HỌC VIỆN TƯ PHÁP
KHOA ĐÀOTẠO CÔNG CHỨNG VIÊN VÀ CÁC CHỨC DANH KHÁC
----------------------
BÁO CÁO KẾT THÚC HỌC PHẦN
CÔNG CHỨNG VIÊN VÀ NGHỀ CÔNG CHỨNG
Chuyên đề: Từ một số tình huống thực tiễn về vi phạm đạo đức
hành nghề công chứng, hãy đề xuất và hoàn thiện quy tắc đạo đức
hành nghề công chứng hiện hành
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 8 năm 2020
LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu.............................................................................. 1
2. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng nghiên cứu.................................................................2
2.1. Mục đích................................................................................................................ 2
2.2. Nhiệm vụ................................................................................................................2
2.3. Đối tượng nghiên cứu............................................................................................ 3
3. Cơ cấu của bài báo cáo.................................................................................................3
I. QUY TẮC ĐẠO ĐỨC HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG VÀ CÁC QUY ĐỊNH
LIÊN QUAN ĐẾN XỬ LÝ VI PHẠM TRÁCH NHIỆM NGHỀ NGHIỆP CỦA
CÔNG CHỨNG VIÊN VÀ TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG................4
1. Quy tắc Đạo đức hành nghề công chứng ....................................................................4
1.1. Quy tắc chung ....................................................................................................... 4
1.2. Quan hệ với người yêu cầu công chứng................................................................4
1.3. Quan hệ với đồng nghiệp, tổ chức hành nghề công chứng, tổ chức xã hội nghề
nghiệp công chứng, tổ chức, cá nhân khác...................................................................5
1.4. Kiểm tra, giám sát, khen thưởng, xử lý vi phạm...................................................5
2. Quy định về xử lý vi phạm trong hoạt động công chứng............................................5
2.1. Xử lý vi phạm hành chính..................................................................................... 5
2.2. Trách nhiệm dân sự................................................................................................6
2.3. Truy cứu trách nhiệm hình sự................................................................................6
II. MỘT SỐ TÌNH HUỐNG THỰC TIỄN VỀ VI PHẠM ĐẠO ĐỨC HÀNH
NGHỀ CÔNG CHỨNG.................................................................................................7
1. Nhóm hành vi vi phạm hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng; Vi phạm về
quan hệ với người yêu cầu công chứng........................................................................... 7
2. Nhóm hành vi vi phạm về thủ tục công chứng...........................................................9
3. Nhóm hành vi chứng nhận hợp đồng giao dịch có nội dung vi phạm pháp luật...... 12
4. Những hành vi vi phạm quy định về thu chi phí công chứng thù lao công chứng.. 15
III. NGUYÊN NHÂN - ĐỀ XUẤT VÀ HOÀN THIỆN QUY TẮC ĐẠO ĐỨC
HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG HIỆN HÀNH......................................................... 16
1. Nguyên nhân...............................................................................................................16
2. Đề xuất và hoàn thiện quy tắc đạo đức hành nghề công chứng hiện hành............... 18
2.1. Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng......... 18
2.2. Hoàn thiện quy định của pháp luật trong tổ chức và vận hành hoạt động công
chứng...........................................................................................................................19
2.2.1. Kế thừa và tiếp tục phát triển những quy định đã đem lại kết quả tích cực.19
2.2.2. Tạo sự thống nhất chung trong quá trình giải quyết hồ sơ công chứng cho
công dân................................................................................................................... 19
2.2.3. Ban hành văn bản quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan
của Hội Công chứng viên tỉnh, thành phố ............................................................. 20
2.3. Tăng cường bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ công chứng. Ban hành quy định
hướng dẫn về nội dung bồi dưỡng kỹ năng, đạo đức hành nghề công chứng........... 21
2.4. Tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về quản lý nhà
nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng....................................................... 21
2.5. Hoàn thiện quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực công chứng - Xử lý nghiêm minh mọi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực công
chứng...........................................................................................................................22
2.6. Tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà
nước - Liên kết các ban ngành - Khen thưởng theo đánh giá thường kì trong hoạt
động công chứng.........................................................................................................23
KẾT LUẬN................................................................................................................... 25
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................... 27
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Có tài mà không có đức là người vô dụng,
có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Đại thi hào Nguyễn Du cũng đã
từng nhắn nhủ rằng: “Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài”. Dẫn chứng để thấy rằng, từ
lịch sử, con người đã nhận thức được tầm quan trọng của “Tâm - Đức” trong cuộc
sống. Có thể khẳng định rằng, khi làm bất cứ ngành nghề nào cũng cần phải có đạo
đức nghề nghiệp, làm bằng chính cái tâm của con người.
Như đã biết, Công chứng là một nghề cao quý. Đặc trưng nổi bật và khác biệt
nhất của công chứng viên so với những người hành nghề khác là mặc dù với tư cách cá
nhân (là một công dân hoặc một công chức bình thường) nhưng được Nhà nước tin
tưởng, bổ nhiệm để trao cho một phần quyền lực công của Nhà nước (thực hiện dịch
vụ công do Nhà nước ủy nhiệm) nhằm thực hiện chức năng chính là chứng nhận tính
xác thực, tính chính xác, tính hợp pháp và tính phù hợp với đạo đức xã hội của các hợp
đồng, văn bản giao dịch dân sự hoặc các giấy tờ dân sự khác. Như vậy, thông qua hoạt
động công chứng, làm cho các văn bản, giấy tờ này trở thành có hiệu lực pháp luật như
các văn bản của Nhà nước ban hành ra, được nhân dân và Nhà nước thừa nhận, thì
chính công chứng viên là người góp phần bảo vệ pháp luật, bảo vệ các quyền và lợi ích
hợp pháp của người yêu cầu công chứng khi tham gia giao kết các hợp đồng giao dịch.
Đồng thời, với chức năng nói trên của mình, hành vi của công chứng viên còn được
toàn bộ xã hội nhìn nhận như một chuẩn mực về sự đúng đắn, đặt vào đó một sự tin
cậy rất cao nếu như không muốn khẳng định gần như là tuyệt đối.
Trong bối cảnh hiện nay, khi nền kinh tế đang phát triển theo định hướng kinh tế
thị trường, lĩnh vực công chứng đã chính thức được xã hội hóa, thì cùng với sự phát
triển về số lượng, những yêu cầu về chất lượng, mà trong đó yếu tố năng lực và yếu tố
đạo đức của các công chứng viên buộc phải đặt ra một cách cấp bách và phải thực thi
một cách triệt để đáp ứng được những kỳ vọng lớn lao đó của người dân và của xã hội.
Với các nước có nền pháp luật lâu đời và phát triển thì đội ngũ công chứng viên
của họ đã gần như khẳng định được vị thế chắc chắn, uy tín rất cao trong giới những
người hành nghề pháp luật và trong lòng xã hội. Còn đối với nước ta, một đất nước
vẫn còn nghèo, lịch sử pháp luật chưa dài, ý thức pháp luật của người dân chưa cao,
trình độ và kinh nghiệm của những nhà xây dựng pháp luật dù sao vẫn còn những hạn
chế, thiếu sót, nên việc xây dựng và thực thi pháp luật nói chung và pháp luật về công
chứng nói riêng vẫn còn rất nhiều tồn tại, bất cập.
1
Do vậy, việc ban hành Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng là điều tất yếu và
mang tính cốt lõi - kim chỉ nam. Quy tắc bao gồm các chuẩn mực đạo đức, hành vi
ứng xử của công chứng viên trong hành nghề công chứng, là cơ sở để công chứng viên
tự giác rèn luyện tu dưỡng đạo đức trong hành nghề và trong đời sống xã hội, nhằm
nâng cao trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên, nâng cao uy tín của công
chứng viên, góp phần tôn vinh nghề công chứng trong xã hội.
Tuy nhiên, từ quy định cho đến kết quả thực thi là một khoảng cách còn khá lớn.
Biểu hiện trên thực tế là, cho đến hiện tại, những sai phạm về đạo đức hành nghề của
công chứng viên vẫn còn rất nhiều và có xu hướng ngày càng gia tăng với tính chất và
mức độ nghiêm trọng hơn trước.
Do đó, sau khi hoàn thành học phần: “Công chứng viên và nghề công chứng” tại
Học viện Tư pháp cơ sở Thành phố Hồ Chí Minh, học viên đã mạnh dạn quyết định
chọn chuyên đề: “Từ một số tình huống thực tiễn về vi phạm đạo đức hành nghề
công chứng, hãy đề xuất và hoàn thiện quy tắc đạo đức hành nghề công chứng hiện
hành” để làm rõ hơn những bất cập còn tồn tại, đã và đang làm ảnh hưởng đến sự
phát triển nghề công chứng nói riêng và sự phát triển xã hội nói chung. Từ đó, đưa ra
một số giải pháp thiết thực để có thể hoàn thiện và hạn chế tối đa những vi phạm đạo
đức hành nghề công chứng.
2. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng nghiên cứu
2.1. Mục đích
Góp phần làm rõ những vấn đề thực tiễn và lý luận về vi phạm đạo đức hành
nghề công chứng; Đánh giá đúng thực trạng về cách hành nghề của công chứng viên,
tổ chức hành nghề công chứng và sự quản lý của Nhà nước đối với công chứng viên,
các tổ chức hành nghề công chứng; Đề xuất các giải pháp hoàn thiện sự quản lý của
Nhà nước, hoàn thiện quy tắc đạo đức hành nghề công chứng nhằm góp phần giúp
nghề công chứng vững từ phần gốc rễ và phát triển theo kịp trình độ thế giới, mang
đến cho người yêu cầu công chứng có cái nhìn tin tưởng và yên tâm về nghề công
chứng của nước nhà.
2.2. Nhiệm vụ
Trên cơ sở nhận thức chung về vai trò, vị trí của nghề công chứng, những nội
dung cơ bản của Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng, đưa ra được thực trạng vi
phạm đạo đức hành nghề công chứng, làm rõ bản chất và nêu cơ sở của những vi phạm.
Qua đó, đề xuất được các giải pháp nhằm hoàn thiện quy tắc đạo đức hành nghề công
2
chứng, góp phần vào sự phát triển của nghề công chứng nói riêng và sự phát triển của
xã hội nói chung.
2.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của báo cáo là Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng và
thực tiễn của hoạt động công chứng trong phạm vi cả nước (chú trọng vào địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh).
3. Cơ cấu của bài báo cáo
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của bài
báo cáo gồm 03 phần chính:
Phần 1: Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng và các quy định liên quan đến
xử lý vi phạm trách nhiệm nghề nghiệp của công chứng viên và tổ chức hành nghề
công chứng.
Phần 2:
Một số tình huống thực tiễn về vi phạm đạo đức hành nghề công
chứng.
Phần 3: Đề xuất và hoàn thiện quy tắc đạo đức hành nghề công chứng hiện hành.
3
I. QUY TẮC ĐẠO ĐỨC HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG VÀ CÁC QUY ĐỊNH
LIÊN QUAN ĐẾN XỬ LÝ VI PHẠM TRÁCH NHIỆM NGHỀ NGHIỆP CỦA
CÔNG CHỨNG VIÊN VÀ TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG
1. Quy tắc Đạo đức hành nghề công chứng
Quy tắc Đạo đức hành nghề công chứng được ban hành kèm theo Thông tư
11/2012/TT-BTP của Bộ Tư pháp ngày 30/10/2012, có hiệu lực thi hành kể từ ngày:
20/12/2012. Nội dung của quy tắc đạo đức hành nghề công chứng được khái quát như
sau:
1.1. Quy tắc chung
- Bảo vệ quyền, lợi ích Nhà nước, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.
- Nguyên tắc hành nghề công chứng.
- Tôn trọng, bảo vệ uy tín, thanh danh nghề nghiệp.
- Rèn luyện, tu dưỡng bản thân.
1.2. Quan hệ với người yêu cầu công chứng
- Trách nhiệm nghề nghiệp:
Công chứng viên phải tận tâm với công việc, phát huy năng lực, sử dụng kiến
thức chuyên môn, các kỹ năng nghề nghiệp để bảo đảm tốt nhất tính an toàn pháp lý
cho hợp đồng, giao dịch; có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết yêu cầu công chứng
của cá nhân, tổ chức một cách nhanh chóng, kịp thời khi yêu cầu công chứng đó không
vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội; Sẵn sàng tiếp nhận và giải quyết
kịp thời yêu cầu công chứng của người yêu cầu công chứng bằng cách luôn có mặt tại
trụ sở tổ chức hành nghề công chứng trong giờ làm việc theo quy định của pháp luật;
Có nghĩa vụ giải thích cho người yêu cầu công chứng hiểu rõ về quyền, nghĩa vụ, hậu
quả pháp lý phát sinh của hợp đồng, giao dịch được yêu cầu công chứng; giải đáp một
cách rõ ràng những thắc mắc của người yêu cầu công chứng nhằm đảm bảo cho hợp
đồng, giao dịch đúng với ý chí của các bên giao kết hợp đồng, giao dịch; đảm bảo các
bên có nhận thức đúng về pháp luật có liên quan và giá trị pháp lý của văn bản công
chứng trước khi công chứng viên công chứng; Có trách nhiệm cung cấp cho người yêu
cầu công chứng các thông tin có liên quan về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm nghề
nghiệp của công chứng viên trong hành nghề công chứng theo yêu cầu của người yêu
cầu công chứng.
- Bảo mật thông tin, bảo quản hồ sơ công chứng.
- Đối xử bình đẳng giữa những người yêu cầu công chứng.
4
- Thu đúng, thu đủ và công khai phí, thù lao công chứng theo quy định đã được
niêm yết.
- Những việc công chứng viên không được làm trong quan hệ với người yêu cầu
công chứng: Sách nhiễu, gây khó khăn cho người yêu cầu công chứng; Nhận, đòi hỏi
bất kỳ một khoản tiền, lợi ích nào khác từ người yêu cầu công chứng ngoài phí công
chứng, thù lao công chứng và chi phí khác đã được quy định, xác định, thoả thuận; Sử
dụng thông tin biết được từ việc công chứng để mưu cầu lợi ích cá nhân; Thực hiện
công chứng trong trường hợp mục đích và nội dung của hợp đồng, giao dịch vi phạm
pháp luật, trái đạo đức xã hội…
1.3. Quan hệ với đồng nghiệp, tổ chức hành nghề công chứng, tổ chức xã
hội nghề nghiệp công chứng, tổ chức, cá nhân khác
Tôn trọng, bảo vệ danh dự của đồng nghiệp; giữ gìn và phát huy tinh thần đoàn
kết, thân thiện, hợp tác giúp đỡ nhau hoàn thành nhiệm vụ;
Khi phát hiện đồng nghiệp có sai sót trong hành nghề, công chứng viên có nghĩa
vụ góp ý thẳng thắn nhưng không được hạ thấp danh dự, uy tín của đồng nghiệp và
báo cáo với người có trách nhiệm nếu đó là hành vi vi phạm pháp luật hoặc gây tổn hại
đến nghề nghiệp.
Lợi dụng tư cách là công chứng viên hướng dẫn để buộc người tập sự phải làm
những việc không thuộc phạm vi tập sự hoặc những hành vi vi phạm pháp luật trái đạo
đức xã hội nhằm đạt được những lợi ích cho mình…
1.4. Kiểm tra, giám sát, khen thưởng, xử lý vi phạm.
Tổ chức hành nghề công chứng có trách nhiệm giám sát việc thực hiện Quy tắc
đạo đức hành nghề công chứng đối với công chứng viên tại tổ chức mình.
Công chứng viên thực hiện không đúng Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng
thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm sẽ bị nhắc nhở, phê bình, khiển trách, xử lý kỷ
luật theo Điều lệ của tổ chức xã hội nghề nghiệp của công chứng viên, bị xử phạt hành
chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật….
2. Quy định về xử lý vi phạm trong hoạt động công chứng
2.1. Xử lý vi phạm hành chính
- Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012.
- Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính Phủ quy định xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia
đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.
5
- Nghị định số 67/2015/NĐ-CP ngày 14/8/2015 của Chính Phủ sửa đổi, bổ sung
một số điều của nghị định số số 110/2013/NĐ-CP ngày 24 tháng 9 năm 2013 của
chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành
chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác
xã.
- Văn bản 462/VBHN-BTP ngày 22/02/2016 của Bộ tư pháp hợp nhất Nghị định số
110/2013/NĐ-CP và Nghị định số 67/2015/NĐ-CP.
- Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ quy định chi tiết
một số điều và biện pháp thi hành luật xử lý vi phạm hành chính.
- Nghị định số 97/2017/NĐ-CP ngày 18/8/2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung
một số điều của nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19 tháng 7 năm 2013 của chính
phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật xử lý vi phạm hành chính.
- Luật công chứng 2014.
- Nghị định số 29/2015/NĐ-CP ngày 15/3/2015 của Chính Phủ quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của luật công chứng.
- Thông tư số 06/2015/TT-BTP ngày 15/6/2015 của Bộ Tư pháp Quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số điều của luật công chứng.
-
Nghị định 23/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 của Chính Phủ về cấp bản sao từ sổ
gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng,
giao dịch.
- Thông tư số 20/2015/TT-BTP ngày 29/12/2015 của Bộ Tư Pháp quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định 23/2015/NĐ-CP ngày 16 tháng 02
năm 2015 của chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính,
chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch.
