Ti u ban 1: Đào t o chuyên ng
VỀ THỦ PHÁP DỊCH CẢI BIẾN
Vũ Văn Đ i
Trường Đại học Hà Nội
Tóm t t: Cải biến (adaptation) là một thủ pháp
thường ñược sử dụng trong thực hành dịch, nhưng cho
ñến nay các nhà lí luận vẫn chưa có ý kiến thống nhất
về ưu ñiểm và hạn chế của thủ pháp này. Có người
quan niệm cải biến là một loại hình dịch, một quá trình
sáng tạo, một thao tác cần thiết nhằm biểu ñạt ý nghĩa
của một phát ngôn và duy trì sự cân bằng của hoạt
ñộng giao tiếp liên ngôn ngữ. Ngược lại, một số tác giả
lại cho rằng cải biến không phải là dịch, và cải biến
ñồng nghĩa với phóng tác. Vậy cần phải nhìn nhận cải
biến như thế nào? Tiêu chí nào cho phép khẳng ñịnh
cải biến là cần thiết và xác ñáng? Bài viết này sẽ cố
gắng trả lời những câu hỏi nêu trên.
Abstract: Adaptation is a method commonly used
in interpreting and translation, however, theorists have
not reached an agreement on its strength and
limitations. On one hand, adaptation is considered a
của hoạt ñộng giao tiếp liên ngôn ngữ vốn có thể
bị phá vỡ nếu chỉ áp dụng thủ pháp dịch ñơn thuần.
Khác với quan ñiểm trên, một số nhà lí luận như
Ladmiral (1994) lại cho rằng cải biến không còn
là dịch, tức là khi áp dụng thủ pháp này, người
dịch ñã vượt qua giới hạn của dịch thuật.
Newmark (1982) cũng nhấn mạnh rằng trong
nhiều trường hợp, cần phải dịch cải biến (dịch
giao tiếp theo thuật ngữ của tác giả), nhưng chủ
trương áp dụng dịch ngữ nghĩa, kiên quyết không
ñịnh hướng hoàn toàn vào ñối tượng tiếp nhận bản
dịch theo quan ñiểm của trường phái Nida. Cuộc
tranh luận ñến nay vẫn còn tiếp diễn. Vậy cần phải
nhìn nhận cải biến như thế nào? Tiêu chí nào cho
phép khẳng ñịnh cải biến là cần thiết và xác ñáng?
Bài viết này sẽ cố gắng trả lời những câu hỏi nêu
trên.
1. Lịch sử vấn ñề “cải biến”
type of interpreting and translation, a creative process,
an essential act to express the meaning of discourse
and
maintain
the
balance
of
inter-language
communication activities. On the other hand, some
authors claim that adaptation is not interpreting and
has the same meaning with paraphrasing. So how
should adaptation be figured out? Which criteria affirm
the importance and properness of adaptation? This
article tries to answer these questions.
Mở ñầu
Cải biến (adaptation) là một thủ pháp thường
ñược sử dụng trong thực hành dịch. Ưu ñiểm và
hạn chế của thủ pháp này ñã ñược phân tích sâu
trong nhiều bài viết và công trình nghiên cứu về
dịch thuật. Có thể nói cho ñến nay các học giả vẫn
chưa có ý kiến thống nhất về vấn ñề này. Một số
tác giả như Nida (1969), G.L Bastin (1993) quan
niệm cải biến là một loại hình dịch, một quá trình
sáng tạo, một thao tác cần thiết nhằm biểu ñạt ý
nghĩa của một phát ngôn và duy trì sự cân bằng
56
Lịch sử nghiên cứu dịch thuật cho biết từ thời
văn minh cổ ñại, người ta ñã biết áp dụng phương
pháp cải biến. Ciceron (106-43 trước CN) và
Horace (65-8 trước CN) 1 ñã phân biệt hai chiến
lược dịch: hoặc là dịch nguyên văn từng câu chữ
của nguyên bản, hoặc là dịch tự do, hay cải biến.
Cuộc tranh luận giữa hai quan ñiểm này diễn ra
suốt thời kỳ Trung Cổ và không dẫn ñến một kết
luận rõ ràng. Giới dịch thuật phải chờ ñến thế kỷ
17 mới ñược chứng kiến “sự lên ngôi” của kỹ
thuật cải biến mà kết quả là những bản dịch “ñẹp
nhưng bất tín”. Những người ủng hộ xu hướng
này biện minh rằng cần cải biến nguyên bản cho
phù hợp với thị hiếu của thời ñại, phù hợp với
những giá trị ñã ñược thừa nhận trong ngôn ngữ
và văn hóa ñích và ñiều này ñảm bảo cho bản dịch
1
Dẫn theo Guidère, M. Introduction à la traductologie.
Penser la traduction: hier, aujourd’hui, demain, De
Boeck, 2010.
