy tiếng Việt cho người nước ngoài do
Nguyễn Văn Huệ chủ biên [Nguyễn Văn Huệ (chủ
biên), Giáo trình tiếng Việt cho người nước ngoài,
Nxb Giáo dục, 2003 (tập 1, tập 2, tập 3, tập 4, tập
5, tập 6)].
Nhóm thứ ba: Phân chia theo 2 trình ñộ
Những giáo trình thuộc nhóm này bao gồm
Tiếng Việt trình ñộ cơ sở và Tiếng Việt trình ñộ
nâng cao [Nguyễn Văn Phúc (chủ biên), Tiếng
Việt cho người nước ngoài (chương trình cơ sở elementary level), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,
2004; Vũ Văn Thi, Tiếng Việt cơ sở, Nxb Khoa
học xã hội, 1996; Trịnh Đức Hiển (chủ biên),
Tiếng Việt cho người nước ngoài (trình ñộ nâng
509
Ti u ban 3: Đào t o ti ng Vi t nh m t ngo i ng cho ng i n c ngoài
cao), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005; Vũ Thị
Thanh Hương (chủ biên), Tiếng Việt nâng cao
(Dành cho người nước ngoài), Nxb Khoa học xã
hội, 2004; Nguyễn Thiện Nam, Tiếng Việt nâng
cao (cho người nước ngoài – quyển I), Nxb Giáo
dục, 1998].
Trong phần lời nói ñầu của các sách Tiếng Việt
trình ñộ nâng cao, các tác giả ñều nói rằng cuốn
sách dạy tiếng Việt trình ñộ nâng cao là cuốn sách
tiếp theo của cuốn sách tiếng Việt trình ñộ cơ sở,
sau khi người học học xong chương trình tiếng
Việt cơ sở thì sẽ có thể tiếp tục học cuốn sách
tiếng Việt trình ñộ nâng cao. Nhưng cách phân
chia trình ñộ này cũng chỉ mang tính tương ñối,
bởi các tác giả viết các sách dạy tiếng Việt trình
ñộ cơ sở và các sách dạy tiếng Việt trình ñộ nâng
cao ñều là các nhóm tác giả khác nhau và tiêu chí
cá nhân của các tác giả ñều thể hiện rõ trong các
cuốn sách. Mức trình ñộ tiếng Việt của các cuốn
sách tiếng Việt trình ñộ cơ sở ñều khác nhau và
mức trình ñộ tiếng Việt của các cuốn sách tiếng
Việt trình ñộ nâng cao cũng khác nhau. Và cách
phân chia này cũng chỉ là cách phân chia do các
tác giả tự ñặt ra một cách tương ñối chứ cũng
không theo một chuẩn chung nào.
Nhóm thứ tư: Phân chia theo 3 trình ñộ
Những giáo trình thuộc nhóm này bao gồm:
Tiếng Việt trình ñộ A (tập 1), Nxb Thế giới, 2003;
Đoàn Thiện Thuật (chủ biên), Tiếng Việt trình ñộ
A (tập 2), Nxb Thế giới, Hà Nội, 2000; Đoàn
Thiện Thuật (chủ biên), Thực hành tiếng Việt
(trình ñộ B), Nxb Thế giới, 2001; Đoàn Thiện
Thuật (chủ biên), Thực hành tiếng Việt (trình ñộ
C), Nxb Thế giới, 2001].
Đây là cách phân chia trình ñộ của nhóm tác
giả viết sách dạy tiếng Việt cho người nước ngoài
do G.S Đoàn Thiện Thuật chủ biên. Trong phần
Lời nói ñầu của cuốn sách Tiếng Việt trình ñộ A
(tập 1) và Tiếng Việt trình ñộ A (tập 2), tác giả
cũng nói rõ rằng hai cuốn Tiếng Việt trình ñộ A
này không phải là hai cuốn sách tiếp theo trong bộ
sách của hai cuốn Thực hành tiếng Việt (trình ñộ
B), và Thực hành tiếng Việt (trình ñộ C) ñã viết
trước ñó mà nằm trong hệ thống mới, nhưng cách
510
phân chia trình ñộ theo kiểu Tiếng Việt trình ñộ A,
Tiếng Việt trình ñộ B, Tiếng Việt trình ñộ C là
cách phân chia mà nhóm tác giả này ñưa ra ñầu
tiên trong giới Việt ngữ. Tuy vậy, cách phân chia
này cũng chỉ mang tính chất tương ñối, có ý nghĩa
là các trình ñộ nằm trong một hệ thống từ thấp ñến
cao nhưng cũng không theo một chuẩn chung nào.
