Tải bản đầy đủ (.pdf) (41 trang)

Nghiên Cứu Sử Dụng Thức Ăn Nhân Tạo Trong Ương Nuôi Ấu Trùng Cua Biển (Scylla Paramamosain)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 41 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN

NGUYỄN VIỆT BẮC

NGHIÊN CỨU SỬ DỤNG THỨC ĂN NHÂN TẠO TRONG
ƯƠNG NUÔI ẤU TRÙNG CUA BIỂN (Scylla paramamosain)

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN

2010


LỜI CẢM TẠ
Xin chân thành cảm ơn sâu sắc đến thầy Trần Ngọc Hải, thầy Châu Tài Tảo đã
định hướng, hướng dẫn, giúp đỡ, động viên và đóng góp nhiều ý kiến quý báu
trong suốt thời gian thực hiện đề tài và hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Xin gởi lời cảm ơn đến anh Lâm Tâm Nguyên, anh Trần Minh Nhứt, anh Phạm
Văn Quyết đã tận tình giúp đỡ khi em gặp khó khăn.
Tác giả xin gởi lời cảm ơn đến các bạn trong bộ môn, các bạn lớp nuôi trồng thủy
sản k 32 đã đóng góp ý kiến và giúp đỡ trong suốt quá trình làm luận văn này.
Sau cùng xin chân thành cảm ơn đến Khoa Thủy Sản và Bộ Môn Kỹ Thuật Nuôi
Hải Sản đã hỗ trợ nguồn kinh phí để thực hiện đề tài.
Cần thơ, tháng 5/2010
Tác giả


TÓM TẮT
Để nâng cao năng suất và hiệu quả trong ương nuôi ấu trùng cua biển, đề
tài “Nghiên cứu sử dụng thức ăn nhân tạo trong ương ấu trùng cua


biển (Scylla pamamosain Estampador, 1949)” được thực hiện từ tháng
11/2009 đến tháng 3/2010 tại trại thực nghiệm Khoa Thủy Sản, Trường Đại
Học Cần Thơ. Thí nghiệm gồm 7 nghiệm thức mỗii nghiệm thức lập lại 3
lần và được ương trong mô hình nước xanh. với thức ăn nhân tạo được bổ
sung ở các giai đoạn khác nhau của ấu trùng cua biển. Sau khi nở, ấu trùng
được định lượng và bố trí vào thùng nhựa 35 l với mật độ ương là 100
con/l. Ấu trùng cua biển ở giai đoạn Z1- Z2 được cho ăn bằng tảo Chlorella,
Nannochloropsis và rotifer với mật độ 30-40 con/ml và Artemia bung dù
với mật độ 0.5-1 con/ml. Từ giai đoạn Z3-Z5 ấu trùng cua được cho ăn bằng
Artemia nở với mật độ 5 con/ml giai đoạn Megalopa cho ăn bằng Artemia 2
ngày tuổi với mật độ từ 8-10 con/ml. Kết quả cho thấy sự biến thái và tỉ lệ
sống của ấu trùng cua biển đến giai đoạn C1 khác biệt không có ý nghĩa
thống kê (p>0.05) giữa các nghiệm thức 5 (tỉ lệ sống 8.8%), nghiệm thức 6
(tỉ lệ sống 9.17%) và nghiệm thức 7 (tỉ lệ sống 10.04%). Mặc dù tỉ lệ sống
cao nhất là 10.04% ở nghiệm thức bổ sung thức ăn nhân tạo vào giai đoạn
Megalopa. Kết quả này đề nghị trong sản xuất giống cua biển nên bổ sung
thức ăn nhân tạo vào giai đoạn Z4 để giảm chi phí trong sản xuất.


MỤC LỤC
CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU ........................................................................... 1
CHƯƠNG II:LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU ....................................................... 3
2.1. Đặc điểm sinh học của cua biển:........................................................ 3
2.1.1. Đặc điểm phân bố và phân loại: .................................................. 3
2.1.2. Vòng đời:.................................................................................... 4
2.1.3. Tập tính dinh dưỡng:................................................................... 5
2.1.4. Sinh trưởng:................................................................................ 6
2.1.5. Thành thục:................................................................................. 6
2.1.6. Mùa vụ sinh sản và di cư sinh sản:.............................................. 7
2.1.7. Cư trú và tập tính sống:............................................................... 8

2.2. Tình hình nghiên cứu sản xuất giống cua biển: ................................. 9
2.2.1. Nghiên cứu trên thế giới: ............................................................ 9
2.2.2. Nghiên cứu trong nước: .............................................................. 10
2.3. Điều kiện môi trường sống của ấu trùng: .......................................... 10
2.3.1. Nhiệt độ và độ mặn:.................................................................... 10
2.3.2. Mật độ: ....................................................................................... 11
2.3.3. Thức ăn và chế độ cho ăn:........................................................... 11
2.3.4. Thay nước:.................................................................................. 12
2.3.5. Giá thể: ....................................................................................... 12
CHƯƠNG III: VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU................ 14
3.1. Thời gian và địa điểm: ...................................................................... 14
3.1.1. Thời gian: .................................................................................. 14
3.1.2. Địa điểm: ................................................................................... 14
3.2. Vật liệu nghiên cứu:......................................................................... 14
3.2.1. Dụng cụ và trang thiết bị thí nghiệm: ......................................... 14
3.2.2. Hóa chất: ................................................................................... 14


3.2.3. Nguồn nước nước thí nghiệm:.................................................... 14
3.2.4. Nguồn ấu trùng: ......................................................................... 15
3.2.5. Nguồn thức ăn: .......................................................................... 15
3.3. Phương pháp nghiên cứu: ................................................................ 16
3.3.1. Bố trí thí nghiệm:....................................................................... 16
3.3.2. Các chỉ tiêu môi trường: ............................................................ 19
3.3.3. Thu mẫu: ................................................................................... 20
3.4. Phương pháp xử lí số liệu: ............................................................... 20
CHƯƠNG IV: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN .............................................. 21
4.1. Các yếu tố môi trường: .................................................................... 21
4.1.1. Nhiệt độ:.................................................................................... 21
4.1.2. pH:............................................................................................. 22