2.2. Trách nhiệm dân sự
- Buộc xin lỗi, cải chính công khai.
- Bồi thường thiệt hại.
2.3. Truy cứu trách nhiệm hình sự
Nếu có yếu tố cố ý vi phạm quy định của pháp luật, các yếu tố khách quan của
việc công chứng, chứng thực, làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của người yêu cầu
công chứng, người có quyền, nghĩa vụ liên quan, công chứng viên sẽ phải đối mặt với
việc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tùy theo tính chất và mức độ của hành vi phạm
tội mà pháp luật sẽ định loại tội và mức hình phạt tương ứng theo Bộ luật Hình sự số
6
100/2015/QH13 do Quốc hội ban hành ngày 27/11/2015, có hiệu lực từ ngày
01/07/2016 và Luật số 12/2017/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình
sự 2015.
II. MỘT SỐ TÌNH HUỐNG THỰC TIỄN VỀ VI PHẠM ĐẠO ĐỨC HÀNH
NGHỀ CÔNG CHỨNG
Mặc dù Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng đã được ban hành và có hiệu lực
nhưng thông qua công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vụ việc trong lĩnh vực công chứng,
cơ quan chức năng ban ngành đã phát hiện được rất nhiều sai phạm. Có những sai
phạm đã được xử lý vi phạm hành chính, truy cứu trách nhiệm hình sự, dân sự. Tuy
nhiên, trên thực tế vẫn còn tồn tại rất nhiều sai phạm, những vấn đề cần lưu ý. Chúng
ta có thể chia các hành vi vi phạm này theo từng nhóm hành vi cụ thể như sau:
1. Nhóm hành vi vi phạm hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng; Vi
phạm về quan hệ với người yêu cầu công chứng
- Có những Văn phòng công chứng hoạt động không đúng trụ sở đã đăng ký, vi
phạm Điểm c, Khoản 2, Điều 15 Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/09/2013 của
chính phủ Về quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành
chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác
xã (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 67/2015/NĐ-CP). Có tình trạng tổ chức
hành nghề công chứng liên kết với ngân hàng tổ chức hành nghề luật sư, văn phòng
thừa phát lại, doanh nghiệp để đặt bàn làm việc tiếp nhận và giải quyết hồ sơ ngoài trụ
sở của tổ chức hành nghề công chứng.
Ví dụ: Điển hình, vụ việc gần đây nhất là vào Tháng 10/2018, tại tòa nhà 284 Lê
Văn Việt, phường Tăng Nhơn Phú B, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh có hoạt động
công chứng, chứng thực đóng dấu VPCC Nguyễn Cảnh, trong khi đó địa chỉ đăng ký
hoạt động của VPCC này lại ở số 4 Trần Quang Diệu, phường 13, quận 3, thành phố
Hồ Chí Minh. Theo xác minh của cơ quan công an, được biết VPCC Nguyễn Cảnh đã
ký hợp đồng hợp tác với một chi nhánh ngân hàng nhằm mục đích phục vụ nhu cầu
công chứng, chứng thực cho khách hàng của ngân hàng khi đến làm thủ tục vay vốn.
Sau khi ký hợp đồng, VPCC đã cử công chứng viên và nhân viên đến trực tiếp làm việc
tại địa chỉ này.
- Một số Văn phòng công chứng (VPCC) tự động bố trí kho lưu trữ hồ sơ công
chứng đặt ngoài trụ sở đăng ký hoạt động của VPCC và chuyển hồ sơ công chứng lưu
trữ đến kho mà chưa có văn bản đồng ý của Sở tư pháp, dễ dẫn đến tình trạng mất mát,
hư hỏng, khó kiểm soát, quản lý được hồ sơ công chứng theo quy định tại Điều 17
7
Nghị định 29/2015/NĐ-CP ngày 15/03/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của luật công chứng (sau đây gọi tắt là NĐ29/2015).
- Về chia sẻ thông tin trên cơ sở dữ liệu công chứng. Chưa thực hiện đầy đủ việc
chia sẻ thông tin về nguồn gốc tài sản, tình trạng giao dịch của tài sản và các thông tin
khác về biện pháp ngăn chặn được áp dụng đối với tài sản có liên quan đến hợp đồng,
giao dịch do Công chứng viên Văn phòng mình chứng nhận trên cơ sở dữ liệu công
chứng theo quy định tại Khoản 10, Điều 33 Luật Công chứng 2014.
Không đảm bảo thời hạn chia sẻ thông tin quy định tại Khoản 7, Điều 3, Điều 6
quy chế cung cấp thông tin khai thác quản lý cơ sở dữ liệu công chứng điện tử tại
thành phố Hồ Chí Minh ban hành kèm Quyết định số 1198/QĐ-UBND ngày
29/3/2018 của Ủy ban Nhân dân thành phố.
Ví dụ: Tại địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, có những tổ chức hành nghề công
chứng không cập nhật thông tin giao dịch lên cơ sở dữ liệu, dẫn đến tình trạng khi
người yêu cầu công chứng đến thực hiện giao dịch tại một tổ chức khác mà giao dịch
sau phải phụ thuộc vào việc cập nhật thông tin của giao dịch trước đó lên dữ liệu lịch
sử giao dịch (Hợp đồng mua bán xe/bất động sản có ủy quyền, hủy bỏ hợp đồng, giao
dịch, xóa thế chấp…), thì tổ chức sau lại không có cơ sở để tiến hành chứng nhận giao
dịch tiếp theo, trong khi giao dịch trước đó vẫn còn tồn tại chưa được tháo gỡ, xóa,
hoặc chưa được cập nhật. Vì vậy, buộc lòng người yêu cầu công chứng phải quay lại
tổ chức công chứng trước đó yêu cầu chia sẻ thông tin về nguồn gốc tài sản, tình trạng
giao dịch của tài sản, và để thuận tiện không mất thời gian, họ sẽ tiến hành chứng
nhận hợp đồng, giao dịch ngay tại tổ chức này luôn mà không quay lại tổ chức mình
vừa đến trước đó dự định giao dịch. Như vậy, đây có thể được coi là “hành vi cạnh
tranh không lành mạnh”, vi phạm nghiêm trọng quy tắc đạo đức hành nghề công
chứng khi gây cản trở và tranh giành khách hàng với tổ chức hành nghề công chứng
khác.
- Trong thời gian gần đây, thông qua mạng xã hội cũng như phương tiện thông tin
đại chúng, chúng ta cũng biết được một số trường hợp đã và đang gây bức xúc cho
người dân diễn ra ở lĩnh vực công tác tiếp dân đó là một số cán bộ, công chức có hành
vi ứng xử không đúng với chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, có thái độ cửa quyền, hách
dịch gây không ít những phiền toái, khó khăn cho người dân, gây mất lòng tin đối với
nhân dân, làm ảnh hưởng rất lớn đến uy tín của Đảng, của các cấp, các ngành. Những
bài học thực tế cho thấy, nhiều sự việc yêu cầu của người dân rất đơn giản nhưng do
thái độ làm việc thiếu tinh thần, trách nhiệm không giải thích cho người dân rõ ràng
thấu đáo gây bức xúc cho nhân dân, có những trường hợp dẫn đến khiếu kiện không
đáng có.
8
- Nhiều tổ chức hành nghề công chứng (TCHNCC) sai phạm về hồ sơ công chứng
đánh trùng số công chứng, chưa thực hiện đánh số hồ sơ công chứng theo thứ tự thời
gian theo quy định tại Khoản 2, Điều 63 Luật Công chứng năm 2014. Gây ra tình trạng
khó khăn trong tra cứu số hồ sơ và tồn tại cùng lúc hai hồ sơ trùng số công chứng.
Nguyên nhân là do lập và sử dụng cùng lúc nhiều loại sổ công chứng hợp đồng giao
dịch theo từng loại việc, từng loại hợp đồng, giao dịch và không có sự thống nhất trong
việc kiểm soát cấp số, ghi chú vào sổ số công chứng.
- Để lưu trữ và quản lý hồ sơ công chứng, nhiều hồ sơ công chứng của một số tổ
chức hành nghề công chứng thiếu bản sao hộ khẩu chứng minh nhân dân, cá biệt có
trường hợp hồ sơ thiếu bản sao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà
ở và tài sản khác gắn liền với đất, thiếu biên bản họp hội đồng thành viên, báo cáo tài
chính tại thời điểm công bố gần nhất của công ty hoặc Điều lệ công ty, vi phạm quy
định tại Điểm d, Khoản 2, Điều 56 Luật Doanh Nghiệp năm 2014, lưu nhiều hồ sơ vi
phạm Điều 63 và Điều 64 Luật Công chứng năm 2014.