Nhóm thứ năm: Phân chia theo 3 trình ñộ
tương ñương với thuật ngữ tiếng Anh tương ứng
là Beginner, Intermediate, Contemporary reading,
[Nguyễn Bích Thuận, Spoken Vietnamese for
beginners, Northern Illinois University – Center
for Southeast Asian Studies, 1997; Nguyễn Bích
Thuận,
Contemporary
Vietnamese
(An
intermediate text), Northern Illinois University –
Center for Southeast Asian Studies, 1997; Nguyễn
Bích Thuận, Contemporary Vietnamese readings,
Northern Illinois University – Center for
Southeast Asian Studies, 1997].
Đây là cách phân chia trình ñộ của tác giả
Nguyễn Bích Thuận cho bộ sách dạy tiếng Việt
cho người nước ngoài của tác giả, và ñây cũng là
cách phân chia theo tiêu chí cá nhân của tác giả và
cũng lại không theo một chuẩn chung nào.
Tác giả Dana Healy, trong cuốn Vietnamese a
complete course for beginners (Nxb Thành phố
Hồ Chí Minh, 2001) cũng ñặt tên trình ñộ cho
sách theo kiểu của Nguyễn Bích Thuận, nhưng
mức trình ñộ tiếng Việt trong hai cuốn sách cho
trình ñộ Beginner của hai tác giả cũng khác nhau.
Nhóm thứ sáu: Viết theo các kỹ năng riêng
Giáo trình thuộc nhóm này bao gồm: Annie
Heaton (chủ biên), An Introduction to everyday
Vietnamese, VOS Vietnam; Hwang Gwi Yeon –
Trịnh Cẩm Lan – Nguyễn Khánh Hà, Bài ñọc
tiếng Việt nâng cao (Dành cho người nước ngoài),
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004; Mai Ngọc
Chừ, Học tiếng Việt trong hai tháng, Nxb Thế giới,
HN 1997; Nguyễn Anh Quế - Hà Thị Quế Hương,
Tiếng Việt trong giao dịch thương mại, Nxb Văn
hóa thông tin, HN 2000; Đoàn Thiện Thuật
(Editor-in-chief), A concise Vietnamese grammar,
Nxb Thế giới, 2001].
Chi n l c ngo i ng trong xu th h i nh p
Sau khi ñiểm lại và phân tích các cách phân
chia trình ñộ của các tài liệu, sách dạy tiếng Việt
cho người nước ngoài hiện ñang sử dụng trong và
ngoài nước, chúng tôi có một kết luận chung là
các cách phân chia trình ñộ trong sách dạy tiếng
Việt ñó ñều mang tính tương ñối và ñều theo tiêu
chí riêng do các tác giả viết sách tự ñặt ra chứ
không theo một chuẩn chung nào.
Cuối cùng, ñiều chúng tôi muốn nhấn mạnh ở
ñây là giáo trình, tài liệu hiện ñang ñược sử dụng
ñể ñào tạo tiếng Việt cho người nước ngoài hiện
còn quá nhiều vấn ñề cần phải giải quyết và ñưa ra
giải pháp cấp bách.
