Ti u ban 1: Đào t o chuyên ng
DỊCH THƠ VÀ TỪ TỪ TIẾNG HÁN RA TIẾNG VIỆT VÀ NGƯỢC LẠI
Tr n Th Thanh Liêm
Tr ng Đ i h c Đ i Nam
Tóm t t: Dịch thơ là một nghệ thuật thể hiện khả
expresses the ability to absorb language as well as the
năng cảm thụ ngôn ngữ cũng như khả năng vận dụng
ability to use language of the translator based on a
ngôn ngữ của người dịch trên cơ sở am hiểu tường tận
thorough understanding of cultural nuances and
sắc thái văn hóa và ý nghĩa của từ ngữ ñược dùng
meanings of words used in poetry.
trong thơ ca.
The challenge is to understand the message, only
Cái khó là hiểu ñược nội dung thông báo, trên cơ
by that the rendering is correct by means of translation.
sở ñó mới chuyển dịch ñược ñúng ý nghĩa của nguyên
However, each language has its own cultural context
tác bằng phương tiện ngôn ngữ dịch. Nhưng mỗi ngôn
with its own aesthetic ways of the native. A translated
ngữ lại có một bối cảnh văn hóa riêng với cách cảm thụ
thẩm mỹ riêng của người bản ngữ. Một bài thơ dịch sẽ
thực sự tỏa sáng bởi sự tri giác ñúng của người dịch
thể hiện trình ñộ ngôn ngữ, trình ñộ văn hóa và kinh
nghiệm dịch thuật. Điều ñó bắt buộc người dịch phải
hiểu ñược mã của ngôn ngữ nguồn, tức là các quy tắc
về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp,... Mặt khác người dịch
poem will really shine by the translator's perception
which is properly expressed in language proficiency,
educational attainment and professional experience. It
is imperative that the translator must understand the
code of language which s/he is about to decode, i.e.
the rules of phonics, vocabulary, grammar,... On the
other hand, the translator must understand the context
of the author, cultural and social context of poetry. That
phải hiểu ñược hoàn cảnh của tác giả, bối cảnh văn
correct translation makes people misunderstand is
hóa và xã hội của thi phẩm. Dịch ñúng mà khiến người
more or less regarded as comparative language (or
ta hiểu sai thì ñó là dịch máy móc theo kiểu ñối chiếu
word by word translation) to which dictionaries are
ngôn ngữ. Đối chiếu thì ñã có từ ñiển làm cẩm nang,
referred, translation must go beyond that because after
còn dịch yêu cầu phải cao hơn ñối chiếu, bởi vì sau khi
that we have to seek for the elegance. To do it, the
ñối chiếu ta phải trau chuốt sao cho ñạt tới mức nhã.
translator is required not only to be expert of at least
Để ñạt ñược chữ nhã trong dịch thuật, ñòi hỏi người
two languages which are collated but also to have a
dịch không chỉ là chuyên gia của ít nhất hai thứ ngôn
deep understanding of the culture, customs and habits
ngữ ñang ñối chiếu, mà còn có sự am hiểu sâu sắc về
of the two peoples.
văn hóa, phong tục, tập quán của hai dân tộc.
Phải nắm vững nguyên văn của bài thơ và dịch
Mastering the source of the poem is called
faithfulness; understanding the author's intention,
ñúng gọi là tín; thấu hiểu ý của tác giả trong bài thơ,
conveying
truyền ñược cái thần, cái hồn của bài thơ là ñ t. Lựa lời
expressiveness;
mà dịch cho ñúng nghĩa, trôi chảy, lưu loát, ñó là nhã.
translate literally in smooth and fluent flow is elegance.
Tín, ñ t, nhã là ba tiêu chuẩn dịch thuật ñược người
These standards have been concluded by the Chinese.
Trung Quốc ñúc kết mà thành.
Dịch văn ñã khó, phải cố gắng sao cho ñạt ñến
ñược ñích NHÃ. Dịch thơ và Từ còn khó hơn nhiều. Bài
viết này bàn về dịch Tống từ, thơ Đường luật và ca dao
của các tác giả Trung Quốc và Việt Nam.
Abstract: Translation of poetry is an art, it
126
the
spirit,
the
moreover
feeling
is
known
as
choosing
words
to
Translation of text is difficult, it is necessary to
reach the third standard of ELEGENCE. Translation of
poetry and Tong tu is much harder. This paper
discusses the translation of the Tong tu, Song poetry
(based on the Song Dynasty’s rules on poetry) and folk
of Chinese and Vietnamese authors
Chi n l c ngo i ng trong xu th h i nh p
I. Tiêu chí ñánh giá dịch văn học
Dịch thơ là một nghệ thuật, nó thể hiện khả
năng cảm thụ ngôn ngữ cũng như khả năng vận
dụng ngôn ngữ của người dịch trên cơ sở hiểu
tường tận sắc thái văn hóa và ý nghĩa của từ ngữ
ñược dùng trong thơ ca.
Cái khó là hiểu ñược nội dung thông báo, trên
cơ sở ñó mới chuyển dịch ñược ñúng ý nghĩa của
nguyên tác bằng phương tiện ngôn ngữ dịch.
Nhưng mỗi ngôn ngữ lại có một bối cảnh văn hóa
riêng với cách cảm thụ thẩm mỹ riêng của người
bản ngữ. Một bài thơ dịch sẽ thực sự tỏa sáng bởi
sự tri giác ñúng của người dịch thể hiện trình ñộ
ngôn ngữ, trình ñộ văn hóa và kinh nghiệm dịch
thuật. Điều ñó bắt buộc người dịch phải hiểu ñược
mã của ngôn ngữ mà mình giải mã, tức là các quy
tắc về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp,... Mặt khác
người dịch phải hiểu ñược hoàn cảnh của tác giả,
bối cảnh văn hóa và xã hội của thi phẩm. Dịch
ñúng mà khiến người ta hiểu sai thì ñó là dịch máy
móc theo kiểu ñối chiếu ngôn ngữ. Đối chiếu thì
ñã có từ ñiển làm cẩm nang, còn dịch yêu cầu phải
cao hơn ñối chiếu, bởi vì sau khi ñối chiếu ta phải
trau chuốt sao cho ñạt tới mức nhã. Để ñạt ñược
chữ nhã trong dịch thuật, ñòi hỏi người dịch
không chỉ là chuyên gia của ít nhất hai thứ ngôn
ngữ ñang ñối chiếu, mà còn có sự am hiểu sâu sắc
về văn hóa, phong tục, tập quán của hai dân tộc.