Chi n l c ngo i ng trong xu th h i nh p
ñược công chúng ñón nhận và ñược phát hành
rộng rãi. Hai thế kỷ sau, người ta lại kêu gọi hạn
chế “sự tự do” hoặc “sự bất tín” trong dịch thuật
bằng cách tôn trọng nguyên bản hơn khi chuyển
ngữ. Thời kỳ này các tài liệu khoa học kỹ thuật
ñược xuất bản nhiều, và xu hướng trung thành với
câu chữ của nguyên bản ngày càng thắng thế. Vì
thế người ta dựa vào quan ñiểm ñạo ñức nghề
nghiệp ñể phê phán chiến lược cải biến và cho
rằng chiến lược này chỉ làm biến dạng nguyên bản
một cách phi lý. Đến thế kỷ 20, một số tác giả tiếp
tục nhận ñịnh rằng cải biến là một sự phản bội tác
giả, thậm chí coi ñó là tư tưởng thao túng và vi
phạm nguyên bản cần phải loại trừ khỏi lĩnh vực
dịch thuật. Ví dụ, Begman (1985) không chấp
nhận phương pháp cải biến vì nó ngăn cản ñộc giả
bản dịch làm quen và lĩnh hội “yếu tố nước ngoài»
trong ngôn ngữ và văn hóa bản ñịa.
Trong các nghiên cứu ñương ñại về dịch thuật,
chúng ta tìm ñược nhiều phương pháp tiếp cận và
nhiều ñịnh nghĩa về cải biến. Trước hết là ý kiến
ñáng chú ý của Vinay và Darbelnet trong công
trình Phong cách học so sánh tiếng Anh và tiếng
Pháp, xuất bản lần ñầu vào năm 1958: các tác giả
ñịnh nghĩa cải biến là một trong những thủ pháp
dịch, ñược sử dụng khi tình huống mà thông ñiệp
nguyên bản quy chiếu ñến không tồn tại trong
ngôn ngữ và văn hóa ñích, nhằm vượt qua sự khác
biệt ngôn ngữ và tạo ra một sự tương ñương về
tình huống văn hóa xã hội. Hai ông ñưa ra sơ ñồ
cải biến như sau:
M1 ← S 1 = S 2 → M2 M = Message (thông
ñiệp); S = Situation (tình huống)
Sơ ñồ trên cho thấy tình huống giao tiếp không
ñồng nhất trong hai ngôn ngữ và áp dụng phép cải
biến chính là thiết lập những tương ñương tình
huống. Minh họa cho quan ñiểm của mình, các tác
giả dẫn ví dụ sau: trong một tiểu thuyết của Anh
có ñoạn miêu tả một người cha ñi công tác xa về,
cô con gái chạy ra ñón bố, và ông bố hôn lên môi
con gái. Quyết ñịnh dịch câu He kissed his
Tháng 11/2014
daughteur on the month trong nguyên bản tiếng
Anh sang tiếng Pháp là il embrassa sa fille sur la
bouche (ông hôn lên môi con gái) tức là ñưa vào
văn hóa Pháp một yếu tố không tồn tại trong nền
văn hóa ñó, và ñiều này có thể bị chối bỏ. Vì vậy
người dịch cần tạo ra một tình huống tương ñương
bằng cách cải biến một phần nguyên bản, ví dụ il
serra tendrement sa fille dans ses bras (ông trìu
mến ôm con gái).
Thống nhất với quan ñiểm của hai nhà nghiên
cứu trên, một số tác giả ñương ñại khác cho rằng
cải biến là một loại hình dịch bắt buộc khi dịch
một số thể loại văn bản, ví dụ, khi dịch các vở bi
kịch sang một ngôn ngữ khác ñể công diễn, hoặc
các văn bản quảng cáo nhằm khuyến khích tiêu
dùng sản phẩm và dịch vụ. Đối với những loại văn
bản ñó, với quan ñiểm ñịa chính trị Brisset (1990)
coi cải biến là một quá trình bản ñịa hóa nguyên
bản, trong khi ñó theo Santonyo (1989) ñây là
hình thức nhập tịch ngôn ngữ nhằm tạo ra hiệu
ứng như bản gốc. Ý kiến của Truffaut (2010) cũng
rất ñáng chú ý khi ông quan niệm cải biến không
chỉ ñơn thuần là một hình thức dịch, mà còn là
một hoạt ñộng biên soạn sáng tạo nhằm thay ñổi
thể loại văn bản, hoặc sửa ñổi một phần nguyên
bản. Theo tác giả, ñối với các văn bản quảng cáo
thương mại, người dịch phải có khả năng sáng tạo
thực sự mới có thể tạo ra một hiệu ứng giao tiếp
tương ñương như nguyên bản. Hơn nữa ñây là loại
văn bản ñặc biệt, thường sử dụng các thủ pháp tu
từ tinh tế như lối chơi chữ, kết hợp vần ñiệu,
những quy chiếu văn hóa riêng biệt của một cộng
ñồng. Ví dụ, rõ ràng không thể áp dụng thủ pháp
dịch nguyên tự ñối với những quảng cáo như của
hãng Biti’s (Bước chân Long Quân xuống biển,
bước chân Âu Cơ lên non, bước chân Tây Sơn
thần tốc, bước chân vượt dãy Trường Sơn; bước
chân tiến vào thiên niên kỷ mới; Biti’s nâng niu
bàn chân Việt) vì ñiều này gây khó hiểu ñối với
ñộc giả ñích do khác biệt về quy chiếu văn hóa.
Đến ñây, chúng ta có thể trả lời câu hỏi thế nào là
cải biến? Theo chúng tôi cải biến là thao tác tái diễn
57
Ti u ban 1: Đào t o chuyên ng
ñạt thông ñiệp và sửa ñổi một phần các biểu thức
ngôn ngữ của nguyên bản nhằm làm cho bản dịch
phù hợp hơn với ngôn ngữ và văn hóa ñích trên
bình diện quy chiếu văn hóa và hiệu quả giao tiếp.