2.3. Thực trạng về tình hình kiểm tra ñánh
giá năng lực tiếng Việt dành cho người nước
ngoài tại Việt Nam
Những năm gần ñây, trong nghiên cứu Việt
ngữ, hướng nghiên cứu gắn với việc dạy tiếng
Việt cho người nước ngoài có xu hướng ngày
càng tăng cả về số lượng và chất lượng. Đã có rất
nhiều bài viết và công trình ñề cập ñến lĩnh vực
này. Năm 2004, một Hội thảo ñặc biệt có tên
Tiếng Việt và Phương pháp dạy tiếng ñã ñược
Khoa Tiếng Việt và Văn hóa Việt Nam cho người
nước ngoài (Đại học Khoa học xã hội và Nhân
văn- Đại học Quốc gia Hà Nội) và Khoa Việt Nam
học và Tiếng Việt cho người nước ngoài (Đại học
Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) phối hợp tổ
chức tại Hà Nội. Vấn ñề mà các bài viết tham gia
Hội thảo ñặt ra rất ña dạng, hữu ích cho công tác
dạy tiếng. Nhưng ñáng tiếc, việc làm thế nào ñể
xây dựng một khung chương trình chuẩn tiếng
Việt cho người nước ngoài lại không ñược ñề cập.
Và khi mà Việt Nam chưa có một khung chương
trình chuẩn ñược quốc gia và quốc tế công nhận
(bao gồm chuẩn về khối lượng kiến thức và chuẩn
về kĩ năng) thì việc có một hệ thống kiểm tra
chuẩn ñể ñánh giá năng lực tiếng Việt dành cho
người nước ngoài ñương nhiên cũng vẫn là một ô
trống. Thực tế, khung chương trình chuẩn có vai
trò nền móng, và khi cái gốc này không có thì tất
cả những gì ñược xây dựng dựa vào nó ñều chỉ
mang tính “tạm thời”. Theo ñó, việc chia trình ñộ
Tháng 11/2014
A, B, C hay Sơ cấp, Trung cấp, Cao cấp, Hoàn
thiện), xét cho cùng, cũng là tuỳ tiện. Mỗi ñơn vị,
mối cơ sở ñào tạo tự ñịnh ra một chuẩn, người học
học hết sách này ñược coi là hết trình ñộ A, hết
sách kia ñược coi là hết trình ñộ B hay C. Theo ñó
thì bài kiểm tra, bài thi cũng mỗi nơi một kiểu.
Trên thực tế, việc chưa có một hệ thống kiểm
tra ñánh giá chuẩn năng lực tiếng Việt dành cho
người nước ngoài mang tầm quốc gia và quốc tế
ñã và ñang gây ra nhiều bất cập. Mới ñây (tháng 5
năm 2014), Trường Đại học KHXH&NV- ĐHQG
Hà Nội ñã công bố trên báo chí về việc mới ñưa ra
Bộ tiêu chuẩn và ñề thi ñánh giá năng lực tiếng
Việt cho học viên nước ngoài ñược xây dựng trên
“10 tiêu chuẩn gồm 51 tiêu chí” do GS. TS Vũ
Đức Nghiệu làm chủ nhiệm ñề tài. Trong khi dự
án này chưa chính thức công bố cái “chuẩn” của
mình thì hiện ñã có rất nhiều cơ sở ñào tạo tiếng
Việt và một số ñề tài luận án tiến sĩ cũng ñang ñưa
ra khung ñánh giá năng lực tiếng Việt dành cho
người nước ngoài theo “chuẩn” của họ. Trong tình
hình “trăm hoa ñua nở, trăm nhà ñua tiến” như
vậy, chắc chắn tình trạng “chuẩn” về khung ñánh
giá năng lực tiếng Việt cho người nước ngoài
cũng sẽ ñi ñến một cái kết chẳng khác nào cái kết
của thực trạng giáo trình giảng dạy tiếng Việt như
chúng tôi vừa ñề cập ở trên.