4.1.3. NO2: .......................................................................................... 22
4.1.4. TAN: ......................................................................................... 22
4.2. Các chỉ tiêu biến thái, chiều dài và tỉ lệ sống: .................................. 23
4.2.1. Chỉ tiêu biến thái:....................................................................... 23
4.2.2. Tăng trưởng của ấu trùng: .......................................................... 24
4.2.3. Tỷ lệ sống ở tường giai đoạn phát triển của ấu trùng:................. 26
4.3. Hiệu quả kinh tế: ............................................................................. 27
CHƯƠNG V: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT................................................... 29
5.1. Kết luận:.......................................................................................... 29
5.2. Đề xuất:........................................................................................... 29
TÀI LIỆU THAM KHẢO: ........................................................................... 30


DANH SÁCH HÌNH
Hình 2.1: Vòng đời cua biển Scylla paramamosain ...................................... 5
Hình 3.1: Hệ thống nuôi vỗ cua mẹ .............................................................. 15
Hình 3.2: Hệ thống nuôi luân trùng .............................................................. 16
Hình 3.3: Hệ thống nâng nhiệt khi nhiệt độ thấp........................................... 17
Hình 3.4: Hệ thống ương ấu trùng có sục khí mạnh ...................................... 17
Hình 4.1: Biểu đồ thể hiện tỷ lệ sống qua các giai đoạn ấu trùng ở các nghiệm
thức………………………………………………………………………….. 27


DANH MỤC BẢNG
2.1: Các giai đoạn thành thục của cua cái ..................................................... 7
3.1:Hình thức bổ sung thức ăn ở các giai đoạn của tất cả các nghiệm thức ... 18
3.2: Khối lượng thức ăn chế biến và Artemia ở tất các giai đoạn .................. 19
4.1: Biến động một số yếu môi trường trong thời gian thí nghiệm ................ 21
4.2: Chỉ tiêu biến thái của ấu trùng cua biển ................................................. 23
4.3: Tăng trưởng của ấu trùng ở các nghiệm thức ......................................... 24

4.4: Tỷ lệ sống của ấu trùng qua các giai đoạn.............................................. 25
4.5: Khối lượng thức ăn sử dụng trong quá trình ương ................................. 28


CHƯƠNG I
GIỚI THIỆU
Nghề nuôi thủy sản nước lợ trong những năm qua đã và đang phát triển mạnh mẽ
với các đối tượng như tôm sú, tôm càng xanh, cua, sò, nghêu…trong đó cua biển
(Scylla paramamosain) được xem là đối tượng quan trọng thứ hai sau tôm biển
(tôm sú). Cua biển có tiềm năng kinh tế quan trọng đối với hoạt động đánh bắt
cũng như nuôi trồng thủy sản ở các nước Đông Nam Á đặc biệt là Việt Nam. Cua
biển có đặc điểm là tăng trọng nhanh, kích thước lớn, giá trị kinh tế cao, dễ bảo
quản nên được xem là đối tượng có thể được thay thế tôm ở vùng ven biển
(Overton and Macintosh, 1997). Mặt khác, chúng được tiêu thụ mạnh ở một số
quốc gia trong khu vực Châu Á như Hong Kong, Nhật, Đài Loan và Singapore đặc
biệt là cua gạch (Keenan, 1999). Ở thị trường Hoa Kỳ, cua ở dạng đông lạnh và
cua lột tiêu thụ rất mạnh (Keenan, 1999).
Theo thống kê của FAO thì sản lượng cua của thế giới tăng rất nhanh từ 390.000
tấn (1970) lên đến 1,146 triệu tấn (1989), trong đó Việt Nam chiếm 15.000 tấn
(Nguyễn Thị Ngọc Diễm, 2000). Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu
về sinh sản nhân tạo một số giống loài cua biển, cụ thể ở Nhật loài cua Scylla
serrata được nghiên cứu sản xuất giống từ những năm 1980 với mục đích cung
cấp con giống cho nghề nuôi và thả vào biển để đảm bảo nguồn lợi tự nhiên
(Cowan, 1984). Ở Malaysia, Ong (1964) đã thành công trong việc cho cua biển
Scylla sereata sinh sản nhân tạo đầu tiên. Ngoài ra, các giống loài cua biển được
nghiên cứu ở nhiều quốc gia như: Đài Loan, Thái Lan, Philippines, Trung Quốc…
Hiện nay, sản lượng cua ngoài tự nhiên đang giảm dần do đánh bắt quá mức (khai
thác nguồn con giống, khai thác bố mẹ, khai thác để tiêu thụ trực tiếp), việc thu
giống ngoài tự nhiên để nuôi gặp khó khăn về kích thước lẫn số lượng. Trong một
vài năm trở lại đây thì diện tích rừng ngập mặn bị thu hẹp nên cũng làm ảnh

hưởng đến nơi cư trú và phát triển của cua biển. Do nhu cầu của người nuôi hiện
nay và giảm bớt áp lực cho việc khai thác giống ngoài tự nhiên thì việc sản xuất
con giống có số lượng và chất lượng là vấn đề cấp thiết hiện nay. Theo Nguyễn Cơ
Thạch (1998) việc cung cấp giống cho nuôi thương phẩm chỉ được 20%, còn lại
một tỷ lệ rất lớn là phải trong chờ vào sinh sản nhân tạo.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu sinh sản cua biển trong và ngoài nước, nhưng tỉ
lệ sống tối đa là 10-15%. Khoa thuỷ sản trường đại học Cần Thơ đã đưa ra nhiều
quy trình ương nuôi cua trong hệ thống lọc tuần hoàn, nước xanh, nước trong
nhưng vẫn chỉ đạt 15% tỉ lệ sống là cao nhất, con số đó vẫn chưa ổn định (Trương