Theo Nghiêm Phục, Tín (faithfulness): ñây là
tiêu chuẩn quan trọng nhất. Tín có nghĩa là ñúng,
ý nghĩa và ngôn ngữ văn bản ñích phải chính xác
so với ý nghĩa và ngôn ngữ của văn bản nguồn.
Chính xác ở ñây là “phải dùng từng chữ, ñủ từng ý
và hệt với giọng của hạng người nào về thời ñại
nào” (18).
Đạt (comprehensibility): văn bản ñích phải
mạch lạc và dễ hiểu. Nghiêm Phục cho rằng mục
ñích cuối cùng của Đạt là ñể có Tín, do vậy nếu
một bản dịch không thể lĩnh hội ñược thì coi như
dịch giả thất bại.
Nhã (comformability): bản dịch phải có tính
thẩm mĩ. Kiều Thanh Quế cho rằng Nhã nên hiểu
theo nghĩa “ñiểm nhã êm tai. Có khi dịch ra tiếng
Tháng 11/2014
ấy thì ñúng, nhưng theo văn ý nước mình thì nghe
lại ra thô, lại phải dùng tiếng khác cùng tính cách
ấy có ý nhã hơn thay vào” (18).
Phải “dùng từng chữ, ñủ từng ý và hệt với
giọng của hạng người nào về thời ñại nào” gọi là
tín; thấu hiểu ý của tác giả trong bài thơ, truyền
ñược cái thần, cái hồn của bài thơ là ñạt. Lựa lời
mà dịch cho ñúng nghĩa, vừa trôi chảy, lưu loát,
ñó là nhã. Tín, ñạt, nhã là ba tiêu chuẩn dịch
thuật ñược người Trung Quốc ñúc kết mà thành.
Dịch văn ñã khó, phải cố gắng sao cho ñạt ñến
ñược ñích NHÃ. Dịch thơ và Từ còn khó hơn
nhiều. Báo cáo này bàn về dịch Tống từ, thơ
Đường luật và ca dao của các tác giả Trung Quốc
và Việt Nam.
II. Bàn về Tống Từ, dịch Tống Từ, dịch thơ
Đường và dân ca Trung Quốc ra tiếng Việt
1. Tống từ và dịch Tống Từ
Từ là một thể thơ cổ của Trung Quốc xuất hiện
vào ñời Đường, phát triển mạnh ở ñời Tống, có số
chữ trong bài cố ñịnh, câu dài câu ngắn và phối
hợp chặt chẽ với âm nhạc. Theo ghi chép của
), từ “Khai Nguyên
“Cựu Đường Thư” (
(niên hiệu Đường Huyền Tông) trở lại, các ca sĩ
ñã lưu truyền (tạp dụng) các khúc ca trong các ngõ
nhỏ Hồ Di”. Do âm nhạc ñược lưu truyền rộng rãi,
tại các ñô thị ở Trung Quốc thời bấy giờ có rất
nhiều nhạc sư - ñào kép mưu sinh bằng nghề ca
hát, căn cứ vào nhu cầu phối hợp nhịp ñiệu giữa
ca từ và âm nhạc, sáng tác hoặc cải biên thành các
từ khúc có các câu dài ngắn khác nhau, ñây chính
là Từ sớm nhất. Từ trong bài Từ Đôn Hoàng khúc
tử có thể nhận thấy Từ ñược sáng tác trong dân
gian có sớm hơn Từ dưới ngòi bút của văn nhân
khoảng vài chục năm.
旧唐书
Vào Đời Đường, Từ trong dân gian ñại bộ
phận là thuộc các ñề tài phản ánh về tình yêu ñôi
lứa, cho nên nó không lọt vào con mắt “ñại nhã”
của các văn nhân, mà còn bị coi là “tiểu ñạo ngoại
thơ”. Chỉ có những người chú trọng giới thiệu
những sở trường của nghệ thuật Từ dân gian như
Bạch Cư Dị, Lưu Vũ Tích mới viết ra một số Từ
có phong cách tự nhiên, tràn ñầy khí chất chất
127
Ti u ban 1: Đào t o chuyên ng
phác về những tấm lòng nhân hậu của người dân
lao ñộng. Ôn Đình Quân và Ngũ Đại “Hoa gian
phái” nổi tiếng nhờ những câu Từ tươi thắm, cao
thượng, mang ñậm phong cách phụ nữ dịu dàng,
ñôn hậu, chiếm một vị trí nhất ñịnh trong lịch sử
phát triển của Từ. Các tác phẩm Từ sau khi Nam
Đường Lý Hậu chủ bị bắt làm tù binh ñã mở ra một
ranh giới nghệ thuật sâu lắng mới, truyền luồng
sinh khí mãnh liệt cho các Từ khách hậu thế.
Đến Đời Tống, thông qua sự ñột phá mạnh về
mặt sáng tác của Liễu Vịnh và Tô Thức, Từ ñã
ñược phát triển mạnh cả về nội dung và hình thức.
Cho dù về mặt ngôn ngữ Từ chịu ảnh hưởng về
thi tác của các văn nhân, nhưng cái thời thượng
gọt giũa tao nhã cũng không hề thay thế cho cái
phong cách dân gian thông tục, mà hình thức câu
ngắn câu dài của Từ lại rất dễ biểu lộ tình cảm,
cho nên cách nói “Thi manh chí, Từ trữ tình” (
) là có những căn cứ nhất ñịnh.
phát triển về sau dần dần tách rời khỏi âm nhạc,
và trở thành một thể văn ñộc lập. Sau ñây xin giới
thiệu một bài Từ của một học giả tên là Khấu
Chuẩn, ông ñã từng làm ñược nhiều bài Từ rất hay.