2. Nhóm hành vi vi phạm về thủ tục công chứng
- Sửa lỗi kỹ thuật không đúng quy định nhiều tổ chức hành nghề công chứng thực
hiện sửa lỗi kỹ thuật không đúng quy định tại Điều 50 Luật Công chứng năm 2014 như
còn viết đè, chưa ký và đóng dấu của tổ chức hành nghề công chứng vào chỗ đã được
sửa, tự thêm hoặc cắt những nội dung không thuộc trường hợp lỗi kỹ thuật mà thuộc
về phần nội dung của hợp đồng giao dịch dẫn đến hậu quả nghiêm trọng.
Ví dụ: Theo nguồn tin của Báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh ngày
17/5/2019. Anh Hảo và bà H đến Văn phòng công chứng quận 12 làm hợp đồng ủy
quyền. Theo hợp đồng này, anh Hảo được quyền liên hệ với ngân hàng và các cơ quan
chức năng để tất toán khoản tiền vay của bà H và được quyền mua bán, chuyển
nhượng đối với căn nhà trên. Khi hai bên ký kết xong, anh Hảo giao cho bà H 500
triệu đồng. Cuối tháng 3/2019 vừa qua, anh Hảo tá hỏa khi có tin báo bà H đã đi tất
toán ngân hàng và bán căn nhà đó cho người khác. Quá trình điều tra cho thấy khi
công chứng ở VPCC Quận 12, hợp đồng ủy quyền có nội dung “mua bán, chuyển
nhượng” nhưng sau đó, nhân viên văn phòng công chứng đã sửa và bỏ nội dung này
trong bản sao y. Người ủy quyền (bà H) đã dùng bản sao y không đúng với bản lưu
công chứng trước đó đến Văn phòng công chứng Nhà Rồng để tiến hành làm hợp đồng
mua bán và xảy ra tranh chấp.
- Nhiều tổ chức hành nghề công chứng vẫn thực hiện công chứng các hợp đồng
giao dịch trong trường hợp chứng minh nhân của người yêu cầu công chứng đã quá
hạn sử dụng theo quy định tại Điều 4, Phần 1 Thông tư 04/1999/TT-BCA ngày
9
29/4/1999 của Bộ Công An hướng dẫn một số quy định của Nghị định số 05/1999/NĐCP ngày 03/02/1999 của Chính phủ về chứng minh nhân dân.
- Một số hồ sơ công chứng của nhiều tổ chức hành nghề công chứng thiếu giấy xác
nhận tình trạng hôn nhân hoặc giấy tờ để chứng minh quyền sở hữu riêng, sử dụng
riêng đối với tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân đặc biệt là đối với hợp đồng thế
chấp, hợp đồng chuyển nhượng tặng cho quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở mà
trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng sở hữu tài sản chỉ đứng tên một người. Việc
thực hiện công chứng các hợp đồng giao dịch trong trường hợp này là chưa chặt chẽ và
chưa đảm bảo đầy đủ căn cứ theo quy định của pháp luật.
- Một số tổ chức hành nghề công chứng thực hiện công chứng đối với các hợp
đồng mà đối tượng của hợp đồng là quyền sử dụng đất cấp cho hộ gia đình nhưng hồ
sơ công chứng chỉ có bản sao trang hộ khẩu của vợ chồng mà không có các trang hộ
khẩu của các thành viên trong hộ. Do đó, chưa có căn cứ để xác định đầy đủ các thành
viên hộ gia đình ký kết hợp đồng theo quy định của pháp luật.
- Nhiều hồ sơ của một số tổ chức hành nghề công chứng thiếu chữ ký của ngân
hàng vào từng trang hợp đồng thế chấp tài sản theo quy định tại Khoản 8 Điều 40,
Khoản 3, Điều 41 và Khoản 1, Điều 48 Luật công chứng năm 2014.
- Nhiều công chứng viên ở một số tổ chức hành nghề công chứng thực hiện ký tắt
vào các trang hợp đồng giao dịch trong các hồ sơ công chứng và không đăng ký mẫu
chữ ký này dẫn đến vi phạm quy định tại Khoản 8, Điều 40 và Khoản 3, Điều 41 Luật
công chứng năm 2014.
- Một số hồ sơ công chứng hợp đồng thế chấp thiếu chữ ký của các thành viên hộ
gia đình theo quy định tại Khoản 1, Điều 102, Điều 101 và Điều 212 của Bộ luật Dân
sự năm 2015.
- Một số hồ sơ công chứng hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất thiếu chữ ký của
một trong những người đồng sử dụng trong hợp đồng và trong hồ sơ công chứng
không có các văn bản quyền theo quy định của pháp luật.
- Công chứng phụ lục sửa đổi, bổ sung hợp đồng thế chấp không có sự thỏa thuận
cam kết bằng văn bản của người đồng sở hữu tài sản đã tham gia hợp đồng thế chấp ký
trước đó vi phạm Điều 51 Luật Công chứng năm 2014.
- Một số tổ chức hành nghề công chứng thực hiện công chứng văn bản khai nhận
và văn bản phân chia di sản thừa kế nhưng chưa thực hiện việc niêm yết hoặc có niêm
yết nhưng chưa hết thời hạn niêm yết theo quy định tại Điều 18 Nghị định số 29/2015
NĐ-CP, vi phạm Khoản 3, Điều 57, Khoản 2,3, Điều 58 Luật công chứng năm 2014.
- Thực hiện công chứng văn bản phân chia di sản thừa kế theo pháp luật nhưng
chưa xác định đầy đủ hàng thừa kế thứ nhất, chưa xác định được bố mẹ người để lại di
sản chết trước hay chết sau người để lại di sản để xác định đầy đủ những người được
10
hưởng di sản thừa kế theo quy định của pháp luật dân sự về thừa kế. Nội dung văn bản
thỏa thuận phân chia di sản thừa kế, văn bản khai nhận di sản thừa kế không ghi nhận
cụ thể người thừa kế, ví dụ: “Cha mẹ của người để lại di sản không rõ họ tên, chết
trước người để lại di sản đã lâu, không có giấy chứng tử”. Thành phần hồ sơ thiếu
giấy tờ như không có giấy chứng tử hoặc công chứng viên chứng thực chữ ký của
người hưởng di sản để làm căn cứ cho việc công chứng.
- Một số tổ chức hành nghề công chứng thực hiện công chứng văn bản thỏa thuận
phân chia di sản thừa kế nhưng có nội dung của văn bản khai nhận di sản thừa kế vi
phạm Điều 57, Điều 58 Luật Công chứng năm 2014.
- Chứng thực bản sao mà không có bản chính.
Ví dụ: Thời gian vừa qua, Ban Bạn đọc Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam
nhận được nhiều phản ánh liên quan đến các dấu hiệu sai phạm trong hoạt động của
Văn phòng công chứng Nguyễn Văn Thu có trụ sở tại huyện Thạch Thất, thành phố Hà
Nội. Theo đó, khi đến làm thủ tục chứng thực tại Văn phòng này, người có nhu cầu
chứng thực sẽ không cần phải xuất trình “bản chính” của giấy tờ gốc để đối chiếu.
Điều này đã được nhóm phóng viên đề cập trong phóng sự “Sao y bản chính mà
không cần bản chính” của Trung tâm Tin tức VTV24 phát trên Kênh VTV1, ngày
28/2/2017. Để ghi lại clip, các phóng viên VTV1 đã nhập vai người đi thực hiện các
thủ tục chứng thực tại cơ sở này. Theo phản ánh, thì việc làm này đã diễn ra công khai
và kéo dài rất nhiều năm ở Văn phòng này. Cụ thể, dù không có bản chính nhưng chỉ
với 3.000 đồng, nhóm phóng viên đã có được 1 bản sao với dấu đỏ “Sao y bản chính”.
Nói cách khác, tại Văn phòng công chứng Nguyễn Văn Thu, người dân có thể thực
hiện việc chứng thực “Sao y bản chính mà không cần bản chính”. Chỉ với số tiền
600.000 đồng, nhóm phóng viên đã được CCV ở đây làm thủ tục chứng thực cho 200
văn bản khác nhau từ chứng chỉ hành nghề, kết quả thử nghiệm, cho đến giấy chứng
nhận an toàn thực phẩm... Theo một CCV tại Văn phòng này, mỗi ngày số lượng văn
bản, tài liệu được chứng thực theo “cách” này có thể lên tới cả vạn bản.
Như vậy, có thể thấy hành vi của các CCV Văn phòng công chứng Nguyễn Văn
Thu là việc làm trái với quy định của Nghị định 23/2015/NĐ-CP ngày 26/2/2015 của
Chính phủ về việc cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực
chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch, và vi phạm Thông tư 11/2012/TT-BTP của
Bộ Tư pháp ngày 30/10/2012 ban hành Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng. Hành
vi sai phạm này không chỉ gây ra những hệ luỵ nghiêm trọng cho xã hội mà còn làm
ảnh hưởng tới uy tín của đội ngũ những người đang hành nghề công chứng chân chính.