2.4. Đề xuất và kiến nghị
Thực trạng về tình hình chương trình ñào tạo,
giáo trình và cả về phương pháp giảng dạy tiếng
Việt chắc chắn là những vấn ñề luôn làm trăn trở
những nhà giáo tâm huyết với nghề. Với kinh
nghiệm và hiểu biết còn rất hạn hẹp của mình, tôi
xin ñưa ra một vài ñề xuất và kiến nghị liên quan
ñến việc chuẩn hóa chương trình ñào tạo và giáo
trình giảng dạy tiếng Việt cho người nước ngoài
như sau:
2.4.1. Giải pháp tổng thế cho việc xây dựng
một chương trình ñào tạo và hệ thống giáo trình
giảng dạy tiếng Việt cho người nước ngoài ñạt
chuẩn: Sự chỉ ñạo, ñiều phối của cơ quan quản lý
và sự hợp tác chặt chẽ giữa các cơ sở ñào tạo.
511
Ti u ban 3: Đào t o ti ng Vi t nh m t ngo i ng cho ng i n c ngoài
BỘ GIÁO DỤC VÀ
ĐÀO TẠO
Cơ sở ñào tạo tiếng Việt
cho người nước ngoài A
Cơ sở ñào tạo tiếng
Việt cho người nước
ngoài B
Cơ sở ñào tạo tiếng Việt
cho người nước ngoài C
KHUNG CHUẨN ĐÁNH GIÁ
NĂNG LỰC TIẾNG VIỆT
DÀNH CHO NGƯỜI
NƯỚC NGOÀI
CHƯƠNG TRÌNH VÀ
GIÁO TRÌNH
GIẢI PHÁP TỔNG THỂ CHO VIỆC XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH VÀ BIÊN SOẠN
GIÁO TRÌNH ĐÀO TẠO TIẾNG VIỆT CHO NGƯỜI NƯỚC NGOÀI ĐẠT CHUẨN
2.4.2. Tiến tới việc xây dựng khung chuẩn ñánh
giá năng lực tiếng Việt mang tầm quốc gia và
chuẩn hóa chương trình ñào tạo tiếng Việt cho
người nước ngoài
Hiện tại, tất cả các cơ sở ñào tạo tiếng Việt cho
người nước ngoài ñều ñã có chương trình ñào tạo
của mình. Mặc dù các cơ sở ñào tạo ñều hướng
ñến một mục tiêu chung là mang tiếng Việt ñến
với thế giới, nhưng vì không có một chương trình
bắt buộc, cũng không có các tiêu chuẩn ñể tiến
hành khảo sát, ñánh giá sản phẩm ñào tạo nên các
cơ sở ñào tạo vẫn mạnh ai nấy làm, chủ yếu chạy
theo lợi nhuận mà ít quan tâm ñến thực trạng và
kết quả ñào tạo. Vì thế, chúng tôi cho rằng việc
chuẩn hóa khung ñánh giá năng lực tiếng Việt là
một chiến lược phát triển, quảng bá ngôn ngữ
mang tầm quốc gia. Tiếp ñó, các chương trình ñào
tạo cũng phải ñược chuẩn hóa theo khung ñánh
giá năng lực chuẩn này. Để làm ñược ñiều này ñòi
hỏi phải có một giải pháp tổng thể bao gồm sự
phối, kết hợp giữa các cơ quan chức năng có liên
quan và những người tâm huyết.
512
2.4.3. Tiến tới việc chuẩn hóa hệ thống giáo
trình giảng dạy tiếng Việt cho người nước ngoài
Như chúng tôi ñã ñề cập ở trên, giáo trình
giảng dạy tiếng Việt cho sinh viên nước ngoài
hiện nay còn rất nhiều ñiều bất ổn, bất hợp lý. Vì
thế, việc sớm có ñược những bộ giáo trình ñạt
chuẩn là công việc hết sức bức bách trong thời
ñiểm hiện nay. Sau ñây là một vài kiến nghị của
chúng tôi về vấn ñề này.