2. Các hình thức cải biến
Có thể xác ñịnh ñược ba nhóm cải biến chính
là lược bỏ, thêm vào, và thay thế.
• Lược bỏ là không dịch một phần của nguyên
bản: ñó có thể là một từ, một ngữ, một câu hay
một ñoạn văn. Trong ví dụ dưới ñây, có thể lược
bỏ nhóm từ ở phía Nam vì việc dịch nhóm từ này
là không cần thiết và gây khó hiểu ñối với ñộc giả
Việt Nam: trong tiếng Pháp, “các nước Phương
Nam” chỉ những nước nghèo, nói chung nằm ở
phía Nam của các lục ñịa phát triển, ví dụ, một số
nước châu Phi cận Xahara. Thông tin này ñược
coi là không quan trọng ñối với ñộc giả Việt Nam.
Nguyên bản tiếng Pháp: Dans cette tâche, le
Vietnam et la France sont partenaires naturels.
Vous et nous mettons déjà notre coopération au
service des Etats les plus pauvres du Sud.
Dịch ngữ nghĩa: Trong sứ mệnh ấy, Việt Nam và
Pháp là những ñối tác tất yếu. Các bạn và chúng tôi
ñã từng hợp tác trong việc giúp ñỡ các quốc gia
nghèo nhất ở phía Nam.
Dịch cải biến: Trong sứ mệnh ấy, Việt Nam và
Pháp là những ñối tác tất yếu. Hai nước chúng ta ñã
hợp tác trong việc giúp ñỡ các quốc gia nghèo nhất.
• Thêm vào, tức là ñưa vào bản dịch những
thông tin không có trong nguyên bản nhằm giải
thích cho rõ hơn hoặc mở rộng nội dung của nó,
giúp cho ñộc giả bản dịch dễ dàng diễn giải nội
dung ñó. Trong ví dụ dưới ñây, thay vì dịch
nguyên văn là “Thượng viện”, cần dịch cải biến là
“Thượng viện Pháp”.
Nguyên bản tiếng Pháp: Le Sénat vote le projet
de loi sur la formation professionnelle, amputé de
sa partie sur l’inspection du travail.
Dịch ngữ nghĩa: Thượng viện bỏ phiếu thông
58
qua dự luật về ñào tạo nghề nhưng cắt bỏ chương
về thanh tra lao ñộng. (Câu này dành cho ñộc giả
Pháp, ở trên ñất Pháp vì vậy tác giả bài chỉ cần
viết là “Thượng viện”.
Dịch cải biến: Thượng viện Pháp bỏ phiếu
thông qua dự luật về ñào tạo nghề nhưng cắt bỏ
chương về thanh tra lao ñộng. (Câu dịch dành cho
ñộc giả Việt Nam, vì vậy yếu tố thêm vào là cần
thiết).
• Thay thế là thay một yếu tố văn hóa của
nguyên bản bằng một yếu tố khác ñược coi là
tương ñương. Đây là sự thiết lập tương ñương về
tình huống văn hóa xã hội theo Vinay và
Darbelnet.
Ví dụ, trong bộ truyện tranh Những cuộc phiêu
lưu của Tintin của Hergé, hai nhân vật anh em
sinh ñôi là Dupond và Dupont (hai từ ñồng âm
này chỉ khác nhau ở phụ âm cuối [t] ≠ [d]), ñã
ñược cải biến sang tiếng Anh là Thomson và
Thompson, tiếng Tây Ban Nha là Hernandez và
Fernandez.
Lối nói so sánh của tiếng Việt gày như con hạc
thờ sẽ ñược cải biến sang tiếng Pháp là gày như
một cái ñinh như trong ví dụ sau:
“Suốt ngày ñược sửa gáy vít ñầu thiên hạ mà
Tám vẫn không ñủ vắt mũi ñút miệng. Người ñã gày
như con hạc thờ lại một vợ bốn con quanh năm hết
dật tạm lại vay nóng”.
→ Mais avec ce métier qui consistait à rendre
les autres plus beaux, le pauvre Tam avait lui bien
du mal à vivre. Maigre comme un clou, Tam avec
sa femme et ses quatre enfants, était toujours dans
le besoin, cherchant d’un bout de l’année à l’autre
quelques dongs à emprunter ça et là.
Đầu ñề cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn
Trung Quốc Mạc Ngôn, giải thưởng Nobel văn
học năm 2012, nguyên văn là Phong nhũ phì ñồn
(vú to mông nở) ñã ñược dịch giả Trần Đình Hiến
Chi n l c ngo i ng trong xu th h i nh p
cải biên thành “Báu vật của ñời”2 cho trang nhã
hơn, phù hợp hơn với ñộc giả Việt Nam.
Với phát ngôn sau, trích từ một báo cáo khoa
học tại Hội thảo về ña dạng sinh học năm 2007 tại
Hà Nội: «La conservation de la diversité
spécifique exceptionnelle de la cordillère
annamite3 en tant que patrimoine de l’humanité»,
chúng tôi thấy không thể dịch nguyên văn nhóm
từ cordillère annamite vì nó chứa một tính từ ñã
quá lỗi thời (dãy Trường sơn An Nam) nên ñã cải
biến là: Bảo tồn ña dạng sinh học ñặc thù của dãy
Trường Sơn, một di sản của nhân loại.