Bởi như chúng ta đều biết khi những tài liệu, giấy tờ của các cơ quan, tổ chức với tính
chất quan trọng khác nhau, các văn bằng, chứng chỉ khi “đã được sao y bản chính mà
11
không đối chiếu với bản chính” được sử dụng vào các giao dịch dân sự, kinh tế, hành
chính…thì hậu quả do nó gây ra sẽ là như thế nào cho xã hội?
3. Nhóm hành vi chứng nhận hợp đồng giao dịch có nội dung vi phạm pháp
luật
- Khoản 9, Điều 9 Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng ban hành kèm Thông tư
số 11/2012/TT-BTP ngày 30/10/2012 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định một trong
những công việc công chứng viên không được làm là trả tiền hoa hồng, chiết khấu cho
người yêu cầu công chứng hoặc người môi giới. Tuy nhiên, việc chi tiền hoa hồng
trong hoạt động này đã trở thành “điều kiện cần” để có hợp đồng công chứng, nhất là
trong bối cảnh các tổ chức hành nghề công chứng mọc lên như nấm, đặc biệt là ở các
thành phố lớn.
Ví dụ: Tính đến Tháng 6/2018, trong cả nước có 970 tổ chức hành nghề công
chứng, tăng hơn 7 lần so với năm 2007 - thời điểm Nhà nước thực hiện xã hội hóa
hoạt động này. Khi nhiều tổ chức hành nghề được thành lập, thì mức độ cạnh tranh
ngày càng khốc liệt hơn để thu hút khách hàng (người yêu cầu công chứng) - nhất là
các tổ chức tín dụng, môi giới bất động sản. Kết quả tổng kết 5 năm thực hiện Nghị
định số 110/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ
tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh
nghiệp, hợp tác xã (được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 67/2015/NĐ-CP) do Bộ
Tư pháp thực hiện mới đây cho thấy, một loạt các hành vi mang tính cạnh tranh không
lành mạnh của các tổ chức hành nghề công chứng như trích lại phần trăm (%) tiền phí,
thù lao công chứng, chi phí khác thu được cho các tổ chức tín dụng, nhân viên của tổ
chức tín dụng trực tiếp đưa khách hàng đến ký kết hợp đồng, giao dịch (thế chấp, cầm
cố…) tại tổ chức hành nghề công chứng; trích lại % tiền phí, thù lao công chứng, chi
phí khác thu được cho những người môi giới (môi giới bất động sản) khi những người
này đưa khách hàng đến ký kết hợp đồng, giao dịch (mua bán, chuyển nhượng bất
động sản) tại tổ chức hành nghề công chứng… Báo cáo tổng kết cũng chỉ rõ, tỷ lệ %
trích lại dao động từ 10 - 30% tiền phí, thù lao công chứng, chi phí khác tùy theo thỏa
thuận giữa công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng với tổ chức tín dụng, nhân
viên tổ chức tín dụng hoặc người môi giới. Chính vì số tiền % này mà các tổ chức tín
dụng thường giới thiệu khách hàng là người vay vốn lựa chọn tổ chức hành nghề công
chứng đã “liên danh, liên kết” với tổ chức tín dụng mà không được lựa chọn tổ chức
hành nghề công chứng khác.
- Tình trạng công chứng ngoài trụ sở của công chứng viên hoặc sử dụng nhân viên
của văn phòng công chứng để lấy chữ ký của khách hàng sau đó đem về văn phòng
12
công chứng cho công chứng viên ký diễn ra hầu hết các tổ chức hành nghề công chứng.
Không đảm bảo đúng trình tự, thủ tục và tính pháp lý của việc chứng nhận hợp đồng,
giao dịch, dễ dẫn đến tình trạng tranh chấp.
- Hồ sơ công chứng hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất giao cho hộ gia đình khi
người chủ hộ đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chết không để lại di
chúc. Gia đình có thỏa thuận cử người đại diện cho các thành viên hộ gia đình để thế
chấp, nhưng chưa thực hiện khai nhận di sản thừa kế và làm thủ tục đăng ký quyền sử
dụng đất theo quy định của pháp luật.
- Một số tổ chức hành nghề công chứng thực hiện công chứng hợp đồng chuyển
nhượng thế chấp quyền sử dụng đất trong trường hợp đất cấp cho hộ gia đình, khi
người chủ hộ đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chết các con của người
đã chết ủy quyền định đoạt phần di sản thừa kế được hưởng cho chồng vợ của người
đã chết đó theo biên bản họp gia đình có xác nhận của chính quyền địa phương, chưa
thực hiện niêm yết theo điều 18 Nghị định 29 năm 2015 NDCP nhưng người vợ chồng
của người để lại tài sản đã đứng tên ký Hợp đồng thế chấp, hợp đồng chuyển nhượng.
- Một số tổ chức hành nghề công chứng thực hiện công chứng hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất đối với một phần thửa đất nhưng không có đơn xin tách
thửa theo quy định tại Điều 75 Nghị định số 43/2014 NĐ-CP ngày 15/05/2014 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai 2013; Không có bản
vẽ được duyệt nội nghiệp của cơ quan có thẩm quyền về việc có thể chuyển nhượng
một phần thửa đất đó và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng.
- Một số tổ chức hành nghề công chứng thực hiện công chứng hợp đồng vay tài
sản, các bên chỉ xác định mức lãi suất theo thỏa thuận nhưng không xác định rõ mức
lãi suất tối đa theo thỏa thuận đó có vượt quá mức lãi suất tối đa theo quy định của
Pháp luật hay không. Nhưng công chứng viên vẫn chứng nhận nội dung hợp đồng
đúng quy định pháp luật là chưa có căn cứ.
- Nhiều hợp đồng thế chấp, chuyển nhượng mà đối tượng của hợp đồng là quyền
sử dụng đất và nhà ở nhưng trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chưa chứng
nhận quyền sở hữu nhà ở, vi phạm quy định tại Điều 118 Luật nhà ở năm 2014.
- Công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trồng lúa nhưng trong
hồ sơ không thể hiện bên nhận chuyển nhượng có đủ điều kiện theo quy định tại
Khoản 3, Điều 191 Luật đất đai năm 2013. Cụ thể, trong hồ sơ chỉ có đơn xác nhận hộ
nông nghiệp (có xác nhận của Hội nông dân phường) và giấy cam kết có chứng thực
chữ ký của công chứng viên. Theo quy định khoản 30 điều 3 khoản 3 điều 191 luật đất
đai năm 2013 điều 3 Nghị định số 01/2017/NĐ-CP ngày 01/01/2017 Của Chính phủ về
13
điều kiện nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đất nông nghiệp thì Ủy ban nhân
dân cấp xã nơi đăng ký hộ khẩu thường trú xác nhận hộ gia đình cá nhân trực tiếp sản
xuất nông nghiệp có nguồn thu nhập ổn định từ sản xuất nông nghiệp trường hợp hộ
gia đình cá nhân sử dụng đất không cùng nơi đăng ký hộ khẩu thường trú thì Ủy ban
nhân dân cấp xã nơi đăng ký hộ khẩu thường trú Xác nhận hộ gia đình cá nhân trực
tiếp sản xuất nông nghiệp có nguồn thu nhập ổn định từ sản xuất nông nghiệp sau khi
có văn bản xác nhận về việc sử dụng đất nông nghiệp của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi
có đất.
- Công chứng viên thực hiện công chứng hợp đồng giao dịch trong trường hợp các
bên chủ thể tham gia hợp đồng giao dịch không được thực hiện giao dịch thanh toán
bằng ngoại hối vi phạm Điều 22 Pháp lệnh ngoại hối số 28/2005/PL-UBTVQH11 của
Ủy ban thường vụ Quốc hội được sửa đổi, bổ sung năm 2013.
- Đối với các hợp đồng ủy quyền xe, hợp đồng mua bán xe xe máy, xe ô tô nội
dung văn bản công chứng xác nhận người có tên trên giấy tờ xe là chủ sở hữu, thành
phần hồ sơ bao gồm giấy tờ tùy thân của người yêu cầu công chứng giấy tờ xe, phiếu
yêu cầu công chứng, nhưng không có bất kỳ một giấy tờ chứng minh quyền sở hữu
chung riêng nào đối với tài sản. Bên bán chỉ có một người đứng ra giao dịch đó là
người đứng tên trên giấy tờ, người này sẽ thực hiện quyền mua bán. Như vậy, không
đảm bảo đầy đủ thành phần hồ sơ theo quy định tại Điều 40 Luật công chứng 2014 và
cũng sẽ bị xử phạt theo Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính phủ
được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 67/2015/NĐ-CP ngày 14/8/2015.
Ví dụ: Ngày 28/3/2019 Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh ban hành công văn
1618/STP-BTTP về việc thực hiện các vấn đề lưu ý trong hoạt động công chứng.