Trọng Nghĩa, 2001). Nhằm góp phần cải thiện kỹ thuật trong sản xuất giống cua
biển, nâng cao tỷ lệ sống, giảm giá thành trong sản xuất giống cũng như giảm giá
bán cua C1 cho người dân đề tài “Nghiên cứu sử dụng thức ăn nhân tạo trong
ương nuôi ấu trùng cua biển (Scylla paramamosain)” được tiến hành.
Mục tiêu
Nghiên cứu sử dụng thức ăn nhân tạo trong ương nuôi ấu trùng cua biển (Scylla
paramamosain) qua các giai đoạn khác nhau. Nhằm góp phần cải thiện kỹ thuật
trong sản xuất giống cua biển, nâng cao tỷ lệ sống, giảm giá thành trong sản xuất
giống cũng như giảm giá bán cua C1 cho người dân
Nội dung
Nghiên cứu bổ sung thức ăn nhân tạo vào các giai đoạn của ấu trùng cua biển


CHƯƠNG II
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
2.1.Đặc điểm sinh học của cua
2.1.1.Đặc điểm phân bố và phân loai.
Cua biển thuộc lớp giác xác, bộ mười chân (Decapoda), là đối tượng hải sản quý,
có giá trị thương mại cao và là mặt hàng xuất khẩu quan trọng của nhiều nước.

Theo nghiên cứu của Keenan (1998) ở vùng Đông Nam Á có 4 loài cua là Scylla
serrata, Scylla paramamosain, Scylla olivecea, Scylla tranquebarica, loài cua biển
nước ta theo Keenan và ctv (1998) thì Scylla paramamosain và Scylla olivecea.
Cua biển Scylla phân bố khắp khu vực Ấn Độ- Thái Bình Dương ( Keenan và ctv,
1998). Theo Stephenson (1962), Scylla serrata là loài cua lớn phân bố rộng ở vùng
cửa sông khu vực Ấn Độ- Thái Bình Dương. Scylla olivacea được tìm thấy phần
lớn ở Philipines và Malaysia. Cả Scylla olivacea và Scylla tranquebarica đều xuất
hiện tập trung ở Biển Nam Trung Quốc, nơi mà lòai Scylla serrata hầu như không
hiện diện (keenan, 1999).
Ở Việt Nam, đặc biệt vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long, theo Keenan và et
al.(1998) có hai loài chủ yếu là Scylla paramamosain (cua sen) và scylla olivacea
( cua lửa), trước đây thường bị nhầm lẫn là Scylla serrata (Hoàng Đức Đạt, 1992;
Nguyễn Anh Tuấn và ctv., 1996 được trích dẫn Phạm Thị Tuyết Ngân và ctv,
2005). Loài Scylla serrata không được tìm thấy ở Đồng Bằng Sông Cửu Long
cũng như ở Việt Nam. Scylla paramamosain chiếm trên 95% trong quần thể
Scylla, trong khi đó, Scylla olivacea chỉ chiếm khoảng 5% ( Le Vay et al., 2001).
Hệ thống phân loại cua biển
Ngành:

Arthropoda

Lớp:
Bộ:
Họ:
Giống:

Malacostraca
Decapoda (mười chân)
Portunidae
Scylla



Loài:

Scylla paramamosain.

2.1.2 Vòng đời
Vòng đời của cua biển trải qua nhiều giai đoạn khác nhau và mỗi giai đoạn có tập
tính sống và cư trú khác nhau. Ong (1964) lần đầu tiên đã mô tả các giai đoạn của
ấu trùng cua là sau khi nở, Z1 trải qua năm lần lột xác thành Z5 khoảng 17-20
ngày. Từ Z5, ấu trùng biến thái thành Megalop và trở thành cua con khoảng 8-11
ngày qua một lần lột xác. Cua con tiếp tục qua 16-18 lần lột xác nữa để trở thành
cua trưởng thành và thành thục, thời gian này ít nhất khoảng 338-523 ngày.
Nguyễn Thanh Phương và Trần Ngọc Hải (2004) cho rằng vòng đời của cua biển
được chia làm 4 giai đoạn: Giai đoạn ấu trùng, giai đoạn cua con (chiều dài mai
khoảng 20-80 mm), cua tiền trưởng thành (chiều dài mai 70-150 mm) và cua
trưởng thành (chiều dài mai từ 150 mm trở lên). Tuổi thọ trung bình của cua từ 2-4
năm tùy thuộc vào điều kiện môi trường sống.
Nhiệt độ ảnh hưởng rất lớn đến sự thành thục của cua biển, Heasman và Fielder
(1983) cho rằng nhiệt độ nước cao có thể làm tăng tốc độ tăng trưởng vì thế giảm
thời gian thành thục của cua.
Nghiên cứu về sinh học sinh sản của cua Quinn và Kojis (1987) cho biết S. serrata
có thể thành thục ở kích thước nhỏ (chiều rộng mai cua khoảng 10 cm). Trong khi
đó S. paramamosain đạt mức thành thục ở kích thước lớn hơn chiều rộng mai ít
nhất phải 12 cm, (trích bởi Nguyễn Cơ Thạch và ctv, 1998)