Lý do của những hình thức cải biến trình bày
trên ñây là gì? Trả lời cho câu hỏi này chính là
thảo luận về tính thích ñáng của phương pháp dịch
cải biến, ñồng thời nêu ra ñược những hạn chế của
nó. Chúng tôi sẽ thảo luận vấn ñề này ở phần sau.
3. Biện minh cho tính thích ñáng của
phương pháp dịch cải biến
Thực hành dịch thuật cho thấy cải biến trước
hết là phương pháp cho phép chúng ta vượt qua
những yếu tố ngôn ngữ bất khả dịch. Thực vậy,
việc dịch những ñơn vị này thường là theo cách từ
ñối từ sẽ làm mất ñi sự cân bằng thậm chí gây bế
tắc trong giao tiếp liên ngữ. Chính vì thế cải biến
là một giải pháp tất yếu. Xét ở góc ñộ ngôn ngữ,
ñúng là khi lựa chọn chiến lược này người dịch ñã
vượt ra khỏi ñịa hạn ngôn ngữ, ñã “bất tín” với tác
giả nguyên bản, vì thế, Ladmiral ñã phát biểu rằng
“cải biến không còn là dịch nữa” như chúng tôi ñã
trình bày trên ñây, và ý kiến của ông không phải là
không có cơ sở. Nhưng vì dịch là một hành vi giao
tiếp, và mục tiêu quan trọng nhất của nó là truyền
ñạt lại nội dung thông ñiệp, dù có phải sử dụng
những phương tiện hay hình thức diễn ñạt khác
với nguyên bản. Theo tinh thần này, cải biến cần
ñược nhìn nhận như một phương pháp dịch, có cơ
sở lí thuyết, giống như các phương pháp khác. Có
2
Báu vật của ñời, tác giả Mạc Ngôn, dịch giả Trần Đình
Hiến, nhà xb T/P HCM, 2007.
3
Báo cáo của dự án FSP «Biodiva», 2007.
Tháng 11/2014
thể dẫn nhiều ví dụ minh họa cho ý kiến này.
Để dịch cụm từ tóc mây, ta không thể ghép tóc
(cheveux) với mây (nuages), mà cần cải biến
thành les cheveux légers comme nuages (tóc nhẹ
như mây). Người Pháp không nói tóc mây mà tóc
nhẹ. Trường hợp này có thể minh họa cho sự khác
biệt về tư duy giữa hai cộng ñồng ngôn ngữ.
Cụm danh từ phức những giọt mồ hôi màu
xanh cũng phải cải biến thành những giọt mồ hôi
của sinh viên tình nguyện vì dịch nguyên văn sẽ
cho kết quả là một cụm từ mà ñộc giả Pháp sẽ
thấy khó hiểu: des gouttes de sueur verte.
Như vậy trước một cụm từ, một lối nói ñặc thù,
hay một biểu thức ngôn ngữ phức tạp mà dịch
nguyên văn có thể khiến ñộc giả ñích diễn giải sai
ý nghĩa, người dịch phải chọn một trong hai chiến
lược chính: hoặc cải biến tức là tìm kiếm sự tương
ñương về hiệu quả giao tiếp hoặc dịch từ ñối từ,
dịch nguyên tự và chú giải ngay trong văn bản
hoặc ở cuối trang. Chiến lược thứ nhất thể hiện
khả năng tự do sáng tạo ở mức ñộ cao nhất của
người dịch và sự ưu tiên cho văn hóa và ngôn ngữ
ñích. Với lựa chọn thứ hai, người dịch quyết ñịnh
dành ưu tiên cho văn hóa và ngôn ngữ nguồn.
Ngoài việc xử lí những yếu tố bất khả dịch, cải
biến còn ñược coi là một giải pháp giúp vượt qua
những khó khăn do nội dung văn hóa của nguyên
bản gây ra. Cải biến một thông ñiệp chính là thực
hiện một số biến ñổi trên bình diện ngôn ngữ và
văn hóa sao cho phù hợp với ñặc ñiểm văn hoá
của ñối tượng tiếp nhận bản dịch. Nói cách khác,
cải biến là thay thế một tình huống văn hóa xã hội
ñặc thù của ngữ nguồn bằng tình huống tương
ñương trong ngữ ñích. Có thể thấy nội dung văn
hóa của nguyên bản thường gây trở ngại cho giao
tiếp liên ngữ và liên văn hóa. Thế mà những khác
biệt về văn hóa, chính trị giữa các cộng ñồng xã
hội luôn nhiều hơn tương ñồng. Do vậy chú ý ñến
người tiếp nhận bản dịch và những ñặc ñiểm văn
hóa xã hội của họ là một trong những yêu cầu
quan trọng, là lý do thực hiện dịch cải biến. Sau
ñây là một số ví dụ minh họa cho quan ñiểm trên.