Trước hết, các cơ sở ñào tạo tiếng Việt cho
người nước ngoài cần phải xác ñịnh rõ mục tiêu
ñào tạo và chuẩn ñánh giá trình ñộ sinh viên trong
từng giai ñoạn ñào tạo cụ thể. Chúng ta không thể
ñưa ra những mục tiêu chung chung mang nặng
tính lý thuyết như hiện nay, kiểu như: “Sau khi
học xong giai ñoạn thứ nhất này, sinh viên có thể
nắm ñược chuẩn tiếng Việt về ngữ âm, từ vựng,
ngữ pháp ñể thực hiện tốt các kỹ năng Nghe, Nói,
Đọc, Viết,...”. Việc xác ñịnh mục tiêu ñào tạo và
chuẩn ñánh giá trình ñộ một cách rõ ràng, cụ thể
sẽ chính là “kim chỉ nam” hay chính là những tiêu
chí ñược ñặt ra khi biên soạn giáo trình.
Chi n l c ngo i ng trong xu th h i nh p
Thứ hai, sau khi ñã xác ñịnh rõ mục tiêu ñào
tạo và tiêu chí ñánh giá trình ñộ cụ thể, các cơ sở
ñào tạo cần phải rà soát lại hệ thống giáo trình mà
cơ sở ñào tạo ñang sử dụng ñể từ ñó có phương
hướng cụ thể cho việc chỉnh sửa, biên soạn lại
giáo trình cho hợp lý và xin cấp phép xuất bản.
Khi biên soạn giáo trình, với ñối tượng ñặc thù là
sinh viên nước ngoài, ngoài việc cung cấp kiến
thức, chúng ta cũng phải tính ñến những yếu tố
văn hóa, tâm lý tiếp cận tài liệu của họ ñể biên
soạn giáo trình cho phù hợp. Theo chúng tôi, một
cuốn giáo trình có chất lượng phải là cuốn giáo
trình cung cấp cho sinh viên những kiến thức mà
giảng viên ñòi hỏi sinh viên phải chiếm lĩnh ñược
sau khi học xong từng bài học, thậm chí từng phần
trong bài. Và lẽ tất yếu là những kiến thức mà sinh
viên ñược cung cấp phải là một một lượng kiến
thức có hệ thống. Và như vậy, một bộ giáo trình
ñào tạo tiếng Việt ñạt chuẩn, trước hết, phải là một
bộ giáo trình mang tính hệ thống.
Với quan ñiểm trên, tôi cho rằng việc biên soạn
ñể có ñược một bộ giáo trình tiếng Việt cho người
nước ngoài ñạt chuẩn không thể chỉ ñòi hỏi ở
chính các cơ sở ñào tạo, hay hẹp hơn là không thể
chỉ trông ñợi vào các giảng viên trực tiếp tham gia
giảng dạy. Nó tùy thuộc vào một tập hợp ñồng bộ
các yếu tố quan trọng khác, ñó là: (1) Tầm nhìn và
quyết tâm quảng bá tiếng Việt ra thế giới của các
cấp quản lý, từ ñó tạo ra tiền ñề quan trọng cả về
việc cho phép, khuyến khích cũng như sự ñầu tư
về vật chất, ñộng viên về tinh thần cho những
sáng kiến biên soạn, cải tiến hệ thống giáo trình.
(2) Lòng nhiệt tình và ham muốn sáng tạo, học hỏi
của các nhà nghiên cứu và ñội ngũ giảng viên
ñang giảng dạy tiếng Việt. (3) Sự ñồng lòng, giúp
ñỡ, ủng hộ, chia sẻ kinh nghiệm của các nhà nghiên
cứu, các chuyên gia ngôn ngữ và ngoại ngữ.