Trong đó có chỉ thị về vấn đề công chứng các hợp đồng mua bán xe máy chỉ có bên
bán (người đứng tên trên giấy đăng ký xe) ký giao dịch và không có bất kỳ một giấy tờ
chứng minh quyền sở hữu chung riêng nào đối với tài sản. Tuy nhiên, đến thời điểm
hiện tại, còn rất nhiều tổ chức hành nghề công chứng vẫn tiếp tục thực hiện việc công
chứng sai quy định nêu trên.
- Việc sửa đổi bổ sung hủy bỏ hợp đồng giao dịch
Có tình trạng công chứng văn bản hợp đồng sửa đổi, bổ sung hợp đồng mua bán
chuyển nhượng nhà đất, giá mua bán chuyển nhượng được sửa đổi chênh lệch rất lớn
so với giá các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng mua bán chuyển nhượng đã ký và
được công chứng trước đó.
Theo quy định tại Thông tư số 301/2016/TT-BTC ngày 15/11/2016 của Bộ Tài
chính hướng dẫn về lệ phí trước bạ quy định đối tượng chịu thuế là nhà đất thì giá tính
14
lệ phí trước bạ đối với đất là giá đất tại bảng giá đất do Ủy ban nhân dân tỉnh thành
phố trực thuộc trung ương ban hành theo quy định của pháp luật về đất đai tại thời
điểm kê khai lệ phí trước bạ; Trường hợp giá nhà tại hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng nhà hợp đồng mua bán nhà cao hơn giá của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban
hành thì giá tính lệ phí trước bạ đối với nhà là giá do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban
hành theo quy định của pháp luật về xây dựng tại thời điểm kê khai lệ phí trước bạ
mức thu lệ phí trước bạ nhà đất là 0,5%
Theo quy định của thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2013 của Bộ Tài
chính hướng dẫn thực hiện Luật thuế thu nhập cá nhân luật sửa đổi bổ sung một số
điều của luật thuế thu nhập cá nhân và Nghị định số 65/2013/NĐ-CP của Chính phủ
quy định chi tiết một số điều của Luật thuế thu nhập cá nhân và luật sửa đổi bổ sung
một số điều của luật thuế thu nhập cá nhân quy định các khoản thu nhập chịu thuế
trong đó có thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản gồm thu nhập từ chuyển nhượng
quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thu nhập từ chuyển nhượng quyền sở hữu
nhà ở kể cả nhà ở hình thành trong tương lai Điều 17 Thông tư 92/2015/TT-BTC ngày
15/6/2015 của Bộ Tài chính sửa đổi, bổ sung Điều 12 Thông tư 111/2013/TT-BTC thì
căn cứ tính thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản là giá chuyển
nhượng đối với chuyển nhượng quyền sử dụng đất không có công trình xây dựng trên
đất đất là giá ghi trên hợp đồng chuyển nhượng tại thời điểm chuyển nhượng giá
chuyển nhượng đối với việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất là nơi công trình xây
dựng trên đất kể cả công trình xây dựng hình thành trong tương lai là giá ghi trên hợp
đồng chuyển nhượng tại thời điểm chuyển nhượng cách tính thuế thu nhập cá nhân đối
với thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản phải nộp bằng giá chuyển nhượng x thuế
suất 2%.
- Nhiều công chứng viên đưa nội dung về miễn trừ trách nhiệm của tổ chức hành
nghề công chứng, công chứng viên như: “Nếu các bên cung cấp thông tin không đầy
đủ, không chính xác, không đúng sự thật hoặc vi phạm nội dung cam kết thì các bên
đồng ý miễn trừ trách nhiệm cho tổ chức hành nghề công chứng, công chứng viên”.
4. Những hành vi vi phạm quy định về thu chi phí công chứng thù lao
công chứng
- Một số tổ chức hành nghề công chứng thu phí không đúng mức phí theo quy định
tại Thông tư số 257/2016/TT-BTC ngày 11/11/2016 của Bộ Tài chính quy định mức
thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí công chứng, phí chứng thực, phí thẩm
định tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề công chứng, phí thẩm định điều kiện hoạt động
15
văn phòng công chứng, lệ phí cấp thẻ công chứng viên được sửa đổi bổ sung theo
Thông tư số 111/2017/TT-BTC.
- Nhiều tổ chức hành nghề công chứng thực hiện lập hóa đơn giá trị gia tăng theo
bảng kê khách hàng lẻ đối với các khoản thu trên 200.000 đồng mà không lập riêng
từng hóa đơn là vi phạm Điểm b, Khoản 2, Điều 14 Thông tư số 64/2013/TT-BTC của
Bộ Tài chính ngày 15/5/2013 và Nghị định số 51/2010/NĐ-CP ngày 14/5/2010 của
Chính phủ quy định về hóa đơn bán hàng hóa.
Nhìn chung các vi phạm đã được thanh tra bộ vào thanh tra các sở tư pháp địa
phương phát hiện ngăn chặn xử lý và chấn chỉnh, tư vấn kịp thời. Một số ít trường hợp
vi phạm pháp luật nghiêm trọng như đã nêu ở trên cũng đã được cơ quan có thẩm
quyền phát hiện truy cứu trách nhiệm hình sự của người có hình phạt theo quy định
của pháp luật. Tuy nhiên, do các chế tài, biện pháp xử lý vi phạm vẫn còn nhẹ tay và
thiếu tính răn đe nghiêm nên trên thực tế vẫn diễn ra các vi phạm, đặc biệt là vi phạm
về quy tắc đạo đức hành nghề.
III. NGUYÊN NHÂN - ĐỀ XUẤT VÀ HOÀN THIỆN QUY TẮC ĐẠO ĐỨC
HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG HIỆN HÀNH
1. Nguyên nhân
Nhìn nhận chung có thể thấy 03 nguyên nhân chính dẫn đến việc vi phạm về
quy tắc đạo đức hành nghề, như sau:
- Một là, nhìn chung những quy định tiêu chuẩn dành cho công chứng viên là đúng
đắn, hợp lý và cũng khá tương đồng với tiêu chuẩn đối với một số chức danh tư pháp
khác. Tuy nhiên, hoạt động công chứng là một hoạt động đặc thù chỉ do một cá nhân
(công chứng viên) tiếp nhận, tự quyết định xử lý và thực hiện việc công chứng từ đầu
đến cuối, đồng thời phải tự “chịu trách nhiệm trước pháp luật và người yêu cầu công
chứng về văn bản công chứng” (khoản 4, Điều 4 Luật công chứng 2014). Như vậy, có
thể thấy sức ép về kiến thức pháp luật, về kinh nghiệm áp dụng pháp luật, kinh nghiệm
phân tích các mối quan hệ xã hội và cả sức ép về tâm lý đối với công chứng viên khi
thực hiện công chứng là rất lớn.
- Hai là, từ khi xã hội hoá đến nay, nhất là trong giai đoạn đầu do chưa có quy
hoạch tổng thể của Chính phủ, số lượng các văn phòng công chứng tăng mạnh và phân
bổ không đều. Số lượng công chứng viên cũng tăng lên rất nhanh và được bổ nhiệm
khá dễ dàng, lại được tự do cạnh tranh theo xu hướng thị trường. Nên các văn phòng
công chứng đã không ngừng đẩy mạnh cạnh tranh, thu hút lợi nhuận, dẫn tới sự cạnh
tranh không lành mạnh giữa một số tổ chức hành nghề công chứng, cũng như nhằm
16
mục đích trục lợi có chủ ý của công chứng viên khi thực hiện việc công chứng. Từ đó
xuất hiện nhiều vụ việc công chứng viên công chứng hợp đồng, giao dịch (nhiều nhất
lại là liên quan đến bất động sản, những tài sản có giá trị lớn) có dấu hiệu vi phạm
pháp luật một cách cố ý, nghiêm trọng như: công chứng “treo”, công chứng “khống”,
ủy quyền bán một tài sản cho nhiều người, công chứng hợp đồng giao dịch khi chưa có
đầy đủ điều kiện theo quy định của pháp luật, coi nhẹ các quy định của pháp luật, coi
nhẹ việc tuân theo đạo đức xã hội, thiếu cẩn trọng trong thẩm định hồ sơ, thu thù lao
công chứng chưa thống nhất, thu không theo quy định hoặc có sự khuất tất trong thu
thù lao, phí công chứng…
Thêm vào đó, Luật Công chứng lại còn khống chế cả thời hạn phải thực hiện việc
công chứng: “Thời hạn công chứng không quá 02 ngày làm việc; đối với hợp đồng,
giao dịch có nội dung phức tạp thì thời hạn công chứng có thể kéo dài hơn nhưng
không quá 10 ngày làm việc” (khoản 2 Điều 43). Mặt khác, vì là dịch vụ đã được xã
hội hoá nên xuất hiện thêm yếu tố cạnh tranh, do đó việc tiếp nhận và giải quyết các
yêu cầu công chứng đòi hỏi phải được thực hiện gần như là tức thời, nếu không có các
quy định khống chế thời gian của pháp luật. Với tất cả những sức ép như trên, những
quy định về tiêu chuẩn công chứng viên trong Luật còn quá sơ sài, khó đáp ứng được
với những diễn biến vô cùng phức tạp trong thực tiễn xã hội, dễ đẩy công chứng viên,
nhất là các công chứng viên mới vào nghề mắc phải những sai phạm do thiếu kinh
nghiệm, thiếu bản lĩnh nghề nghiệp.