59
Ti u ban 1: Đào t o chuyên ng
Theo A. Meseriacov4, khi dịch một truyện ngắn
thời Trung ñại của Nhật ñầu ñề Câu chuyện về
Ông già Taketori, trong nguyên bản có câu “ngày
xưa có người ñàn ông”, viện sĩ N.I. Konrat (19811970) ñã dịch sang tiếng Nga là “Ngày xưa có nhà
hiệp sĩ”. Theo tác giả, sở dĩ viện sĩ ñã cải biến như
vậy là vì cách nói “nhà hiệp sĩ” thích hợp với văn
hóa châu Âu hơn là cụm từ “người ñàn ông” và
ông ñã thêm vào bản dịch “chất trang nhã”, và cả
chất văn hóa châu Âu.
Trong dịch văn học, cải biến ñược coi là thủ
pháp hữu hiệu nhất nhằm tạo ra tương ñương về
hiệu quả giao tiếp, bởi lẽ các tác phẩm văn học
chứa ñựng nhiều ẩn dụ và tham chiếu văn hóa
(référence culturelles) nói chung là bất khả dịch.
Quan sát bản dịch tiếng Pháp truyện ngắn Người
ñàn bà tóc trắng của Nguyễn Quang Thiều (1993),
do Phan Thế Hồng5 thực hiện, chúng ta tìm ñược
nhiều trường hợp cải biến ñáng chú ý.
Trước hết ñầu ñề của truyện ngắn này ñã ñược
chuyển thành Bí mật khủng khiếp về mái tóc trắng
của bà Nhím (Le terrible secret des cheveux
blancs de la vieille Nhim). Nhiều ñầu ñề một số
tác phẩm khác của nhà văn cũng ñược dịch cải
biến như: Mùa hoa cải bên sông → Cô gái bên
sông (La fille du fleuve); hoặc Nấc tràng hạt thứ
hai mươi mốt → Giấc mơ kỳ lạ của ngài Ba
Nhuận khả kính (Le rêve étrange de l’honorable
monsieur Ba Nhuận); Thị trấn những cây bàng cụt
→ Cô bé bán bún (La petite marchande de
vermicelles). Không chỉ các tác phẩm của Nguyễn
Quang Thiều, ñầu ñề các tác phẩm văn học dịch
khác cũng ít khi trung thành với nguyên bản mà
ñược cải biến theo quyết ñịnh của người dịch.
Hiện tượng này cũng diễn ra trong văn học dịch
nước ngoài. Tiểu thuyết The Thorn Birds của nhà
văn Australia Colleen McCullough, xuất bản năm
4
A. Meseriacov, Tính sáng tạo của người dịch, Đỗ Thanh
dịch từ tiếng Nga, báo Văn Nghệ, số 29, 17-7-2010.
5
Nguyễn Quang Thiều Le terrible secret des cheveux
blancs de la vieille Nhim, version française par Phan Thế
Hồng , Maison d’édition de l’Aube 1988.
60
1977 ñược chuyển sang tiếng Pháp là Les oiseaux
se cachent pour mourir = Những con chim giấu
mình chờ chết, và tiếng Việt là Tiếng chim hót
trong bụi mận gai. Có lẽ cần thêm nhiều cuộc thảo
luận ñể khẳng ñịnh cải biến ñầu ñề là tất yếu.
Trước mắt chúng tôi cho rằng ñúng là tất yếu nếu
ñầu ñề ñó chứa một liên tưởng (allusion) hay một
tham chiếu văn hóa bất khả dịch, như trường hợp
của Nấc tràng hạt thứ hai mươi mốt, vốn là một
liên tưởng ñến ñời sống tín ngưỡng Phật giáo
phương Đông, xa lạ với ñộc giả Pháp ngữ. Còn
những trường hợp khác chúng ta cần cân nhắc.
Một số trường hợp cải biến khác bắt nguồn từ
mục ñích vượt qua sự khác biệt rõ rệt về ñặc trưng
văn hóa xã hội, và những khác biệt về tư duy giữa
hai cộng ñồng ngôn ngữ. Những ví sau minh họa
cho ý kiến này.
Ngôi nhà lúc nào cũng thâm u như chùa → La
maison n’avait pas changé: profonde et
silencieuse comme un tombeau = Ngôi nhà lúc
nào cũng thâm u như lăng mộ
Người Mô nhỏ nhưng rắn chắc như tre → Mo
n’était pas grand mais c’était un gars bien bâti =
Mô không to cao nhưng ñó là một chàng trai có
thân hình cân ñối.
Vào ñi, người hôi như chuột. Ra giếng mà tắm
(Lời nhân vật Nhím nói với cô bé ăn mày trong
truyện ngắn) → Entre donc. Mais tu pues comme
un bouc. Va d’abord te laver au puits = Vào ñi,
người hôi như dê. Ra giếng mà tắm.
Trong làng có một người chuyên viết ñiếu văn
cho các cụ già khi về cõi tiên. Thế mà khi bà Nhím
chết người viết ñiếu văn ñành chịu bó tay. → Il
existe pourtant dans ce village un homme préposé
aux discours qui accompagnent les vieillards
morts de leur belle mort. Mais quand la vielille
Nhim a rendu l’âme, cet homme a été paralysé et
n’a pas réussi à écrire une seule ligne. = Trong
làng có một người chuyên viết ñiếu văn tiễn biệt
các cụ già khi qua ñời. Thế mà khi bà Nhím chết,
người viết ñiếu văn bị tê liệt không thể viết nổi
một dòng.