Hình 2.1: Vòng đời cua biển Scylla paramamosain
2.1.3 Tập tính dinh dưỡng
Trong tự nhiên thức ăn ưa thích của ấu trùng cua là tảo khuê, ấu trùng giáp xác,

nhuyễn thể, giun…Tuy nhiên, những thông tin chi tiết về tính ăn của cua trong tự
nhiên không được nhiều. Trong điều kiện nuôi ấu trùng cua được cho ăn với nhiều
loại thức ăn khác nhau như: Chlorella, Tetraselmis, luân trùng, Artemia và nhiều
loại thức ăn viên có kích thước nhỏ.
Cua là loài ăn tạp từ giai đoạn cua con trở đi và kiếm ăn vào ban đêm. Hill (1975)
thấy rằng thức ăn trong tự nhiên của chúng chiếm 55% là nhuyễn thể, 21% là giáp
xác và phần còn lại là cá ít thấy có trong ống tiêu hóa của cua cho nên Hill kết
luận rằng cua không thích nghi với việc bắt những con mồi di động, hơn nữa tập
tính ăn của chúng cũng thay đổi theo tuổi.
Nhiệt độ là nhân tố ảnh hưởng đến tính ăn và hoạt động của cua. Hill (1980) cho
rằng tốc độ tối đa trong tính ăn và hoạt động của S. paramamosain xảy ra khoảng
25 oC và khi nhiệt độ giảm xuống 20 oC thì tính ăn và hoạt động của cua giảm


xuống rõ rệt. Cua ăn khỏe với lượng thức ăn rất lớn. Tuy nhiên khi sống trong điều
kiện bất lợi, chúng có thể nhịn đói nhiều ngày (10-15 ngày).
2.1.4 Sinh trưởng
Cua cũng như các loài giáp xác khác, chúng lột xác để biến thái và tăng trưởng.
Cua đực tăng trưởng nhanh hơn cua cái (Manganpa et al, 1987) và tốc độ tăng
trưởng của cua đực khoảng 1,3 g/ngày, trong khi đó cua cái tăng trưởng 0,9
g/ngày. Trĩno et al (1999) cho biết trong ao nuôi cua đực hoạt động nhiều hơn cua
cái và tốc độ tăng trưởng riêng cao hơn một cách có ý nghĩa so với cua cái. Lee
(1992) thì cho rằng sự tăng trưởng của cua biển ngừng vào mùa đông, khi nhiệt độ
giảm xuống 20 oC. Ong (1966) cho rằng cua trải qua nhiều lần lột xác trong suốt
quá trình sinh trưởng của chúng nhưng số lần lột xác và tăng trọng lột xác thì
không giống nhau ở mỗi giai đoạn.
Manjulatha và Babu (1998) cho rằng nhiệt độ và nồng độ muối có ảnh hưởng rất
lớn đến sự lột xác và tăng trưởng của cua. Nhiệt độ nước thấp hơn 24 oC hoặc trên
34 oC làm cua giảm ăn và kéo dài thời gian lột xác. Ở nhiệt độ từ 26-31 oC, hoạt
động bắt mồi và lột xác của cua trong tình trạng bình thường. Loài S.

paramamosain có thể chịu đựng sự dao động bất thường của nồng độ muối.
Nguyễn Thanh Phương và Trần Ngọc Hải, (2004) thì tuổi thọ trung bình của cua
từ 2-4 năm qua mỗi lần lột xác trọng lượng cua tăng trung bình từ 20-50% trọng
lượng cơ thể. Kích thước cua có thể đạt từ 19-28 cm về chiều rộng mai với trọng
lượng từ 1-3 kg/con. Thông thường trong tự nhiên cua có kích cỡ trong khoảng
7,5-10,5 cm và nếu với một kích cỡ tương đương nhau về chiều dài hay chiều rộng
carapace thì cua đực nặng hơn cua cái.
Ấu trùng cua lột xác trong vòng 2-3 ngày hoặc 3-5 ngày/lần. Cua lớn lột xác chậm
hơn (nửa tháng hay một tháng/lần). Sự lột xác của cua có thể bị tác động bởi ba
loại kích thích tố: Kích thích tố ức chế lột xác, kích thích tố thúc đẩy lột xác và
kích thích tố điều khiển hút nước lột xác. Đặc biệt trong quá trình lột xác cua có
thể tái sinh các bộ phận cơ thể đã mất như càng hay chân. Cua thiếu phụ bộ hoặc
phụ bộ bị tổn thương thường có khuynh hướng lột xác sớm hơn, có thể ứng dụng
đặc điểm này vào kỹ thuật nuôi cua lột.
2.1.5 Thành thục
Nguyễn Thanh Phương và Trần Ngọc Hải (2004) cho biết trong tự nhiên cua biển
có thể thành thục ở độ tuổi từ 1-1,5 năm, với CW thấp nhất là 83-144 mm. Prasad


(1989) nhận thấy cua chỉ tham gia sinh sản khi CW đạt từ 120-180 mm. Hơn nữa
không như cua đực, cua cái không bao giờ đạt được 100% độ thành thục ở bất kỳ
kích thước nào. Bên cạnh đó, Sombat (1991) cũng tìm thấy tất cả cua cái đều
thành thục khi chúng đạt giá trị chỉ số thành thục con cái là 0,88-1, (trích bởi Trần
Ngọc Hải, 2004).
Bảng 2.1: Các giai đoạn thành thục của cua cái
Giai
thục

đoạn


thành Đặc điểm

Giai đoạn I

Chưa thành thục, tuyến sinh dục mỏng và trong suốt, bụng
có hơi dạng tam giác. Đường kính trứng 0,01-0,06mm.

Giai đoạn II

Tuyến sinh dục đang phát triển, noãn sào có màu trắng
kem hay vàng chiếm 1/4 gan tụy. Đường kính trứng từ 0,10,3mm.

Giai đoạn III

Cua đang thành thục noãn sào nở rộng, chiếm 1/4-3/4 diện
tích gan tụy. Noãn sào màu trắng. Đường kính trứng 0,40,9mm.

Giai đoạn IV

Túi chứa tinh lồi lên, noãn sào màu cam hay đỏ, nở rộng
và chiếm hết diện tích gan tụy và cả khoan ruột. Có thể
nhìn thấy màu vàng từ phía sau giữa giáp đầu ngực và
yếm. Đường kính trứng 0,7-1,3mm

2.1.6 Mùa vụ sinh sản và di cư sinh sản
Trong suốt quá trình thành thục, cua di cư ra ngoài biển. Qua phân tích tỷ lệ giới
tính trong vùng nước lợ và nước ngọt, Prasad (1989) thấy rằng phần trăm con đực
và con cái tương đương nhau ở hai vùng nước, nhưng vào thời điểm sinh sản thì tỷ
lệ con cái giảm đáng kể ở vùng nước lợ. Ong (1966) thì cho biết có tìm thấy cua
cái mang trứng ngoài biển nhưng không thấy xuất hiện ở vùng nước lợ tại

Malaysia.
Nguyễn Thanh Phương và Trần Ngọc Hải (2004) cho rằng sở dĩ cua di cư từ vùng
cửa sông ra biển là do yêu cầu về điều kiện môi trường trong giai đoạn đầu của ấu
trùng Zoea.