- Ba là, bên cạnh đó, một lý do quan trọng nhất và có ảnh hưởng lớn nhất đến tình
trạng vi phạm vẫn tiếp tục diễn ra đó là hệ thống pháp luật về xử lý vi phạm trong hoạt
động công chứng còn quá “nhẹ tay”, còn quá chú trọng đến xử lý vi phạm hành chính.
Quy định về việc kiểm tra, thanh tra, giám sát, khen thưởng, xử lý vi phạm còn chung
chung, chưa đề ra được lịch trình, tiêu chí và thành phần những người tham gia vào
đoàn thanh tra, kiểm tra, giám sát, khen thưởng, xử lý vi phạm. Quy định “Công
chứng viên thực hiện không đúng Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng thì tùy theo
tính chất, mức độ vi phạm sẽ bị nhắc nhở, phê bình, khiển trách, xử lý kỷ luật theo
Điều lệ của tổ chức xã hội nghề nghiệp của công chứng viên, bị xử phạt hành chính
hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật” trên thực tế chưa được
xử lý nghiêm minh và triệt để. Còn mang nặng tính hình thức, thủ tục trong việc xử
phạt vi phạm.
Tất cả các quy định trong bộ Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng đều khá rõ
ràng, mạch lạc, rất phù hợp với chuẩn mực đạo đức chung theo quy định của pháp luật
Việt Nam, phù hợp với truyền thống đạo đức dân tộc, đạo đức xã hội và đạo đức con
17
người. Tuy nhiên, vì là một bộ quy tắc đạo đức áp dụng để hành nghề, nên các quy
định trong bộ quy tắc này dường như thiếu đi những quy định đòi hỏi sự chi tiết.
Hiện nay, dù Luật Công chứng đã điều chỉnh một cách tương đối toàn diện và
đầy đủ các vấn đề liên quan đến lĩnh vực công chứng nói chung, tổ chức và hoạt động
của các tổ chức hành nghề công chứng nói riêng. Tuy nhiên, pháp luật về công chứng
hiện đang bộc lộ những hạn chế trong điều chỉnh mô hình tổ chức và hoạt động của tổ
chức hành nghề công chứng, chưa phù hợp với thực tiễn hoạt động công chứng đang
diễn ra. Một số quy định của Luật không rõ ràng dẫn đến việc áp dụng không thống
nhất và thiếu chính xác, chưa có cơ chế ràng buộc trách nhiệm của các công chứng
viên đối với tổ chức hành nghề công chứng nơi đăng ký hành nghề, chế tài xử lý đối
với các hành vi vi phạm pháp luật liên quan đến hoạt động của các tổ chức hành nghề
công chứng chậm được quy định và còn nhiều kẽ hở để các cơ quan quản lý nhà nước
cũng như các công chứng viên và tổ chức hành nghề công chứng lợi dụng để thực hiện
các hành vi vi phạm…
2. Đề xuất và hoàn thiện quy tắc đạo đức hành nghề công chứng hiện hành
2.1. Hoàn thiện quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng
Việc hoàn thiện quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng sẽ
đảm bảo cho việc thực hiện chủ trương của Đảng tại Đại hội XII là phòng ngừa, ngăn
chặn quan hệ “lợi ích nhóm”; chống đặc quyền, đặc lợi; đẩy mạnh cải cách hành chính,
cải cách tư pháp; khắc phục tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các tổ chức
hành nghề công chứng, hạn chế các tiêu cực trong quản lý đối với lĩnh vực công chứng
nói chung, quản lý các tổ chức hành nghề công chứng nói riêng, đảm bảo yêu cầu cải
cách hành chính, cải cách tư pháp.
Bên cạnh đó, việc hoàn thiện quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề
công chứng cũng sẽ góp phần vào việc nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước nói chung,
quản lý công chứng nói riêng, bảo đảm cho pháp luật về công chứng nói chung, quản
lý tổ chức hành nghề công chứng nói riêng được đầy đủ, toàn diện, thống nhất và
mang tính khả thi cao.
Ngoài ra, việc hoàn thiện quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công
chứng không chỉ nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế đang xảy ra mà còn góp phần
nâng cao chất lượng và tính bền vững của hoạt động công chứng; đảm bảo sự quản lý
chặt chẽ, hiệu quả đối với quá trình hoạt động hành nghề của công chứng viên, tổ chức
hành nghề công chứng; kịp thời phát hiện, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật
của công chứng viên, tổ chức hành nghề công chứng; cải thiện chất lượng bồi dưỡng
kiến thức pháp luật, kỹ năng hành nghề cho công chứng viên; đảm bảo cho các tổ
18
chức hành nghề công chứng hoạt động lành mạnh, đi vào nề nếp, phát triển đúng
đúng định hướng, mang lại hiệu quả cao đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước.
Ví dụ: Xây dựng quy chế phối hợp hoạt động trong quản lý nhà nước giữa Ngân
hàng nhà nước và Bộ Tư pháp để đảm bảo sự chỉ đạo thống nhất của Ngân hàng nhà
nước đối với các tổ chức tín dụng liên quan đến việc công chứng các hợp đồng thế
chấp, mua bán tài sản nhằm chấn chỉnh, ngăn chặn tình trạng công chứng ngoài trụ
sở (tại các tổ chức tín dụng) của các văn phòng công chứng; quy chế thông tin, phối
hợp quản lý giữa cơ quan quản lý nhà nước về công chứng là Sở Tư pháp với tổ chức
xã hội - nghề nghiệp của công chứng viên và các cơ quan, tổ chức khác có liên quan
(văn phòng, đăng ký đất đai, cơ quan công an, kiểm sát, tòa án...) trong quản lý nhà
nước về công chứng để đảm bảo cho hoạt động quản lý nhà nước về công chứng đạt
hiệu quả.
2.2. Hoàn thiện quy định của pháp luật trong tổ chức và vận hành hoạt
động công chứng
2.2.1.
Kế thừa và tiếp tục phát triển những quy định đã đem lại kết quả
tích cực
Kế thừa và tiếp tục phát triển những quy định đã đem lại kết quả tích cực được
thực tiễn kiểm nghiệm trong quá trình thực thi Luật Công chứng 2014. Đồng thời, sửa
đổi, bổ sung các quy định mới để đảm bảo phù hợp với tình hình thực tiễn, nâng cao
chất lượng đội ngũ công chứng viên, chất lượng hoạt động công chứng, đơn giản hóa
trình tự, thủ tục công chứng, phát huy tính chủ động, tích cực của công chứng viên
trong quá trình tác nghiệp, tăng cường trách nhiệm của công chứng viên trong hoạt
động công chứng để công chứng thực sự trở thành một công cụ “bảo vệ” người dân
trong quan hệ dân sự, qua đó bảo đảm tốt hơn cho cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp sử
dụng dịch vụ công chứng trong điều kiện các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại
ngày càng đa dạng, phong phú và phức tạp.
2.2.2. Tạo sự thống nhất chung trong quá trình giải quyết hồ sơ công
chứng cho công dân
- Tránh trường hợp mỗi công chứng viên vận dụng và áp dụng quy định của pháp
luật một cách khác nhau dẫn đến thủ tục giải quyết hồ sơ giữa các tổ chức hành nghề
công chứng khác nhau, tạo ra sự tùy tiện trong quá trình giải quyết hồ sơ giữa các tổ
chức hành nghề công chứng, cạnh tranh không lành mạnh, không đảm bảo tính an toàn
pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch, đem lại nhiều rủi ro cho khách hàng.
19
- Quy định cụ thể những trường hợp có lý do chính đáng khác tại Khoản 2, Điều
44 Luật Công chứng 2014: “Việc công chứng có thể được thực hiện ngoài trụ sở của
tổ chức hành nghề công chứng trong trường hợp người yêu cầu công chứng là người
già yếu, không thể đi lại được, người đang bị tạm giữ, tạm giam, đang thi hành án
phạt tù hoặc có lý do chính đáng khác không thể đến trụ sở của tổ chức hành nghề
công chứng” được công chứng ngoài trụ sở tổ chức hành nghề công chứng để đảm bảo
cho việc thực hiện được chặt chẽ, chấn chỉnh tình trạng công chứng ngoài trụ sở dẫn
đến cạnh tranh không lành mạnh giữa các tổ chức hành nghề công chứng, không đảm
bảo an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch.