Chi n l c ngo i ng trong xu th h i nh p
Trong những ví dụ trên, dịch giả ñã thay thế
những quy chiếu văn hóa của ngữ nguồn bằng
những quy chiếu quen thuộc trong ngữ ñích: âm u
như chùa ñược thay bằng như lăng mộ; hôi như dê
thay cho hôi như chuột... Giữ lại những quy chiếu
của người Việt trong bản dịch tiếng Pháp có thể sẽ
tạo ra một hiệu ứng khác với hiệu ứng mà tác giả
mong muốn, vì ñộc giả Pháp ngữ không có cùng
trải nghiệm, cách tư duy, hoặc quy chiếu văn hóa
như ñộc giả Việt ngữ. Đó là lí do vì sao người
dịch ñã loại bỏ mọi dấu vết của ngôn ngữ và văn
hóa nguồn, mọi yếu tố xa lạ với ñộc giả ñích. Vì
thế bản dịch ñã trở nên trong suốt như thể ñược
sáng tác bằng tiếng Pháp. Người ñọc bản dịch sẽ
cảm nhận ñó là văn học Pháp chứ không phải là
văn học dịch. Rõ ràng người dịch ñã ưu tiên ñộc
giả ñích, ưu tiên mục tiêu trong suốt hóa những
nội dung ñược coi là xa lạ với ñối tượng ñích.
Điều này có nghĩa dịch giả phải chấp nhận sự hao
hụt thông tin, hao hụt các yếu tố ñặc thù của ngôn
ngữ và văn hóa nguồn. Sự ưu tiên này có phải là
sự lựa chọn duy nhất? Chúng tôi sẽ trả lời câu hỏi
này trong phần sau.
4. Giới hạn của cải biến
Phần trên chúng ta ñã biện hộ cho phương pháp
dịch cải biến khi nói rằng ñây là một thủ pháp cần
thiết giúp vượt qua những trường hợp bất khả dịch
và làm trong suốt hóa những quy chiếu liên tưởng
văn hóa xa lạ với ñộc giả ñích. Chúng ta cũng
khẳng ñịnh rằng với quyết ñịnh cải biến, người
dịch ñã dành ưu tiên cho ngôn ngữ và văn hóa
ñích. Vậy văn hóa và ngôn ngữ nguồn sẽ là gì khi
phải chịu sự cải biến? Trả lời câu hỏi này chính là
vạch ra giới hạn cho dịch cải biến.
Về mặt lí luận, Newmark là một nhà ngôn ngữ
học luôn ủng hộ dịch ngữ nghĩa. Ông cho rằng cải
biến theo trường phái của Nida là xa rời những
yếu tố ngữ nghĩa và hình thức diễn ñạt quan trọng
của nguyên bản trong ñó có các thủ pháp tu từ (ẩn
dụ, hoán dụ, cường ñiệu, so sánh hình ảnh...). Hơn
nữa theo tác giả, trong dịch thuật ñiều chủ yếu là
Tháng 11/2014
trung thành với nguyên bản. Vì thế Newmark
khẳng ñịnh hoàn toàn có thể sử dụng trực dịch, và
ñể tạo ra hiệu quả tương ñương như nguyên bản
thì trong nhiều trường hợp, trực dịch hay dịch từ
ñối từ là phù hợp nhất. Nhà nghiên cứu người Nga
Alechxanñr Meseriacov 6 , khi phân tích về tính
sáng tạo của người dịch cũng cho rằng “ngày nay
người dịch tự do hơn trong việc lựa chọn các giải
pháp dịch, tùy theo sự hiểu biết, thị hiếu của
mình”. Tác giả dẫn ví dụ về một tác phẩm văn học
cổ của Nhật Bản có tựa ñề Câu chuyện về Ông già
Taketori ñược hai dịch giả nổi tiếng người Nga
dịch sang tiếng Nga theo hai phương pháp khác
nhau. Bản dịch “có tính kinh ñiển”, ngữ nghĩa của
V.N. Marcova (1907-1955) thì ñược tái bản nhiều
lần, “ñược ñọc nhiều vì nó không phải là truyện cổ
tích Nga với các cái tên Nhật”. Trong khi ñó dịch
giả A.A. Kholodovich (1906-1977), một nhà ngữ
văn Nga nổi tiếng, ñã “Nga hóa” (tức là ñã cải
biến - chúng tôi nhấn mạnh) các từ ngữ sử dụng
trong nguyên bản một cách rất tài tình, nhưng bản
dịch của ông ngày nay không ai còn nhắc ñến.
J.-P. Vinay và J. Darbelnet cũng nhận xét rằng
cải biến chỉ ñược sử dụng trong trường hợp tình
huống văn hóa xã hội trong ngữ nguồn không tồn tại
trong ngữ ñích, và tình huống ñó phải ñược chuyển
ñổi bằng một tình huống tương ñương. Theo các
tác giả cải biến là một thủ pháp dịch tương ñương
ñặc biệt. Đó là tương ñương tình huống.
Về mặt thực tiễn, chúng tôi cho rằng thực hiện
cải biến một cách hệ thống nguyên bản như
trường hợp ñầu ñề các tác phẩm văn học là một
ñiều ñáng tranh luận. Dựa vào lí do bản dịch phải
trong suốt ñối với ñộc giả ñích, chúng ta ñã tước
mất quyền ñược ưu tiên của ngôn ngữ và văn hóa
nguồn, và quên rằng ngôn ngữ và văn hóa nguồn
cũng cần ñược phổ biến, lan tỏa, phát huy giá trị
như bất kỳ ngôn ngữ nào khác. Mặt khác thông
qua một bản dịch ngữ nghĩa – tức là không cải
6
Alechxanñr Meseriacov Tính sáng tạo của người dịch, Đỗ
Thanh dịch, báo Văn Nghệ, số 29 (17-7-2010).