2.1.7 Cư trú và tập tính sống
Loài cua S. paramamosain cũng như một số loài cua thuộc giống Scylla chủ yếu
tập trung sống ở vùng biển nông, vùng cửa sông và vùng rừng ngập mặn… Lewis
and Campell, 1967 cho rằng tất cả các loài cua được tìm thấy ở vùng có nồng độ
muối không quá cao, thường thấp hơn 33 ‰. (Trích bởi Nguyễn thanh Phương và
Trần Ngọc Hải, 2004). Riêng có loài cua S. serrata thường phân bố ở vùng có
nồng độ muối lớn hơn 34 ‰.
Trong chu kỳ sống của mình, cua biển thường sống ở những nơi khác nhau. Thời
kỳ phát triển phôi được cua mẹ mang dưới yếm và sống ở vùng biển ven bờ. Ấu
trùng nở ra sống phù du và theo thủy triều trôi dạt vào vùng nước lợ, những vùng
bãi lầy ven bờ biển, cửa sông…Đến khi thành thục sinh dục lại di cư ra biển sinh
sản.
Warner (1977) cho rằng ấu trùng cua biển sống trôi nổi trên mặt biển, ấu trùng
Megalop thường sống trên những chất nền như tảo ở đáy biển và sẽ trở thành động
vật sống đáy sau thời gian bơi lội trôi nổi trong nước.
Cua con bắt đầu sống bò trên đáy và đào hang để sống hay chui rút vào gốc cây,
bụi rậm đồng thời chuyển từ đời sống trong môi trường nước mặn sang môi trường
nước lợ ở rừng ngập mặn, vùng cửa sông hay ngay cả vùng nước ngọt trong quá
trình lớn lên.
Cua đạt giai đoạn thành thục có tập tính di cư ra vùng nước mặn ven biển để sinh
sản. Cua còn có khả năng bò trên cạn và di cư rất xa.
Cua là loài rất năng động, chúng có thế hoạt động trung bình 13 giờ/ngày và hoạt
động gần như sáng đêm. Quảng đường mà chúng di chuyển trung bình trong một
đêm là 416m, thường dao động từ 219-910m (Nguyễn Thanh Phương và Trần

Ngọc Hải, 2004).
Ấu trùng ở giai đoạn zoea thích sống ở độ mặn 25-30 ‰, cua con và cua trưởng
thành thích nghi và phát triển tốt trong phạm vi 2-38 ‰. Tuy nhiên trong thời kỳ
đẻ trứng đòi hỏi độ mặn từ 22-32 ‰.
Nguyễn Thanh Phương và Trần Ngọc Hải (2004) thì cua chịu đựng kém với pH
thấp. Cua có khả năng chịu đựng pH từ 7,5-9,2 nhưng pH thích hợp nhất đối với
cua là 8,2-8,5. Cua có khả năng thích nghi cao với sự thay đổi của độ mặn và thích
hợp là từ 25-32 ‰.


Vũ Ngọc Út (2006) thì cho rằng cua S. paramamosain chiếm ưu thế ở vùng cửa
sông, ngay cả thời điểm môi trường có độ mặn là 0 ‰ trong suốt mùa mưa. Tuy
nhiên nghiên cứu trong phòng thí nghiệm cho thấy cua chỉ sống được trong môi
trường nước ngọt từ 3-5 ngày.
Vũ Ngọc Út (2006) thì cho rằng loài S.paramamosain tăng trưởng và phát triển
kém ở độ mặn 5 ‰. Tỷ lệ chết sẽ tăng dần nếu duy trì cua trong độ mặn này. Độ
mặn thích hợp cho cua S. paramamosain là 15-25‰ và tối ưu là 20-25 ‰ và
không thể sống trong môi trường nước ngọt ở bất kỳ kích thước nào. Sự tăng
trưởng của cua con ngoài tự nhiên ở độ mặn 30‰ kém hơn so với các độ mặn thấp
15 hay 20‰.
2.2 Tình hình nghiên cứu sản xuất giống cua biển trong nước và thế giới
2.2.1 Nghiên cứu trên thế giới
Ong, (1964) lần đầu tiên đã mô tả các giai đoạn của ấu trùng cua. Ong đã sử dụng
ấu trùng Artemia mới nở như là nguồn thức ăn duy nhất cho ấu trùng cua biển
trong suốt quá trình ương nuôi và nhận thấy rằng ấu trùng Artemia không thích
hợp cho ấu trùng cua biển ở giai đoạn Z1 vì chúng quá lớn và bơi lội nhanh.
Khi nghiên cứu ảnh hưởng của mật độ ương lên sự phát triển và tỷ lệ sống của ấu
trùng cua biển Scylla serrata, Yunus et al (1994) đã ương với các mật độ 25, 50,
75, và 100 ấu trùng/L và kết luận rằng tỷ lệ sống giảm dần khi gia tăng mật độ
ương và kết quả lần lượt là 18,4%, 12,7%, 9,3% và 8,2% ứng với các mật độ.