寇準
Khấu Chuẩn (Hán tự:
, sinh năm 961, mất
ngày 24 tháng 10 năm 1023), tên chữ Bình Trọng (
), quê ở Hoa Chân, là một nhân vật trứ danh ñời
Tống, từng làm ñến chức quan Tể tướng. Ông ñậu
tiến sĩ thời vua Thái Tông, ñến thời vua Chân Tông,
năm Cảnh Đức ñược phong làm Tể tướng. Ông nổi
tiếng văn võ song toàn và rất giỏi làm thơ. Dưới
ñây là bài Từ Đạp sa hành rất nổi tiếng của ông.
仲
Khấu Chuẩn
踏莎行 - 春
暮
诗 春色將闌,
鶯聲漸老。
盲志, 词抒情
紅英落盡青
Từ về ñại thể có thể chia ra thành Phái hàm súc
梅小。
và Phái khoáng ñạt (Uyển ước phái và Hào phóng
畫堂人靜雨
phái). Từ của Phái hàm súc có phong cách tao nhã
濛濛,
uyển chuyển như Từ của Liễu Vịnh, Yên Thù,Yên
屏山半卷餘
Kỷ Đạo,... không thẹn là những kiệt tác trữ tình,
香嫋。
ñã diễn ñạt hoà quyện ñược giữa cái tình và cái
密約沈沈,
cảnh. Những tác phẩm của Phái khoáng ñạt thì bắt
ñầu từ Tô Thức, ông ñã ñem Từ phát triển thành
无情杳杳。
một mảng nghệ thuật trữ tình ñộc ñáo (ñộc lập).
菱花塵滿慵
Danh lam thắng cảnh của quê hương, ñất nước,
將照。
cuộc sống thanh bình, nhàn nhã hoặc chí lớn báo
倚樓無語欲
quốc của nhân dân qua ngòi bút của ông ñều trở
銷魂,
thành ñề tài của Từ, làm cho Từ ñược bước trên
長空黯淡連
những con ñường ñẹp, ñi sâu vào cuộc sống của
芳草。
quảng ñại quần chúng nhân dân.
Từ về mặt hình thức có thể chia thành Tiểu
lệnh (khoảng 58 chữ), Trung ñiệu (59-90 chữ) và
Trường ñiệu (trên 91 chữ), Từ dài nhất có tới 240
chữ). Một bài Từ, có khi chỉ có 1 ñoạn, gọi là ñơn
ñiệu; có khi có 2 ñoạn, gọi là song ñiệu; có khi có
3 ñoạn hoặc 4 ñoạn gọi là tam ñiệu hoặc tứ ñiệu.
Tên ñiệu Từ (Từ bài) ñại thể có mấy loại sau:
Mượn dùng tên của nhạc khúc hoặc tựa ñề thơ
nhạc phủ cổ ñại như “Lục châu ca ñầu”; lấy tên
của danh nhân như “Tây Giang Nguyệt”, theo một
nhân vật hoặc ñiển cố lịch sử như “Niệm nô kiều”;
còn có loại tên ñiệu Từ do danh gia tự ñặt. Từ
128
平
寇準 (Trung Quốc)
Đạp sa hành - Xuân Số chữ
mộ (Âm Hán Việt)
Xuân sắc tương lan,
4 chữ
Oanh thanh tiệm lão.
4 chữ
Hồng anh lạc tận thanh 7 chữ
mai tiểu.
Hoạ ñường nhân tĩnh 7 chữ
vũ mông mông,
Bình sơn bán quyển dư 7 chữ
hương niểu.
Mật ước trầm trầm,
4 chữ
Vô tình diểu diểu.
4 chữ
Lăng hoa trần mãn 7 chữ
dung tương chiếu.
Ỷ lâu vô ngữ dục tiêu 7 chữ
hồn,
Trường không ảm ñạm 7 chữ
liên phương thảo.
Dịch Từ của Khấu Chuẩn ra tiếng Việt
Đạp sa hành Cuối xuân
Nguyễn
Viễn dịch
踏莎行
Lương Nam
Chí Xương (Việt
Nam)
Đạp sa hành
(Âm Hán Việt)
Xuân sắc hầu 頻頻遠行
tàn,
Tần tần viễn
hành
Tiếng oanh dần
lão.
Hoành khoa Á
Âu
橫跨亚欧
Hồng hoa rụng 漫 漫 旅 途 看 Mạn mạn lữ
hết thanh mai 两洲
ñồ khán lưỡng
choắt.
châu
Chi n l c ngo i ng trong xu th h i nh p
Tháng 11/2014
Hoạ
ñường 观 瞻 天 下 兴 Quan chiêm
người lặng mịt 与衰
thiên hạ hưng
mù mưa,
dữ thoái
Bình sơn nửa 繁 荣 冷 落 藏 Phồn vinh lãnh
khép hương hiu 根由
lạc tàng căn do
hắt.
Tiêu ñiều phồn thịnh gót
ñầu ñều có nguyên nhân.
Quan chiêm thiên hạ,
dở hay cho tường.
Khắp thành thị thôn Xưa nay sự thành bại,
hương ñâu ñó,
Đổ mồ hôi không quản
Mọi sang hèn ñều có ngại,
nguyên nhân.
Mật ước trầm 古今硕果
trầm,
Cổ kim thạc
quả
Mới gặt hái thành
Xưa nay có phúc có công.
phần,
Thấu hiểu ngọn nguồn,
Vô tình
biệt.
Phấn miễn hữu
ñạo
Hoa thơm quả ngọt
chuyên cần mới nên.
biền 奋勉有道
Lăng
hoa 得 知 乃 源 必 Đắc tri
(gương) ñầy bụi 珍保
nguyên
lười soi mặt.
châm bảo
nãi
tất
Tựa lầu lặng lẽ 前 程 似 锦 多 Tiền trình tự
chực tiêu hồn,
cẩm ña huyền
绚烂
lan
Trời liền cỏ ngát 力 争 上 游 志 Lực
tranh
ñều xanh ngắt.
thượng
du
trí
不休
bất hưu
Quý như trân châu
ngọc bảo.
Đổ công sức xây nền Tốt ñẹp tương lai
phú quý,
ñường trải gấm hoa.
Thấu ngọn nguồn giá ví Gắng lên cố sức vươn
ngọc châu.
xa,
Tương lai
muôn màu,
cảnh
sắc Đừng ham ngơi nghỉ ắt
là thành công.