3. Kết luận
Với mong muốn ñược học hỏi và chia sẻ công
việc nghiên cứu và giảng dạy tiếng Việt, một
ngành ñào tạo mà chúng tôi cũng là những người
ñang trực tiếp tham gia, bài viết này của tôi có thể
còn quá sơ lược. Trên thực tế, ở Việt Nam, chưa
hề có bất kì một khung chuẩn ñánh giá năng lực
Tháng 11/2014
tiếng Việt nào dành cho người nước ngoài mang
tầm cỡ quốc gia. Và khi cái gốc này ñã không có
thì tất cả những gì dựa vào nó cũng ñều chỉ mang
tính “tạm thời”. Theo ñó, việc phân chia trình ñộ
(A, B, C hay Sơ cấp, Trung cấp, Cao cấp, nâng
cao...) xét cho cùng, cũng là vô căn cứ. Mỗi ñơn
vị tự ñịnh ra một “chuẩn”, người học học hết sách
này ñược coi là hết trình ñộ A, hết sách kia ñược
coi là hết B hay C; bài thi/kiểm tra ñánh giá trình
ñộ cũng mỗi nơi một kiểu. Và sắp tới, tình trạng
mỗi cơ sở ñào tạo ñưa ra một cái “chuẩn” của
mình về thang ñánh giá năng lực tiếng Việt cũng
là ñiều hiện hữu. Thiết nghĩ, ñã ñến lúc chúng ta
không phải chỉ quan tâm ñến “bề rộng” mà còn
phải chú trọng ñến “chiều sâu” của công tác này.
Nói một cách rõ hơn, chúng ta cần xây dựng cho
ñược một khung chuẩn ñánh giá năng lực tiếng
Việt cho người nước ngoài mang như một chiến
lược ngôn ngữ quốc gia, lấy ñó làm cơ sở ñể từng
bước xây dựng các bộ giáo trình chuẩn; thiết kế
các hệ thống ñánh giá, cấp chứng chỉ mang tính
quốc gia và quốc tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Lê Bảo, Khu vực học và nhập môn Việt Nam
học, NXB Giáo dục, 2008.
2. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hội thảo khoa học
Nghiên cứu và ñào tạo về Khu vực học, NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2005.
3. Nguyễn Đức Tồn, Những vấn ñề dạy và học tiếng
Việt trong nhà trường- Phương pháp dạy và học tiếng
Việt ở bậc trung học cơ sở, Nhà xuất bản Đại học Quốc
gia, Hà Nội, 2001.
4. Nguyễn Thiện Nam, Tiếng Việt nâng cao, NXB Đại
học Quốc gia, 2000.
5. Khoa Việt Nam học, Đại học Hà Nội, Tủ sách tiếng
Việt chuyên ngành và giáo trình chuyên ñề Việt Nam
học, 2004-2009.
6. Brown D, Principle of teaching and learning,
Prentice Hall Regel, 2003.
7. Nhiều tác giả, Kỷ yếu Chương trình và nội dung ñào
tạo tiếng Việt và Việt Nam học ở Việt Nam và trên thế
giới, Hội thảo khoa học Trường Đại học Sư phạm, 2009.
8. Nhiều tác giả, Nghiên cứu, ñào tạo Việt Nam học và
tiếng Việt- những vấn ñề lý luận và thực tiễn, Kỷ yếu Hội
thảo khoa học Trường Đại học Khoa học xã hội và
nhân văn – ĐHQG Hà Nội, 2013.
9. Nhiều tác giả, European frame work of reference for
languages,
/>513
Ti u ban 3: Đào t o ti ng Vi t nh m t ngo i ng cho ng i n c ngoài
Phụ lục:
BẢNG THỐNG KÊ
CÁC TÀI LIỆU, SÁCH DẠY TIẾNG VIỆT
CHO NGƯỜI NƯỚC NGOÀI HIỆN ĐANG SỬ DỤNG
TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC
1. Annie Heaton (chủ biên), An Introduction to
everyday Vietnamese, VOS Vietnam.
2. Bùi Phụng (chủ biên), Tiếng Việt cho người nước
ngoài, Nxb Giáo dục, 1992.
3. Dana Healy, Vietnamese a complete course for
beginners, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2001.
4. Đinh Thanh Huệ (chủ biên), Tiếng Việt thực hành
(Dùng cho người nước ngoài), Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội, 1997.
5. Đoàn Thiện Thuật (chủ biên), Thực hành tiếng Việt
(trình ñộ B), Nxb Thế giới, 2001.