William và ctv (1999) đã nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ và độ mặn đến ấu
trùng cua biển Scylla serrata ở các mức 20, 25, 30, 35 oC và độ mặn là 0 ‰, 5 ‰,
10 ‰, 20 ‰, 30 ‰ và 40 ‰. Tác giả nhận thấy rằng ở độ mặn 0 ‰ ấu trùng chết
hết và nhiệt độ thích hơp trong ương ấu trùng cua Scylla serrata là 30 oC và độ
mặn từ 20-30 ‰.
Ở Indonesia, Arifin (1993) thí nghiệm ương ấu trùng cua biển với mật độ 100 và
200 con/L. Qua thí nghiệm, tác giả khuyến cáo mật độ thả ương ấu trùng cua là
100 ấu trùng/L và không nên ương với mật độ quá cao sẽ dẫn đến tỷ lệ sống thấp
(trích bởi Nguyễn Thanh Phương và Trần Ngọc Hải, 2004)
Rabbani và Zeng (2005) cho biết tỷ lệ sống của ấu trùng cao nhất với bể có nền
tối và thấp nhất đối với bể có nền màu sáng. Trong năm màu bể làm thí nghiệm là
đen, xanh sẫm, nâu sẫm, xanh da trời và trắng thì sự phát triển của ấu trùng đến
giai đoạn megalop ngắn nhất là ương trong bể có màu nâu sẫm và đen khoảng


18,3-18,4 ngày. Bể xanh sẫm là 19,4 ngày, bể xanh da trời là 20 ngày và 23,2 ngày
xảy ra ở bể màu trắng. Mặc dù tỷ lệ sống đến giai đoạn megalop ở bể có màu đen
và nâu sẫm cao hơn bể có màu xanh da trời và trắng nhưng sự khác biệt này không
có ý nghĩa thống kê (p> 0,05)
2.2.2 Nghiên cứu trong nước
Hoàng Đức Đạt (1993) bước đầu nghiên cứu thành công trong sinh sản nhân tạo
giống cua biển Scylla paramamosain tại trại giống COFIDEC (Cần Giờ) cho tỷ lệ
sống từ giai đoạn Z1 đến Z5 khoảng 45-60%, thường chỉ đạt 35-45%, thậm chí còn
thấp hơn (trích bởi Trần Thị Hồng Hạnh, 2000).
Năm 1995, khi nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố môi trường trong ương ấu
trùng cua Scylla paramamosain Hoàng Đức Đạt cho rằng ở độ mặn 30 ‰, nhiệt
độ 29 oC và pH 7,5-8,0 thì thời gian biến thái từ Z1 đến giai đoạn megalop là 17
ngày. Ông cho biết khi ương ở độ mặn cao thì thời gian biến thái càng chậm, thời
gian biến thái của ấu trùng tỷ lệ nghịch với độ mặn.
Khi nghiên cứu ảnh hưởng của độ mặn lên ấu trùng cua (cua 1 đến cua 8), Trần

Ngọc Hải (1997) cho rằng độ mặn tốt nhất cho quá trình lột xác, tăng trưởng và tỷ
lệ sống của cua nên nằm trong khoảng 28-30 ‰. Đồng thời với cường độ ánh sáng
từ 4500-6000 lux cho kích cỡ và tỷ lệ sống của ấu trùng là tốt nhất.
Năm 2000, Trần Ngọc Hải và Trương Trọng Nghĩa đã tiến hành thí nghiệm ương
ấu trùng cua biển ở các mật độ 50, 75 và 100 ấu trùng/L trong mô hình nước xanh.
Kết quả cho thấy sự biến thái và tỷ lệ sống từ ấu trùng đến cua-1 ở nghiệm thức
100 con/L tốt hơn các nghiệm thức còn lại.
2.3 Điều kiện môi trường sống của ấu trùng
2.3.1 Nhiệt độ và độ mặn
Nhiệt độ được xem là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của ấu trùng
cua. Tỷ lệ bắt mồi của ấu trùng giảm khi nhiệt độ thấp dưới 20 oC. Ở nhiệt độ 1923 oC tất cả các ấu trùng đều chết ở giai đoạn Zoea-3, chúng chỉ sống được 15
ngày (Heasman và Fielder, 1983). Ở nhiệt độ 22-24 oC, ấu trùng chỉ còn sống rất ít
sau 18 ngày, tỷ lệ chết của ấu trùng Z4 rất cao. Không chỉ ảnh hưởng đến tỷ lệ
sống của ấu trùng, nhiệt độ còn ảnh hưởng rất lớn đến thời gian biến thái của ấu
trùng. Giai đoạn ấu trùng cua có thể kéo dài 28-35 ngày khi nhiệt độ 25-27 oC
trong khi ở nhiệt độ 28-30 oC chỉ có 26-30 ngày (Marichamy, 1992).


Ngoài nhiệt độ thì độ mặn cũng ảnh hưởng rất lớn đến tỷ lệ sống và phát triển của
ấu trùng. Ở Việt Nam, nồng độ muối trong các trại ương ấu trùng cua biển được
duy trì ở 30 ‰, nhiệt độ khoảng 29 oC, pH=7,5-8,0 ( Trương Trọng Nghĩa et
al,1995).
2.3.2 Mật độ
Mật độ ương ấu trùng khác nhau ở các nước và phụ thuộc vào điều kiện sẵn có. Cụ
thể ở Đài Loan là 10 con/L, Ấn Độ là 25-75 con/L, Malaysia là 20-30 con/L…
Ở Việt Nam, mật độ ương thường từ 80-120 con/L (Hoàng Đức Đạt, 1995) hoặc
100 con/L (Trương Trọng Nghĩa et al, 2000)
2.3.3 Thức ăn và chế độ cho ăn
Có nhiều loại thức ăn được thử nghiệm để ương ấu trùng cua như luân trùng,
Artemia, copepods, chlorella…và ngay cả thức ăn nhân tạo.