2.2.3. Ban hành văn bản quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn của các
cơ quan của Hội Công chứng viên tỉnh, thành phố
Để đảm bảo cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Hội được hiệu quả, thật
sự là cơ quan đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội viên trong hành nghề.
Đồng thời, bổ sung quy định về trách nhiệm của Hiệp hội công chứng viên Việt Nam
và Hội công chứng viên các tỉnh, thành phố trong việc triển khai quy tắc đạo đức hành
nghề công chứng cho các công chứng viên để nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho
các công chứng viên. Vì theo Nghị định số 29/2015/NĐ-CP thì Quy tắc đạo đức hành
nghề công chứng do Hiệp hội công chứng viên Việt Nam ban hành. Do đó, việc triển
khai Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng do Hiệp hội công chứng viên Việt Nam
và Hội Công chứng viên các tỉnh, thành phố thực hiện sẽ đảm bảo thể hiện đầy đủ và
chính xác tinh thần, ý nghĩa của Quy tắc.
Thông qua việc triển khai Quy tắc đạo đức hành nghề công chứng, Hiệp hội công
chứng viên Việt Nam và Hội công chứng viên các tỉnh, thành phố sẽ dễ dàng thực hiện
việc giám sát hội viên trong việc tuân thủ quy định của pháp luật về công chứng, Quy
tắc đạo đức hành nghề công chứng và Điều lệ Tổ chức xã hội - nghề nghiệp toàn
quốc của công chứng viên. Quy định này sẽ góp phần nâng cao vị trí, vai trò của
Hiệp Hội công chứng viên Việt Nam và Hội công chứng viên tỉnh, thành phố trong
quan hệ hỗ trợ, phối hợp với Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp trong quản lý nhà nước về công
chứng nói chung và quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng nói
riêng.
Bên cạnh đó, cần quy định cụ thể trách nhiệm của Hội công chứng viên Việt
Nam trong việc triển khai, phổ biến các quy định liên quan đến quyền và nghĩa vụ của
công chứng Việt Nam đối với Liên minh công chứng quốc tế để nâng cao ý thức trách
nhiệm nghề nghiệp cho các công chứng viên; làm cho các công chứng viên nhận thức
được trách nhiệm của bản thân đối với việc nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ,
20
rèn luyện đạo đức nghề nghiệp và khả năng sử dụng ngoại ngữ để đảm bảo thực hiện
các nhiệm vụ của Hội công chứng viên tỉnh, thành phố khi được Hiệp hội công chứng
viên Việt Nam giao trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của Liên minh công chứng
Quốc tế.
Ví dụ: Ngoài ra, để kịp thời ngăn chặn, xử lý đối với hành vi vi phạm quy tắc
đạo đức nghề nghiệp của công chứng viên, cần bổ sung quy định về thẩm quyền của
Hội công chứng viên tỉnh, thành phố trong việc đề nghị Sở Tư pháp thực hiện việc
thanh tra và xử lý vi phạm đối với hành vi vi phạm quy tắc đạo đức nghề nghiệp của
công chứng viên thông qua thực hiện nhiệm vụ giám sát các công chứng viên thực
hiện quy tắc đạo đức hành nghề công chứng.
2.3. Tăng cường bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ công chứng. Ban hành quy
định hướng dẫn về nội dung bồi dưỡng kỹ năng, đạo đức hành nghề công chứng
Để đảm bảo việc bồi dưỡng đạt kết quả, hình thức bồi dưỡng phải kết hợp giữa
bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ với bồi dưỡng về chính trị tư tưởng, giữa giảng
dạy lý thuyết và thực hành để nâng cao trách nhiệm của cơ quan thực hiện bồi dưỡng
kỹ năng hành nghề công chứng và chất lượng đội ngũ công chứng viên trong thời gian
đến. Đồng thời, cần có cơ chế để các Sở Tư pháp và Hội công chứng viên các tỉnh,
thành phố, đặc biệt là các tỉnh lẻ, nơi các công chứng viên hoạt động manh mún, yếu
về chuyên môn nghiệp vụ được đề nghị Bộ Tư pháp hỗ trợ, giúp đỡ trong việc bồi
dưỡng nghiệp vụ công chứng hàng năm cho các công chứng viên của địa phương để
đảm bảo việc bồi dưỡng đạt kết quả, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ công
chứng viên cho các địa phương, đảm bảo an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch.
Bên cạnh đó, cần thường xuyên bồi dưỡng về chính trị, tư tưởng cho đội ngũ
công chứng viên, nhân viên tổ chức hành nghề công chứng trực tiếp thực hiện việc
công chứng, chứng thực để nâng cao bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp, rèn luyện
bản lĩnh, nâng cao trách nhiệm phục vụ, vì lợi ích của quốc gia, đất nước. Hạn chế tình
trạng công chứng viên, nhân viên tổ chức hành nghề công chứng thiếu bản lĩnh trước
cám dỗ của đồng tiền, thực hiện hành vi vụ lợi, lợi dụng chức năng, nhiệm vụ tham
mưu xây dựng các cơ chế, chính sách về công chứng tạo ra lợi ích nhóm như hiện nay
hoặc dùng chính chức vụ, quyền hạn của bản thân để thực hiện hành vi vi phạm, đem
lại lợi ích cho bản thân. Qua đó xây dựng đội ngũ công chứng viên, nhân viên tổ chức
hành nghề công chứng thật sự trong sáng, gương mẫu, khách quan, đủ năng lực, phẩm
chất và uy tín, phục vụ tốt cho hoạt động công chứng.
2.4. Tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện pháp luật về
quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng
21
- Cơ quan quản lý nhà nước về công chứng ở các địa phương cần tăng cường
hơn nữa hoạt động thanh, kiểm tra tổ chức và hoạt động của các tổ chức hành nghề
công chứng tại địa phương để kịp thời phát hiện, xử lý và chấn chỉnh các hành vi vi
phạm pháp luật công chứng của các công chứng viên và tổ chức hành nghề công
chứng, đảm bảo cho quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng đạt
hiệu quả.
- Đồng thời, cần có cơ chế giám sát lẫn nhau giữa các tổ chức hành nghề công
chứng và các công chứng viên trong quá trình hoạt động hành nghề để hạn chế tình
trạng công chứng ngoài trụ sở của công chứng viên hoặc sử dụng nhân viên của văn
phòng công chứng để lấy chữ ký của khách hàng sau đó đem về văn phòng công
chứng cho công chứng viên ký. Theo đó, trong quá trình hoạt động hành nghề, các tổ
chức hành nghề công chứng và các công chứng viên khi phát hiện hành vi vi phạm của
tổ chức hành nghề công chứng hoặc công chứng viên khác cần kịp thời báo cáo kèm
theo các chứng cứ cho Hội Công chứng viên tỉnh, thành phố hoặc Sở Tư pháp nơi
mình đăng ký hành nghề để đề nghị Sở xem xét, xử lý theo quy định.
Điều này rất quan trọng, vì nó sẽ bảo đảm cho việc đánh giá được chính xác,
kịp thời và quan trọng nhất là phải thật sự công tâm, khách quan và chuẩn mực.
Ví dụ: Ngoài các cơ quan quản lý Nhà nước như Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp hoặc
Tổ chức xã hội nghề nghiệp hay chính Tổ chức hành nghề công chứng, thì trong quy
chế nên quy định thêm: Trong thành phần đoàn thanh tra, kiểm tra, hay hội đồng giám
sát, khen thưởng, xử lý vi phạm phải có mặt thêm các cơ quan báo chí, truyền thông,
những người chuyên làm công tác xã hội và nhất là những người yêu cầu công chứng
(người yêu cầu ngẫu nhiên và người yêu cầu thường xuyên), … Có như vậy việc thanh
tra, kiểm tra, giám sát, khen thưởng, xử lý vi phạm mới được chính xác, quy chế mới
thực sự phát huy được tác dụng.
2.5. Hoàn thiện quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực công chứng - Xử lý nghiêm minh mọi vi phạm pháp luật trong lĩnh
vực công chứng
- Hoàn thiện theo hướng đảm bảo mọi hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực
công chứng đều phải được xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật.
Ví dụ: Cụ thể, bổ sung quy định về xử phạt vi phạm hành chính đối với nhân
viên của các văn phòng công chứng, tổ chức tín dụng có hành vi vi phạm pháp luật
công chứng và công chứng viên có hành vi vi phạm quy tắc đạo đức nghề công chứng
để tránh tình trạng các nhân viên của các văn phòng công chứng, tổ chức tín dụng và
các công chứng viên lợi dụng kẻ hỡ của pháp luật thực hiện các hành vi vi phạm pháp
22