6. Đoàn Thiện Thuật (chủ biên), Thực hành tiếng Việt
(trình ñộ C), Nxb Thế giới.
7. Đoàn Thiện Thuật (chủ biên), Tiếng Việt trình ñộ A
(tập 1), Nxb Thế giới, 2003.
8. Đoàn Thiện Thuật (chủ biên), Tiếng Việt trình ñộ A
(tập 2), Nxb Thế giới, Hà Nội, 2000.
9. Đoàn Thiện Thuật (Editor-in-chief), A concise
Vietnamese grammar, Nxb Thế giới, 2001.
10. Hỗ trợ việc dạy và học tiếng Việt cho người Việt
Nam ở nước ngoài.
11. Hwang Gwi Yeon – Trịnh Cẩm Lan – Nguyễn
Khánh Hà, Bài ñọc tiếng Việt nâng cao (Dành cho
người nước ngoài), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004.
12. Khoa Việt Nam học và tiếng Việt, Trường ñại học
Khoa học xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN: Chương trình
ñào tạo tiếng Việt cho người nước ngoài hệ ngắn hạn.
13. Mai Ngọc Chừ, Học tiếng Việt trong hai tháng,
Nxb Thế giới, HN 1997.
14. Mai Ngọc Chừ, Tiếng Việt cho người nước ngoài,
Nxb Giáo dục, 1995.
15. Nguyễn Anh Quế - Hà Thị Quế Hương, Tiếng
Việt trong giao dịch thương mại, Nxb Văn hóa thông
tin, HN 2000.
514
16. Nguyễn Anh Quế, Tiếng Việt cho người nước
ngoài, Nxb Văn hóa thông tin.
17. Nguyễn Bích Thuận, Contemporary Vietnamese
(An intermediate text), Northern Illinois University –
Center for Southeast Asian Studies, 1997.
18. Nguyễn Bích Thuận, Contemporary Vietnamese
readings, Northern Illinois University – Center for
Southeast Asian Studies, 1997.
19. Nguyễn Bích Thuận, Spoken Vietnamese for
beginners, Northern Illinois University – Center for
Southeast Asian Studies, 1997.
20. Nguyễn Thiện Nam, Tiếng Việt nâng cao (Cho
người nước ngoài – quyển I), Nxb Giáo dục, 1998.
21. Nguyễn Văn Huệ (chủ biên), Giáo trình tiếng Việt
cho người nước ngoài, tập 1, Nxb Giáo dục, 2003.
22. Nguyễn Văn Huệ (chủ biên), Giáo trình tiếng Việt
cho người nước ngoài, tập 2, Nxb Giáo dục, 2004.
23. Nguyễn Văn Huệ (chủ biên), Giáo trình tiếng Việt
cho người nước ngoài, tập 3, Nxb Giáo dục, 2003.
24. Nguyễn Văn Huệ (chủ biên), Giáo trình tiếng Việt
cho người nước ngoài, tập 4, Nxb Giáo dục, 2004.
25. Nguyễn Văn Huệ (chủ biên), Giáo trình tiếng Việt
cho người nước ngoài, tập 5, Nxb Giáo dục, 2004.
26. Nguyễn Văn Huệ (chủ biên), Giáo trình tiếng Việt
cho người nước ngoài, tập 6, Nxb Giáo dục, 2004.
27. Nguyễn Văn Phúc (chủ biên), Tiếng Việt cho
người nước ngoài (Chương trình cơ sở - elementary
level), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004.
28. Nguyễn Việt Hương, Thực hành tiếng Việt (Dùng
cho người nước ngoài), Nxb Giáo dục, 1996.
29. Trịnh Đức Hiển (chủ biên), Tiếng Việt cho người
nước ngoài (Trình ñộ nâng cao), Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội, 2005.
30. Vũ Thị Thanh Hương (chủ biên), Tiếng Việt nâng
cao (Dành cho người nước ngoài), Nxb Khoa học xã
hội, 2004.
31. Vũ Văn Thi, Tiếng Việt cơ sở, Nxb Khoa học xã
hội, 1996.