Ong (1964) sử dụng ấu trùng Artemia mới nở như là nguồn thức ăn duy nhất cho
ấu trùng cua biển trong suốt quá trình ương nuôi và nhận thấy chúng không thích
hợp trong giai đoạn Zoea vì chúng lớn và bơi lội quá nhanh.
Việc thay thế Artemia ở giai đoạn đầu bước đầu đã mang lại thành công. Ở Ấn Độ,
luân trùng được dùng làm thức ăn cho các giai đoạn Zoea, ấu trùng Artemia đông
lạnh, nghêu và thịt tôm nghiền nát dùng làm thức ăn cho giai đoạn Megalop. Tại
Malaysia, tảo Skeletonema và Isochrysis ở mật độ 500-800 tế bào/ml, luân trùng 530 cá thể/lít và ấu trùng Artemia đông lạnh 6-20 cá thể/lít được sử dụng làm thức
ăn cho ấu trùng ở giai đoạn Zoea, trong khi đó chỉ sử dụng ấu trùng Artemia 2
ngày tuổi với mật độ 10-40 cá thể/lít cho giai đoạn megalop (Zainoddin,1992). Ở
Đài Loan thì chlorella, tảo khuê, luân trùng và thức ăn chế biến (hạt sữa trứng lơ
lửng) với đường kính 100-150 µm được sử dụng cho giai đoạn Zoea đầu tiên,
những giai đoạn ấu trùng sau đó chuyển sang cho ăn ấu trùng Artemia
(Chen,1992). Tại Nhật, giai đoạn Z1 cho ăn ấu trùng Artemia rất nhỏ và sau đó là
Artemia tươi sống với mật độ 30 cá thể/ml (Cowan,1984).
Ở Việt Nam, Trương Trọng Nghĩa et al (1995) cho biết trong tuần đầu ấu trùng
cua được cung cấp tảo khuê Chaetoceros, Skeletonema và luân trùng Brachionus
plicatilis. Cho ấu trùng ăn tảo khuê trong thời gian 6 ngày đầu, ăn luân trùng trong
thời gian 12 ngày đầu. Từ ngày thứ 12 trở đi giảm lượng luân trùng xuống ½ và
cho ăn Artemia mới nở với mật độ 10-15 con/l. Đến ngày thứ 14 ngừng cho ăn


luân trùng, tăng mật độ Artemia lên 20 con/l. Thức ăn trong giai đoạn megalop
gồm ấu trùng Artemia 2 ngày tuổi và thức ăn chế biến.
Ruscoe và et al (2004) cho rằng luân trùng rất quan trọng ở những giai đoạn sớm,
làm tăng tỷ lệ sống và tăng sự tăng trưởng. Nếu không có luân trùng, sự lột xác
của ấu trùng bị trở ngại và tỷ lệ sống thấp đáng kể trong giai đoạn Zoea đầu tiên.
Điều này cũng ảnh hưởng lớn đến tỷ lệ sống ở giai đoạn megalope. Tỷ lệ sống đến
giai đoạn megalope đạt 78% khi luân trùng được cung cấp đến giai đoạn Z2, trong
khi đó tỷ lệ sống chỉ đạt được 32% khi không sử dụng luân trùng.
2.3.4 Thay nước

Trong ương ấu trùng cua, chế độ thay nước cũng rất khác nhau giữa các nơi. Thay
nước 75% thể tích/ngày ở Ấn Độ (Myrachamy,1992), 10% ở Nhật (Cowan,1984)
hoặc cho nước chảy liên tục với vận tốc 5 L/phút đối với bể ương 35 L ở Úc
(Heasman, 1983)…
Thay nước là nhân tố quan trọng trong ương ấu trùng cua. Ngoài tác dụng làm
giảm sản phẩm thải ra trong quá trình trao đổi chất mà còn góp phần cải thiện môi
trường bể ương. Bên cạnh đó, thay nước còn giúp loại bỏ thức ăn thừa mà chủ yếu
là ấu trùng Artemia trước khi chúng quá cỡ không thể loại ra hoặc ấu trùng cua ăn
không được (Linda 1992, Marichamy 1992, Heasman 1983) và thay nước còn ảnh
hưởng đến nhịp độ lột xác của ấu trùng.
Ở Việt Nam cũng có nhiều nghiên cứu khác nhau về chế độ thay nước trong ương
ấu trùng cua như: thay 50% ở mỗi giai đoạn, thay 25% ở mỗi giai đoạn (Trương
Trọng Nghĩa et al, 1995). Thay nước 10-20%/ngày ở giai đoạn Z2 và Z3, nhưng
bắt đầu từ giai đoạn Z4 đến Megalop thì thay nước 40-50%/ngày (Mann et al,
1999b; Quinitio et al, 2001; trích bởi Trương Trọng Nghĩa, 2004). Tuy nhiên
Nguyễn Cơ Thạch và ctv (2004) cho rằng vào những ngày đầu của giai đoạn Z1 ấu
trùng chết rất nhiều khoảng 60-70% cho nên xifon loại bỏ những con chết để môi
trường không bị ô nhiễm. Nhưng từ Z2 đến Z5, cuối mỗi giai đoạn cần làm vệ sinh
và xifon đáy bể ương 1 lần. Tác giả cũng cho rằng không nên thay cấp nước trong
suốt quá trình ương.
2.3.5 Giá thể

Giá thể đóng vai trò quan trọng trong bể ương, chúng không những là nơi để cua
cư trú trốn địch hại mà còn mang ý nghĩa rất lớn trong việc giảm hiện tượng ăn lẫn
nhau của giai đoạn ấu trùng cũng như giai đoạn cua con. Tuy nhiên, Trần Thị


Hồng Hạnh (2000) cho biết những chùm nilon hoặc lưới nhựa khi làm giá thể cho
Megalop có thể làm tăng tỷ lệ sống của ấu trùng.
Ebert et al (1993) đã dùng cát và sàn làm vật bám cho ấu trùng cua ở giai đoạn

Zoea, dùng sàn Nitex và tấm nhựa cho ấu trùng Megalop. Kết quả cho thấy nền
đáy cát và hệ thống tuần hoàn dùng cát có nhiều bất lợi. Các sinh vật sống bám
trên cát như: Copepod và Nematod, xác ấu trùng cũng như chất thải tích lũy trên
nền cát rất khó phát hiện và loại bỏ. Do đó, những biện pháp vệ sinh cần thiết
không thể thực hiện được. (trích bởi Nguyễn Thanh Phương và Trần Ngọc Hải,
2004)