61
Ti u ban 1: Đào t o chuyên ng
biến, các dân tộc có thể hiểu nhau hơn, nhìn nhận
ñúng về nhau hơn khi biết cơ sở tư duy của dân
tộc khác. Hơn nữa ñiều mà ta cần chính là ñiều ta
không có, chính là những gì ñộc ñáo ñến từ nơi
khác. Vì thế cái xa lạ ñã trở thành yếu tố hấp dẫn.
Do vậy người dịch cần mạnh dạn ñòi hỏi ñộc giả
ñích của mình tìm hiểu và chấp nhận những con
người, những thực tế ñến từ một nền văn hóa xa lạ
khác, yêu cầu họ thực hiện một chuyến du lịch
khám phá một ñất nước xa xôi thông qua một bản
dịch ngữ nghĩa. Ví dụ, khi viết câu Người Mô nhỏ
nhưng rắn chắc như tre, Nguyễn Quang Thiều ñã
ví sức vóc của người thanh niên trong truyện ngắn
của ông với cây tre, biểu trưng của văn hóa ñồng
quê Việt Nam. Theo chúng tôi, bản dịch cần trung
thành với biểu trưng này và giới thiệu nó với ñộc
giả Pháp ngữ: Mô est d’un petite taille mais solide
comme un bambou. Đây chính là sự giao tiếp liên
văn hóa bình ñẳng, có cho và có nhận, chứ không
chỉ cho hoặc nhận một chiều vì như thế thì còn
ñâu là bản sắc dân tộc!!! Có thể có ý kiến bác lại
rằng ñộc giả Pháp ngữ sẽ không hiểu lối so sánh
trên của người Việt. Theo chúng tôi nói như vậy
chính là ñánh giá thấp năng lực của họ. Chúng ta
chỉ cần kiểm chứng qua một người nói tiếng Pháp
là tiếng mẹ ñẻ, hoặc qua nguồn tư liệu của internet
ñể thấy rằng người Pháp cũng có thể cảm nhận
ñược hình ảnh so sánh nói trên. Điều này cũng
bình thường vì ngay cả với tiếng mẹ ñẻ, người ñọc,
người tham thoại cững phải tiến hành diễn giải ý
nghĩa của phát ngôn trên cơ sở huy ñộng kiến thức
ngôn ngữ ñã tích lũy và kiến thức tri nhận ngoài
ngôn ngữ.
Vậy giới hạn của cải biến là gì? Theo chúng tôi
quá trình cải biến với tư cách là một chiến lược
dịch bắt ñầu từ những yếu tố bất khả dịch do khác
biệt về tư duy, về quy chiếu văn hóa và kết thúc ở
ranh giới giữa dịch và phóng tác. Việc dịch các
yếu tố ngôn ngữ ñặc thù, ñược coi là bất khả dịch
sẽ dẫn ñến mất cân bằng hoặc gây bế tắc cho giao
tiếp, trong khi ñó lạm dụng cải biến sẽ khiến
nguyên bản bị biến dạng, trở thành một loại
62
“phóng tác” và như vậy người dịch sẽ tạo ra một
nguyên bản thứ hai, khác với sản phẩm ban ñầu của
tác giả cả về nội dung lẫn văn phong.
Trước hai nguy cơ này, giải pháp của người
dịch là căn cứ vào bản chất của nguyên bản (thể
loại văn bản, văn phong, ngữ vực, ý ñịnh của tác
giả...) và chức năng của bản dịch (thông tin,
thuyết phục, phổ biến văn hóa...), vốn do người
ñặt hàng dịch và chính người dịch xác ñịnh. Hai
căn cứ trên sẽ giúp người dịch lựa chọn ñược một
chiến lược dịch phù hợp, hoặc cải biên, ưu tiên ñối
tượng ñộc giả ñích hoặc dịch ngữ nghĩa, trung
thành với ngôn ngữ và văn hóa nguồn. Trên tinh
thần này chúng tôi sẽ không ủng hộ những cách
dịch cải biến làm mất ñi những ñiểm ñộc ñáo
trong tư duy liên tưởng của một cộng ñồng văn
hóa ngôn ngữ như ví dụ sau, cũng trích từ bản
dịch của Phan Thế Hồng:
Ngay cả khi trạm xá xã ñã ñược thành lập với
nhiều loại ñông tây y thì thuốc cao của bà (bà
Nhím) vẫn bán chạy như tôm tươi. → Ngay cả
khi trạm xá xã ñã ñược thành lập với nhiều loại
ñông tây y thì thuốc cao của bà Nhím vẫn không
ngớt thành công (Même après l’ouverture du
dispensaire du canton qui disposait pourtant des
médidaments tradictionnels et occidentaux, le
succès des emplâtres de madame Nhim ne
désarma jamais).