Lực còn tu chí dài lâu
cho bền.
2. Thơ Đường luật và dịch thơ Đường luật
a) Thơ Đường luật
Đạp sa hành
(Dịch giao tiếp)
Trần Thị Thanh Liêm (dịch 1)
Số chữ
Những chuyến ñi lâu,
4 chữ
Từ Á sang Âu.
4 chữ
Xuyên hai châu tai nghe mắt thấy
7 chữ
Sướng khổ thịnh suy ñâu cũng vậy,
7 chữ
Do nguyên nhân bên trong thúc 7 chữ
ñẩy.
Thành quả xưa nay,
4 chữ
Nào ai ban tặng.
4 chữ
Hiểu cội nguồn quý ñặng ngọc 7 chữ
châu.
Có tương lai hạnh phúc sang giàu,
7 chữ
Vươn lên gắng sức mới dài lâu.
7 chữ
Những chuyến ñi xa
(Dịch giao tiếp)
Trần Thị Thanh Liêm
dịch (2)
Chuyến ñi xa
(Dịch giao tiếp)
Trần Thị Thanh Liêm
dịch (3)
Những chuyến ñi dài Chuyến ñi dài ngày,
ngày bươn trải,
Xuyên quanh Á Âu.
Xuyên Á Âu mê mải Mênh mang ñường
hăng say.
khắp cả hai châu.
Mênh mang rừng biển Thịnh sang thiên hạ
trời mây.
muôn mầu,
Đường thi hay thơ Đường ñể chỉ một cách tổng
quát những bài thơ làm theo thể cổ phong dưới
nhiều thể loại khác nhau ñược làm dưới thời nhà
Đường Trung Quốc, nổi tiếng nhất là 300 bài thơ
Đường (Đường thi tam bách thủ).
Còn thơ Đường luật là thể thơ ñược gọi là thơ
bác học, thể thơ này ñược viết theo những niêm
luật nhất ñịnh.
Đời thịnh Đường (618-907), người ta mới
bắt ñầu ñặt ra luật thơ một cách quy củ và từ ñó về
sau người ta ñều làm thơ theo luật này. Gọi là Thơ
Đường luật hay luật thi vì thơ phải làm theo luật lệ
thơ từ ñời nhà Đường Trung Quốc.
Thơ Đường luật hay luật thi (cận thể) là loại
thơ ngũ ngôn (5 chữ) hay thất ngôn bát cú (bảy
chữ tám câu) và tứ tuyệt hay còn gọi là tuyệt cú.
Thơ Đường luật hay luật thi là thể thơ có quy luật
chặt chẽ. Thơ Đường luật chia làm 2 thể:
- Thể mỗi câu là 7 chữ ta gọi là thơ Thất ngôn
- Thể mỗi câu là 5 chữ ta gọi là thơ Ngũ ngôn
Nếu bài thơ chứa tổng cộng 4 câu ta gọi là thơ
129
Ti u ban 1: Đào t o chuyên ng
tứ tuyệt. Còn chứa 8 câu thì gọi là bát cú.
Thơ Đường luật Việt Nam do ñặc ñiểm của
ngôn ngữ ñơn âm và ña thanh nên có nhiều thể
như: Luật bằng vần bằng, luật trắc vần bằng, luật
trắc vần trắc, luật bằng vần trắc. Trong cách viết
cũng có nhiều kiểu như Hồi văn (thuận nghịch
ñộc), ngũ ñộ thanh, vỹ tam thanh, nhất thủ, bát
vận ñồng âm, dĩ ñề vi thủ, khoán thủ, tập danh,
song ñiệp,…
黃鶴樓送孟浩然之廣陵
故人西辭黃鶴樓,煙花三月下揚州。
孤帆遠影碧空盡, 唯見長江天際流。
Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên2 chi
Quảng Lăng (Âm Hán Việt)
Cố nhân tây từ Hoàng Hạc Lâu3
Yên hoa tam nguyệt hạ Dương Châu.
Cô phàm viễn ảnh bích không tận,
Duy kiến Trường giang thiên tế lưu.
- Dịch thơ Đường của Lý Bạch ra tiếng Việt:
b) Dịch thơ Đường luật
1) Lý Bạch
李白 - Trung Quốc
Dịch ra tiếng Trung Quốc hiện ñại
1
Lý Bạch (701-762) nguyên quán ở tỉnh Cam
Túc hiện nay. Ông là một nhà thơ lớn vào thời nhà
Đường, là một ngôi sao sáng chói trên thi ñàn
Trung Quốc. Người ñời thường gọi Ông là Thi
tiên (xem Tiên Lý Bạch). Lý Dương Băng trong
"Thảo ñường tập tự" ñã có câu nói bất hủ về thiên
tài Lý Bạch "Thiên tải ñộc bộ, duy công nhất
nhân" (hàng ngàn năm chỉ có một mình ông mà
thôi). Lý Bạch ñã ñể lại khoảng hơn 900 bài thơ,
ngoài ra còn ñể lại khoảng 50 bài văn xuôi, có ảnh
hưởng rất sâu rộng trong lịch sử văn học Trung
Quốc và ñược lưu truyền rộng rãi trong nhân gian.
Rất nhiều học giả trên thế giới ñã dày công nghiên
cứu thi ca Lý Bạch. Thơ của Ông rất tự nhiên,
không chải chuốt, gọt giũa mà ý thơ sâu sắc, có
sức truyền cảm quyến rũ một cách lạ lùng .Ông là
thiên tài của những bài thơ ngắn gọn, nhưng cô
ñọng, hàm súc, ñầy ñủ. Thơ ông là những tuyệt tác
bất hủ ñược lưu truyền trong nhân gian từ ñời này
qua ñời khác. Bài thơ sau ñây của Lý Bạch là một
kiệt tác tuyệt vời trong thế giới Đường thi…, nội
dung cô ñọng, thâm thúy của bài thơ là một thử
thách lớn lao mà các dịch giả phải ñương ñầu vì
"ngôn bất tận ý" (lời không nói hết ñược ý); người
dịch phải dùng ngôn từ tương ứng như thế nào ñể
có thể vừa lột tả ñược cảnh vật lại vừa diễn ñạt
ñược tình cảm dạt dào, một cảm xúc lai láng của tác
giả khi sáng tác ra tuyệt tác này:
1
Theo Câu lạc bộ dịch Hội nhà văn Hà Nội
130
Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên về
Quảng Lăng
老朋友在黄鹤楼下同我辞别,
在繁花如烟的三月前往扬州。
帆船的影子远远地消失在晴空里,
只看见长江水向天边奔流。
Dịch ngữ nghĩa: Bạn cũ giã từ tại lầu Hoàng
Hạc, ñi Dương Châu, tiết tháng ba khói sóng
mênh mang, cỏ hoa xuân sắc, cánh buồm lẻ loi
xa xa mất hút vào khoảng trời xanh, Chỉ thấy
sông Trường Giang chảy ñến chân trời.