CHƯƠNG III
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Thời gian và địa điểm
3.1.1 Thời gian: Từ đầu tháng 11/2009 đến cuối tháng 3/2010.
3.1.2 Địa điểm: Trại Thực Nghiệm - Khoa Thủy Sản-Trường Đại Học Cần Thơ.
3.2 Vật liệu nghiên cứu
3.2.1 Dụng cụ và trang thiết bị thí nghiệm
- Hệ thống bể ương ấu trùng gồm: 21 xô nhựa có thể tích 35 l/xô
- 1 bể nuôi cấy tảo tạo nước xanh, thể tích 500 lít/bể.
- Bể chứa và xử lý nước, thể tích 2 m3.
- Bể nuôi rotifer 0.5 m3, 1 bể
- Thao, vợt, cốt thuỷ tinh, pipette.
- Túi lọc.
- Kính hiển vi, kính lúp, lame.
- Máy Bơm chìm, hệ thống sục khí, đá bọt, dây sục khí.
- Keo ấp artemia.
- Nhiệt kế thuỷ ngân.
- Máy đo độ mặn.
- Các bộ test pH, NO2, NH4/NH3, kiềm
3.2.2 Hóa chất
Hóa chất xử lý nước và dùng trong thí nghiệm: Chlorine, Iodine, Formol, EDTA,
Natri bicarbonat…

3.2.3 Nguồn nước thí nghiệm
Nước ngọt được lấy từ nguồn nước máy thành phố và nước mặn là nước có nồng
độ muối cao được lấy từ ruộng muối Vĩnh Châu, có nồng độ muối là 75-100 ‰.
Nước dùng ương ấu trùng có độ mặn là 30 ‰ được pha từ 2 nguồn nước trên.


Nước sau khi pha, xử lý bằng chlorine nồng độ 30 ppm. Sục khí liên tục đến khi
kiểm tra hết chlorine rồi bơm qua túi lọc cơ học và sử dụng.
3.2.4 Nguồn ấu trùng
Cua mẹ có nguồn gốc từ các đầm nuôi tôm ở Huyện Thới Bình - Tỉnh Cà Mau.
Cua mẹ phải đạt các yêu cầu như không bị xây xát, kích cỡ từ 200-400g, yếm rộng
tròn và phải đầy gạch. Cua mẹ được nuôi vỗ trong bể 250l, có bố trí hệ thống lọc
chìm. Thức ăn là mực, sò huyết…cho ăn 3 lần/ngày vào lúc 8 giờ sáng, 17 giờ
chiều và 22 giờ tối, cho ăn theo nhu cầu. Khi cua đẻ trứng có màu vàng, sau 9-12
ngày, trứng sẽ chuyển từ màu vàng sang cam rồi đen và sẽ nở ra ấu trùng. Sau khi
trứng nở thành ấu trùng thì tiến hành thu ấu trùng và bố trí thí nghiệm.

Hình 2: Hệ thống nuôi vỗ cua mẹ gồm các bể hình tròn, có bố trí hệ thống lọc
chìm
3.2.5 Nguồn thức ăn
Thức ăn nhân tạo: Frippak 150


Artemia Vĩnh Châu được ấp và cho nở ở nồng độ muối 30 ppt thời gian ấp 14-15
giờ, sục khí liên tục. Artemia bung dù trước khi cho ăn được khử trùng bằng
formaline nồng độ 150 ppm trong 30 giây và rữa lại bằng nước ngọt.
Artemia của công ty INVE được ấp và sử lý ấu trùng Artemia trước khi cho ấu
trung cua biển ăn cũng giống như cách xử lý Artemia Vỉnh Châu.
Luân trùng Brachionus plicatilis được nuôi trong bể composite o,5 m5 và được cho
ăn kết hợp tảo và men bánh mì.

3.3 Phương pháp nghiên cứu
3.3.1 Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm được bố trí như sau: Sau khi ấu trùng cua (Scylla paramamosain) nở
thì tiến hành thu và định lượng rồi tiến hành bố trí vào các bể thí nghiệm với mật
độ 100 ấu trùng/lít.
Thí nghiệm: Nghiên cứu bổ sung thức ăn chế biến vào các giai đoạn của ấu trùng
cua biển (Scylla paramamosain)
Thí nghiệm được bố trí trong xô nhựa có thể tích 25 lít, bố trí hoàn toàn
ngẫu nhiên. Thức ăn chế biến bổ sung ở các giai đoạn khác nhau. Thí
nghiệm gồm 7 nghiệm thức, mỗi nghiệm thức lập lại 3 lần.


Hình 4:Hệ thống ương ấu trùng gồm xô nhựa mái che và bóng đèn
dùng để nâng nhiệt mỗi khi nhiệt độ thấp.

hình 5: Hệ thống ương ấu trùng có bố trí sục khí mạnh


Bảng 3.1: Hình thức bổ sung thức ăn ở các giai đoạn của tất cả các
nghiệm thức
Thức ăn

Giai đoạn cho ăn
Zoea1 Zoea2

Zoea3

Zoea4

Zoea5


Megalop Cua1

Luân trùng
Artemia bung
(Vỉnh Châu )



Artemia
(INVE)



bung

Artemia 1 ngày tuổi
(INVE)
Artemia 2 ngày tuổi
được giàu hoá bằng
DHA (INVE)

Nghiệm thức I: Đối chứng không bổ sung thức nhân tạo
Nghiệm thức II: Bổ sung thức ăn nhân tạo từ zoea1 đến cua 1.
Nghiệm thức III: Bổ sung thức ăn nhân tạo từ zoea 2 đến cua 1.
Nghiệm thức IV: Bổ sung thức ăn nhân tạo từ zoea 3 đến cua 1.
Nghiệm thức V: Bổ sung thức ăn nhân tạo từ zoea 4 đến cua 1.
Nghiệm thức VI: Bổ sung thức ăn nhân tạo từ zoea 5 đến cua 1.
Nghiệm thức VII: Bổ sung thức ăn nhân tạo từ Megalop đến cua 1.



×