Cách dịch cải biến như trên có thể nói là không
ñạt yêu cầu về tương ñương biểu cảm
(équivalence connotative), nói theo thuật ngữ của
Koller. Nếu e ngại rằng dịch ngữ nghĩa sẽ gây khó
hiểu cho ñộc giả Pháp ngữ, người dịch sẽ phải sử
dụng một thành ngữ tương ñương là: thuốc cao
của bà Nhím vẫn bán chạy như bánh mỳ (les
emplâtres fabriqués par madame Nhim continuent
de se vendre comme des petits pains). Bánh mỳ
Pháp cũng như pho mát Pháp vốn nổi tiếng về
chất lượng và ña chủng loại vì thế và biểu trưng
ẩm thực Pháp là chiếc bánh mỳ dài như chiếc ñũa
và miếng phó mát! Nhưng câu tiếng Pháp có thực
sự khó hiểu khi chúng ta dịch nguyên văn là bán
chạy như tôm tươi, (se vendre comme des
Chi n l c ngo i ng trong xu th h i nh p
crevettes fraiches? Có lẽ không: tôm, sản phẩm
của nền nông nghiệp Việt Nam, ñã ñược thế giới
ưa chuộng ở dạng ñông lạnh. Chắc chắc là tôm
tươi còn hấp dẫn hơn. Hoặc người dịch ñã ñánh
giá thấp năng lực diễn giải của ñộc giả ñích hoặc
ñã loại trừ một biểu hiện của ñời sống văn hóa
nguồn. Cả hai giả thiết này ñều không dựa vào
một cơ sở lí luận xác ñáng.
Kết luận
Cải biến với tư cách là một chiến lược dịch
trước hết nhằm mục ñích vượt qua những trường
hợp bất khả dịch, làm cho bản dịch trong suốt như
thể ñó là một nguyên bản trong văn hóa ñích khi
thay thế hoặc loại bỏ toàn bộ hoặc một phần
những quy chiếu văn hóa trong ngữ nguồn xa lạ
với ñối tượng ñộc giả ñích. Lựa chọn chiến lược
này người dịch dành ưu tiên cho ngôn ngữ và văn
hóa ñích, và tạo thuận lợi cho giao tiếp liên văn
hóa. Tuy nhiên nếu áp dụng phương pháp này một
cách có hệ thống, thậm chí bị lạm dụng nó, người
dịch có nguy cơ trở thành “một kẻ bất tín”, phóng
tác sa ñà, ñóng thế tác giả nguyên bản ñể tạo ra
một bản gốc thứ hai, trong ñó tư tưởng và văn
phong của tác giả hoàn toàn mất ñi dấu vết. Ngày
nay, trong xu hướng toàn cầu hóa, trong một thế
giới phẳng, bảo vệ và phát huy giá trị của ña dạng
văn hóa là một nhiệm vụ quan trọng. Để thực hiện
tốt nhiệm vụ này, văn học dịch cần giới thiệu và
làm nổi bật những ñặc trưng văn hóa dân tộc có
khả năng tạo sức hấp dẫn ñối với các dân tộc khác.
Vì thế bản dịch không nên chủ ý che giấu hoàn
toàn nguồn gốc của nó ñể mang một bộ mặt mới
thuộc một nền văn hóa khác. Bản dịch cần thể
hiện một sự thoả hiệp thông minh, hợp lí giữa hai
Tháng 11/2014
thái cực: một là những trường hợp bất khả dịch và
những khác biệt lớn về quy chiếu văn hóa, một là
ý ñịnh làm lu mờ bản gốc, “phản bội” tác giả,
trong suốt hóa bản dịch, tạo ra sự tiếp biến văn
hóa một chiều.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bastin, G.L., «La notion d’adaptation en
traduction» in Méta, XXXVIII, 3, 1993, pp. 473-478.
2. Begman, A., Pour une critiquedes traductions:
John Donne, Paris, Gallimard, 1995.
3. Brisset, A., Sociocritique de la traduction: Théâtre
et altérité au Québec, Montréal, le Préambule, 1990.
4. Delisle, J., La traduction raisonnée: Manuel d’initiation
à la traduction professionnelle de l’anglais vers le
français, Ottawa, Presses de l’Université, 1993, p. 124.
5. Guidère, M., «De l’adaptation à la localisation
publicitaire» in Archibald J., La localisation:
problématique de la formation, Montréal, Lingatech,
pp.69-95, 2004.
6. Guidère, M., Introduction à la traductologie.
Penser la traduction: hier, aujourd’hui, demain, De
Boeck, 2010.
7. Koller, W., «Equivalence en Translation Theory» in
Chesterman (éd.), Readings in Translation Thery,
Helsinski, Oy Finn Lectura Ab.
8. Ladmiral, J.-R., Traduire: théorèmes pour la
traduction, Paris, Gallimard, 1994.
9. Larose, R., Théories contemporaines de la
traduction. 2è édit., Québec, Presses de l’Université du
Québec, 1989.
10. Newmark, P., About Translation, Clevedon,
Multilingual Matters, 1988.
11. Nida, E.A., Toward a Science of Translating,
Leiden, Brill, 1964.
12. Truffaut, L., Abécédaire de la traduction
professionnelle. 3 Volumes, Bruxelles, Les Editions du
Hazard, 2004.
13. Vinay, J.-P., et Darbelnet, J., Stylistique comparée
du français et de l’anglais. Méthode de traduction,
Edit. revue et augmen, Paris, Didier, 1977.
63