Bên lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên về
Quảng Lăng (Dịch thơ):
Bạn rời Hoàng Hạc tới Dương Châu,
Hoa cỏ may xuân quyện sắc màu.
Thuyền lướt Trường Giang trời biếc thẳm,
Bâng khuâng ta ñứng lặng bên lầu.
Trần Thị Thanh Liêm dịch
2) Thôi Hiệu
黃鶴樓
崔颢 - Trung Quốc
昔人已乘黃鶴去,
此地空餘黃鶴樓。
黃鶴一去不復返,
2
Hoàng Hạc Lâu (Âm
Hán Việt)
Tích nhân dĩ
hoàng hạc khứ,
Thử
ñịa
không
thừa
dư
Mạnh Hạo Nhiên: Một nhà thơ nổi tiếng vào ñời Đường.
Hoàng Hạc Lâu: Lầu Hoàng Hạc thuộc huyện Võ
Xương, tỉnh Hồ Bắc, nằm bên cạnh sông Trường Giang
(Dương Tử), phong cảnh tươi ñẹp, hùng tráng, là một
trong những cảnh lầu nổi tiếng ở Trung Quốc. Cùng với
lầu Nhạc Dương ở Hồ Nam, lầu Đằng Vương ở Giang
Tây, ba ngôi lầu danh tiếng này ñược xếp vào hạng
"Giang Nam tam ñại danh lầu".
3
Chi n l c ngo i ng trong xu th h i nh p
白雲千載空悠悠。
晴川歷歷漢陽樹,
芳草萋萋鸚鵡洲。
日暮鄉關何處是,
煙波江上使人愁。
Tháng 11/2014
Hoàng Hạc Lâu.
4. Bạch vân ñọng lại vẩn vơ màu.
Hoàng hạc nhất khứ bất
phục phản,
5. Hán Dương cây cối soi gương nước,
Bạch vân thiên tải
không du du.
6. Anh Vũ bãi sa thảm cỏ lau.
7. Trời lảng chiều, ñâu quê quán nhỉ,
Tình xuyên lịch lịch
Hán Dương thụ,
8. Trên sông khói toả nỗi lòng ñau.
Phương thảo thê thê
Anh Vũ châu.
Trần Thị Thanh Liêm dịch (1)
Nhật mộ hương quan
hà xứ thị,
Yên ba giang thượng
sử nhân sầu.
Dịch ra tiếng Trung Quốc hiện ñại
仙人已经乘坐黄鹤飞去,这里只留存空空的
黄鹤楼。
黄鹤飞走之后不再回返,千年过去白云仍然
飘悠悠。
阳光照耀汉江,清楚地看到汉阳的树,
花草茂盛,葱茏一片鹦鹉洲。
傍晚登楼远望,故乡在何处?江上烟波渺渺
令人忧愁。
Bố cục
Hai câu ñề (1và 2)
Vào ñề trực tiếp.
Hai câu thực (3 và 4)
Phải ñối nhau.
Hai câu luận (5 và 6)
Phải ñối nhau.
Hai câu kết (7 và 8)
Nói lên tâm tư, nỗi
niềm của tác giả.
Lầu Hoàng Hạc
Lầu Hoàng Hạc
(Dịch thơ)
(Dịch thơ)
Người xưa cưỡi hạc
bay về ñâu,
Cưỡi hạc người xưa
bay ñã lâu,
Trở lại nơi ñây chỉ
Hạc lầu.
Nơi ñây còn lại hạc
không lầu.
Người xưa ñã cưỡi hạc vàng bay ñi,
Hạc vàng bằn bặt
muôn niềm nhớ,
Hạc vàng bay mất
không quay lại,
Nơi ñây chỉ còn lại lầu Hoàng Hạc.
Mây trắng vẩn vơ một
nỗi sầu.
Mây trắng còn kia
lảng vảng màu.
Hán Dương sông tạnh
lung linh bóng,
Cây cối Hán Dương
gương bóng nước,
Anh Vũ bãi xanh bát
ngát màu.
Bãi bồi Anh Vũ cỏ
vờn lau.
Hoàng hôn buông
xuống, quê ñâu nhỉ?
Trời chiều hỏi, ñâu
quê hương nhỉ,
Trên sông khói sóng
quặn lòng ñau.
Khói toả trên sông
nổi thảm sầu.
Dịch thơ Đường của Thôi Hiệu ra tiếng Việt
(Dịch ngữ nghĩa):
Hạc vàng một khi bay ñi ñã không trở lại,
Mây trắng ngàn năm vẫn phiêu diêu trên không.
Mặt sông lúc trời tạnh, phản chiếu cây cối Hán
Dương rõ mồn một,
Cỏ thơm trên bãi Anh Vũ mơn mởn xanh tươi.
Trời về chiều tối, tự hỏi quê nhà nơi ñâu?
Trên sông khói tỏa, sóng gợn, buồn ñến nẫu lòng
người.
Lầu Hoàng Hạc (Dịch thơ)
1. Người xưa cưỡi hạc bay về ñâu,
2. Trở lại ñất này cảnh hạc lâu.
3. Hoàng hạc bay ñi lang bạt xứ,
Trần T. T Liêm
dịch (2)
3) Vương Chi Hoán
Trần T.T. Liêm
dịch (3)
王之奂 - Trung Quốc
Khi dịch thơ, có những câu hoặc những từ ngữ
chúng ta cũng có thể tận dụng âm Hán Việt ñể
dịch. Sâu ñây là bài thơ Đường của Vương Chi
Hoán:
131
Ti u ban 1: Đào t o chuyên ng
登鹳鹊楼
Đăng Quán Tước lâu (Âm
Hán Việt)
白日依山尽,
Bạch nhật y sơn tận,
黄河入海流。
Hoàng Hà nhập hải lưu.
欲穷千里目,
Dục cùng thiên lý mục,
更上一层楼。
Cánh thượng nhất tầng lâu.
Dịch ra tiếng Trung Quốc hiện ñại
登鹳鹊楼
太阳已经落下山头,黄河不停向大海奔流。
要想看到更远的景色,就要再登上一层高楼。
Dịch thơ
Lên ngắm lầu
Khổng Tước
Lên ngắm lầu
Khổng Tước
Mặt trời lưng chừng Mặt trời nghiêng sườn
núi,
núi,
Hoàng Hà nhập hải Hoàng Hà ñổ về khơi.
lưu.
Muốn nhìn muôn ngàn
Muốn nhìn xa ngàn dặm,
dặm,
Lên tầng lầu nữa chơi.
Lên nữa một tầng lầu.
Trần Thị Thanh Liêm
Trần Thị Thanh Liêm
dịch (2)
dịch (1)
4) Thái Thuận - Việt Nam
春暮
百年身世嘆浮苹,
春去誰能不老成。
流水橋邊楊柳影,
夕陽江上鷓鴣聲。
月於煙樹雖無分,
風與天香尚有情。
九十韶光容易過,
草心游子苦難平。
Xuân
Việt)
mộ (Âm Hán
Bách niên thân thế thán
phù bình,
Xuân khứ thùy năng bất
lão thành.
Lưu thủy kiều
dương liễu ảnh,
biên
Chiều xuân
(Dịch ngữ nghĩa)
Chiều xuân (Dịch thơ)
Thân thế trăm năm Thế sự trăm năm nỗi bọt
than cho kiếp bèo bèo,
nổi,
Xuân tàn tuổi hạc vẫn
Xuân ñi rồi có ai cùng theo.
không thành người Bên cầu nước chảy mơ
già.
màng liễu,
Bên cầu nước chảy in Nắng nhạt trên sông não
bóng dương liễu,
nuột chiều.
Trên sông chiều tà Sợi khói lồng trăng duyên
vọng âm thanh não phận nhỡ,
nuột.
Hương trời quyện gió
Trăng lồng trong nghĩa tình gieo.
khói cây tuy không
Tuổi ñời chín chục qua
có phận gì,
bình thản
Gió quyện hương trời
vẫn có tình với nhau. Viễn xứ lòng ñau ngẫm
ngợi nhiều.
Chín chục tuổi xuân
qua một cách dễ Trần Thị Thanh Liêm dịch
(1)
dàng,
Khiến nỗi lòng người
con ñi xa khó bình
lặng ñược.
Chiều
(Dịch thơ)
xuân Màn khói trăng buông
trăng chểnh mảng,
Muôn kiếp lênh ñênh Làn hương gió quyện gió
buông gieo.
phận bọt bèo,
Xuân ñi người luống Thiều quang chín chục
trôi thanh thoát,
tuổi già theo.
Dưới cầu nước chảy Uẩn khúc tâm tư lắng
ñọng nhiều.
lay hình liễu,
Trên sông le kêu lảng
bóng chiều.
Trần Thị Thanh Liêm dịch
(2)
5) Nguyễn Trãi – Việt Nam
歸崑山舟中作 - 阮廌
Quy Côn Sơn chu
trung tác
- Nguyễn Trãi
(Âm Hán Việt)
Nguyệt ư yên thụ tuy
vô phận,
十年飄轉嘆蓬萍
Thập niên phiêu chuyển
thán bồng bình
Phong dữ thiên hương
thượng hữu tình.
幾托夢魂尋故里
Tịch
dương
giang
thượng giá cô thanh.
Cửu thập thiều quang
dung dị quá,
Thảo tâm du tử khổ nan
bình.
Dịch thơ Đường của Thái Thuận (Việt Nam) ra
132
tiếng Việt:
歸思搖搖日似旌
空將血淚洗先塋
兵餘斤斧嗟難禁
客裡江山只此情
鬱鬱寸懷無奈處
Qui tứ dao dao nhật tự
tinh
Kỉ thác mộng hồn tầm cố
lí
Không tương huyết lệ tẩy
tiên oanh
Binh dư cân phủ ta nan
Chi n l c ngo i ng trong xu th h i nh p
明
船窗推枕到天
Tháng 11/2014
cấm
Khách lí giang sơn chỉ thử
tình
Uất uất thốn hoài vô nại
xứ
Thuyền song thôi chẩm
ñáo thiên minh.
CẢM TÁC TRONG THUYỀN VỀ CÔN SƠN
(Dịch ngữ nghĩa)
Trong thuyền về Côn Sơn cảm tác
Mười năm phiêu giạt than thân bồng bèo
Lòng muốn về ngày ngày lay ñộng như ñuôi cờ
Bao lần nhờ chiêm bao ñi tìm làng cũ
Luống ñem nước mắt lẫn máu rửa mồ tổ tiên
Sau cơn binh lửa, thương ơi, nạn búa rìu khó ngăn
Non sông ñất khách chỉ ñeo ñẳng mối tình này
Tấc lòng bùi ngùi chẳng biết làm sao
Nằm ở cửa sổ thuyền trăn trở gối ñến sáng.
CẢM TÁC TRONG THUYỀN VỀ CÔN SƠN
(Dịch thơ)
阿妹若是一棵大青树,
[1]
我就变成彩云绕枝头。
[2]
阿妹若 是 一 汪清泉 ,
[3]
我就变成鱼儿水中游。
[4]
阿妹若 是 一 棵金竹 ,
[5]
我就取来作笛不离口。
[6]
阿妹若 是一只甜菠萝 ,
[7]
我 就 取来酿 成 喜酒 。
[8]
勤劳美丽 的 姑娘啊!
[9]
你永 远 装 在 我 心 头 。
[10]
不管你变成什么?
我都要把你追求。[11]
Nếu em là một cây xanh,
Anh thành mây trắng ủ
quanh lá cành. Nếu em là
suối nước lành,
Anh thành cá lội bơi
quanh lẹ làng.
Nếu em là cây trúc vàng,
Anh làm sáo thổi nhịp
nhàng véo von. Nếu em là
quả dứa non,
Anh cất rượu cưới nâng
hồn ái ân.
Hỡi em xinh ñẹp chuyên
cần,
Yêu em anh quyết ở gần
bên em.
Ví bằng em biến thành
kim,
Thì anh xe chỉ luồn kim
sớm chiều.
Trần Thị Thanh Liêm dịch
sát ý (1)
Mười năm trôi dạt phận chòng chành
*Dịch ý
Nỗi nhớ quê nhà mãi quẩn quanh
[1] Dịch bỏ từ ñại
Muốn gửi mộng hồn nơi cố quận
[2] Thêm bớt từ, thay ñổi từ
Mong hòa huyết lệ mộ cha anh
[3] Thay ñổi từ sạch lành
Lửa binh rìu búa nào xong tội
[4] Thay ñổi từ trong quanh
Non nước quê hương mãi vẹn tình
[5] Dịch ñúng
Lòng dạ bùi ngùi sao khó tả
[6] Không lệ thuộc vào nguyên văn, dịch sáng
tạo, thêm từ
Xuôi thuyền trằn trọc suốt năm canh.
[7] Thay ñổi từ ngọt ngon
Trần Thị Thanh Liêm dịch
3. Dịch dân ca Trung Quốc từ tiếng Hán
sang tiếng Việt
Thơ lục bát dài nhất, hay nhất và lưu truyền
rộng rãi nhất trong dân gian là Truyện Kiều. Có
rất nhiều bài dân ca bằng tiếng Hán rất hay ñã
ñược dịch ra tiếng Việt theo thể thơ lục bát. Sau
ñây chúng tôi xin dịch một bài dân ca Trung Quốc
ra thể thơ lục bát Việt Nam:
你永远装在我心头*
你永远装在我心头*
MÃI
MÃI
EM* (Dịch thơ)
BÊN
[8] Thêm từ
[9] Dịch ñúng
[10] Dịch thoát ý và thêm bớt từ
[11] Mượn ca dao Việt Nam ñể dịch
MÃI MÃI BÊN EM (Dịch thơ)
Nếu em là tán cây xanh,
Anh thành mây biếc lượn quanh bềnh bồng.
Nếu em là suối nước trong,
133
Ti u ban 1: Đào t o chuyên ng
听说长城万里长,首连
东海尾西疆。
千百万劳动者,建筑斯
城镇方。
Anh làm cá lội cho lòng xốn xang.
Nếu em là cây trúc vàng,
Anh làm sáo ñể hồn nàng ñắm say.
Nếu em là dứa chín cây,
Đầu liên Đông Hải vĩ
Tây Cương.
Anh hái ủ rượu ñợi ngày sánh ñôi.
Kỷ thiên bách vạn lao
ñộng giả,
Hỡi em ñẹp nết ñẹp người,
Kiến trúc tư thành trấn
nhất phương.
Trong tim anh ñó, trọn ñời có em.
Vịnh Vạn Lý Trường Thành4 (Dịch thơ)
Em là gì cũng ñừng quên,
Nghe mãi Trường thành vạn dặm trường,
Hồn anh mãi mãi theo liền bên em.
Chạy từ Đông Hải ñến Tây Cương.
Trần Thị Thanh Liêm dịch thoát ý (2)
Việc dịch một văn bản, một tác phẩm văn xuôi
từ một thứ tiếng này sang một thứ tiếng kia là ñiều
rất khó, dịch thơ lại càng khó hơn. Có ý kiến cho
rằng chỉ cần dựa vào từ ñiển song ngữ là có thể
dịch ñược, nhưng trên thực tế tìm ñược từ ngữ hay,
cách dịch phù hợp là không dễ. Nhiều khi, nhiều
chỗ người dịch rất vất vả tìm cách dịch cho sát ý
nhưng cuối cùng phải dịch theo lối giải thích, dịch
ý hoặc dịch âm Hán Việt. Có câu phải thêm hay
bớt ñi một vài từ ñể cho câu khỏi trùng lặp, rườm
rà, nhưng vẫn hết sức tôn trọng ý của tác giả. Tuy
có chỗ không dịch ñúng từng từ, không lệ thuộc
vào nguyên văn, nhưng lại lột tả ñược cái thần của
nguyên bản, bản dịch bài dân ca trên ñây là một ví dụ.
III. Dịch thơ của Bác Hồ
1) Dịch thơ chúc tết của Bác Hồ từ tiếng Việt
ra thơ thất ngôn tứ tuyệt tiếng Hán:
Xuân về xin có một bài ca,
Gửi chúc ñồng bào cả nước ta.
Chống Mỹ hai miền ñều
ñánh giỏi,
Tin mừng thắng trận nở như
hoa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh 1967
春回大地谱新歌,
谨向人民表祝贺。
南北抗美打得好,
捷报频传赛花多。
胡志明主席 - 1967
年
2) Dịch thơ thất ngôn tứ tuyệt - thơ vịnh
Vạn Lý Trường Thành của Bác Hồ từ tiếng
Hán ra tiếng Việt:
咏万里长城
134
Thinh thuyết Trường
Thành
Vạn
Lý
Trường,
Vịnh Vạn Lý Trường
Thành (Âm Hán Việt)
Hàng bao nhiêu triệu người lao ñộng,
Xây ñắp thành riêng trấn một phương.
Như ñã ñề cập ở trên, cơ sở của việc dịch là
hiểu. Người dịch phải hiểu ñược nguyên bản, rồi
từ ñó chuyển dịch sao cho người ñọc, người nghe
cũng hiểu ñược nội dung mà mình ñã dịch.
Nguyên bản và bản dịch về cơ bản phải phù hợp,
không mâu thuẫn. Nếu không như thế, thì sẽ rơi
vào tình trạng không hiểu ñược nguyên bản, dẫn
ñến dịch nhầm, lạm dịch, dịch một cách gượng ép,
thậm chí dịch sai.
4
Trên thực tế, hiểu là một quá trình rất phức tạp
và tinh tế. Người dịch phải nắm vững ñược nội
dung của nguyên bản, hiểu ñược ý ñồ và tình cảm
của tác giả, hơn nữa cũng phải hiểu ñược hoàn
cảnh xã hội và nền văn hóa ở nơi mà tác giả sáng
tác. Bởi ñằng sau ngôn ngữ hàm chứa một nội
dung vô cùng phong phú, người dịch cần cân nhắc,
lựa chọn rồi sau ñó xác ñịnh cách dịch nguyên bản
ở trên nhiều góc ñộ (như nghĩa ñen, nghĩa bóng,
nghĩa rộng, nghĩa hẹp, nghĩa cụ thể, nghĩa trừu
tượng, nghĩa tốt, nghĩa xấu, tính dân tộc, tính văn
hóa,...). Làm ñược như vậy sẽ tránh ñược những
cái sai và từ ñó công việc dịch thuật cũng sẽ trở
nên thuận lợi hơn, dễ dàng hơn.
4
Bài thơ này Bác Hồ làm vào ñầu tháng 7 năm 1955.
Ngày 2 tháng 6 năm ấy Bác dẫn ñầu Đoàn ñại biểu Đảng
Lao ñộng Việt Nam lần ñầu tiên chính thức sang thăm
Trung Quốc. Ngày 6 tháng 7 Bác ñã tham quan Vạn Lý
Trường Thành. Trên ñường về Việt Nam, ngồi trên tàu
hỏa Bác ñã sang tác bài thơ này bằng chữ Hán (Trích
trong thơ Hồ chủ tịch, NXB Văn học HN 1967).
Chi n l c ngo i ng trong xu th h i nh p
IV. Kết luận
Chúng tôi xin mượn ý của một dịch giả nổi
tiếng - Thúy Toàn làm phần kết cho bài viết này:
Dịch là một nghệ thuật. Người dịch trước hết phải
ñi tìm cái ñẹp. Cũng giống như người sáng tác ñi
tìm cái ñẹp ở cuộc ñời ñể tạo nên tác phẩm, người
dịch tìm cái ñẹp trong tác phẩm ñã sẵn có của
ngôn ngữ nào ñó, tái tạo ra bản dịch, tức là làm ra
một tác phẩm mới ở một ngôn ngữ mẹ ñẻ hoặc
một ngôn ngữ thứ hai. Cái ñẹp trong cuộc ñời có
thành tác phẩm văn chương hay không phải nhờ
tài của người cầm bút sang tác. Cái ñẹp tìm thấy ở
tác phẩm ñã có sẵn có trở thành cái ñẹp trong bản
dịch hay không lại phải nhờ vào cái tài của người
dịch. Ví người dịch như người thợ kim hoàn biến
ñá quặng thành ñồ trang sức lộng lẫy? Công việc
dịch có khi còn khó hơn kia - ở ñây là công việc
tái tạo một tác phẩm ñã có sẵn thành tác phẩm
bằng một chất liệu khác hơn. Ví người dịch như
người diễn viên thể hiện vai diễn viết trong kịch
bản có lẽ là sát hơn chăng?
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Tài Cẩn. Nguồn gốc và quá trình hình thành
cách ñọc Hán – Việt. NXB Đại học Quốc gia. 1979.
2. Trần Thanh Liêm. Vài ý kiến về việc học dịch tiếng
Hán. Tạp chí Khoa Tiếng Trung Quốc kỷ niệm 40 năm
thành lập Trường ĐHNN Hà Nội 1959 – 1999.
3. Trần Thị Thanh Liêm. Một vài ý kiến về việc dạy
tiếng Hán cho người Việt (trang 58,59,60). Tạp chí
Ngôn ngữ. Số 3 (1990).
Tháng 11/2014
4. Trần Thị Thanh Liêm. Một số ý kiến về việc hiểu ñúng
và dịch ñúng. Nội san ngoại ngữ - ĐHNN Hà Nội. 1998.
5. Trần Thị Thanh Liêm. Giáo trình Tiếng Hán hiện
ñại (5 tập). NXB ĐHQG. 1998 – 2002 (biên dịch).
6. Trần Thị Thanh Liêm (chủ biên). Kinh ñiển văn hóa
5000 năm Trung Hoa (4 tập). NXB Văn hóa thông tin,
2002 (biên dịch).
7. Trần Thanh Liêm – Nguyễn Bích Hằng – Vũ Thị
Thủy. Từ ñiển ñồng nghĩa trái nghĩa tiếng Hán. NXB
Văn hóa thông tin. 2003.
8. Trần Thị Thanh Liêm. Sắc thái Văn hóa trong giao
tiếp phiên dịch, giảng dạy và học ngoại ngữ. Tạp chí
Ngoại ngữ. ĐHNN – ĐHQGHN. Đặc san 1 (2000).
9. Trần Thị Thanh Liêm (Chủ biên). Giáo trình Hán
ngữ (6 tập). NXB ĐHSP, 2004 (biên dịch).
10. Trần Thanh Liêm – Nguyễn Bích Hằng. Từ ñiển
thành ngữ tục ngữ Hán Việt. NXB Văn hóa thông tin. 2003.
11. Trần Thị Thanh Liêm. Từ ñiển Hán – Việt hiện
ñại. NXB Khoa học Xã hội. 2007.
12. Lạc Nam. Tìm hiểu các thể thơ – Từ thơ cổ phong
kiến ñến thơ luật. NXB Văn học.2006.
13. Lê Quang Thiêm. Nghiên cứu ñối chiếu các ngôn
ngữ. NXB Đại học Giáo dục chuyên nghiệp.1989.
14. Trần Thị Thanh Liêm. Luyện dịch Hán Việt –
Việt Hán. NXB Thời ñại. 2006
15. Trần Thị Thanh Liêm – Hoàng Trà. Rèn luyện kỹ
năng dịch thuật Hoa Việt – Việt Hoa. NXB Văn hóa
thông tin. 2007.
16. Trần Thị Thanh Liêm – Trần Hoài Thu. Luyện dịch
Hoa Việt – Việt Hoa. NXB Văn hóa thông tin. 2008.
17. Hoài Yên. Học nhanh Luật thơ Đường. NXB Văn
hoá Dân tộc. 2004.
18. Kiều Thanh Quế. Kiều Thanh Quế với công việc
dịch thuật. />
135