MỤC LỤC
Trang
A. MỞ ĐẦU ............................................................................................................1
B. NỘI DUNG ........................................................................................................1
I. Những vấn đề pháp lý về vấn đề sinh con bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản........1
II. Nội dung quy định pháp luật về việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp
sinh con bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản theo quy định của Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014. ......................................................................................................2
1. Xác định cha, mẹ, con trong trường hợp người vợ trong cặp vợ chồng vô
sinh và người phụ nữ độc thân sinh con bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản ..............2
1.1 Đối với cặp vợ chồng vô sinh ......................................................................3
1.2 Đối với người phụ nữ độc thân ....................................................................5
1.3 Xác định cha, mẹ, con trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
…………………………………………………………………………….7
2. Xác định cha, mẹ, con trong trường hợp vợ chồng vô sinh sinh con bằng kĩ
thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng từ ngân hàng tinh trùng ............................10
2.1 Xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh
sản với tinh trùng của người chồng ..................................................................11
2.2 Xác định cha, me, con trong trường hợp sinh con bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh
sản với tinh trùng của người hiến. ....................................................................11
2.3 Xác định cha, mẹ trong trường hợp sinh con bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản
với tinh trùng của người hiến ...........................................................................12
3. Thẩm quyền xác định cha, mẹ con.............................................................12
III. Đánh giá những điểm tiến bộ và hạn chế trong quy định xác định cha, mẹ con
trong trường hợp sinh con bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản và kiến nghị hoàn thiện
pháp luật ..............................................................................................................13
1. Những điểm tiến bộ....................................................................................13
2. Những điểm hạn chế ..................................................................................14
3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật ..................................................................15
C. KẾT LUẬN ......................................................................................................16
A. MỞ ĐẦU
Luật Hôn nhân và gia đình là một văn bản luật quan trọng trong hệ thống pháp
luật Việt Nam, quy định về chế độ hôn nhân và gia đình đó là toàn bộ những quy
định của pháp luật về kết hôn, ly hôn; quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng, giữa cha
mẹ và con, giữa các thành viên khác trong gia đình... Hiện nay, vấn đề sinh con
bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ở nước ta đang trở nên ngày càng phổ biến, do vậy
cũng cần phải có một hành lang pháp lý để quản lý chặt chẽ vấn đề này. Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2014 đã có những quy định mới và tiến bộ về vấn đề này. Vì
vậy em xin chọn đề bài số 10: “Đánh giá quy định về việc xác định cha, mẹ, con
trong trường hợp sinh con bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản theo quy định của Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2014.”
B. NỘI DUNG
I.
Những vấn đề pháp lý về vấn đề sinh con bằng kĩ thuật hỗ trợ
sinh sản.
Khái niệm sinh con bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản được quy định tại khoản 21 Điều
3 Luật HNGĐ năm 2014: “Sinh con bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản là việc sinh con
bằng kĩ thuật thụ tinh nhân tạo hoặc thụ tinh trong ống nghiệm”.
Hiện nay có hai phương pháp chính không chỉ ngành y học Việt Nam mà toàn
ngành y học các nước trên thế giới áp dụng đó là thụ tinh nhân tạo và thụ tinh trong
ống nghiệm.
Một là, đối với phương pháp thụ tinh nhân tạo.
Hiện nay, thụ tinh nhân tạo đang là một trong những vấn đề nhận được sự quan
tâm nhiều nhất xoay quanh lĩnh vực sức khỏe sinh sản. Thụ tinh nhân tạo được biết
đến là một phương pháp hỗ trợ sinh sản hiệu quả được áp dụng phổ biến trong điều
trị vô sinh hiếm muộn nhằm mang đến cơ hội làm cha, làm mẹ cho nhiều cặp vợ
1
chồng. Phương pháp này sử dụng các kỹ thuật để tạo điều kiện cho quá trình thụ thai
được diễn ra thuận lợi nhất tại các cơ sở y tế chuyên khoa.
Dưới góc độ y học, thụ tinh nhân tạo được hiểu là thủ thuật bơm tinh trùng của
chồng hoặc của người cho tinh trùng vào tử cung của người phụ nữ có nhu cầu sinh
con để tạo phôi. Tham khảo ý kiến của các chuyên gia, thụ tinh nhân tạo hay còn gọi
là bơm tinh trùng vào buồng tử cung là một trong những biện pháp hỗ trợ sinh sản
hiệu quả cao hiện nay và trở thành lựa chọn của rất nhiều cặp vợ chồng vô sinh hiếm
muộn.
Hai là, đối với phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm.
Theo khoản 1 Điều 2 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP, ngày 28/01/2015 của Chính
phủ quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang
thai hộ vì mục đích nhân đạo thì: “Thụ tinh trong ống nghiệm là sự kết hợp giữa
noãn và tinh trùng trong ống nghiệm để tạo thành phôi”.
Những trường hợp được áp dụng sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản: Theo
quy định tại khoản 1 Điều 3 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP thì “Cặp vợ chồng vô
sinh và phụ nữ độc thân có quyền sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm
theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa; cặp vợ chồng vô sinh có quyền nhờ mang thai
hộ vì mục đích nhân đạo”. Như vậy, pháp luật cho phép áp dụng biện pháp sinh con
bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản trong hai trường hợp: (i) Đối với cặp vợ chồng vô sinh
(khoản 2 Điều 2 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP) và đối với người phụ nữ độc thân
(khoản 6 Điều 2 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP).
II. Nội dung quy định pháp luật về việc xác định cha, mẹ, con trong trường
hợp sinh con bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản theo quy định của Luật Hôn nhân
và gia đình năm 2014.
1. Xác định cha, mẹ, con trong trường hợp người vợ trong cặp vợ chồng vô
sinh và người phụ nữ độc thân sinh con bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản
2
1.1
Đối với cặp vợ chồng vô sinh
- Trường hợp sinh con trong giá thú
Con trong giá thú là con mà cha mẹ là vợ chồng trước pháp luật. Như vậy đứa
con sinh ra bằng phương pháp khoa học trong thời kì hôn nhân cũng được xác định
là con trong giá thú. Căn cứ khoản 1, Điều 93 Luật HN&GĐ năm 2014: “trong
trường hợp người vợ sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì việc xác định cha,
mẹ được áp dụng theo quy định tại Điều 88 của Luật này.”
Thông thường khi nam nữ kết hôn với nhau, trở thành vợ chồng, trong thời kỳ
hôn nhân mà người vợ sinh con thì con đó mặc nhiên được coi là con chung của vợ
chồng theo nguyên tắc suy đoán được quy định tại Điều 88 Luật HN&GĐ năm 2014:
“Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kì hôn nhân
là con chung của vợ chồng”.
Trường hợp đặc biệt, con được sinh ra theo phương pháp khoa học nhưng vẫn
trong thời kì hôn nhân thì căn cứ vào Điều 88, đứa trẻ vẫn được xác định là “con
chung” của vợ chồng tương tự như đứa con huyết thống.
Cũng theo quy định tại Điều 88 Luật HN&GĐ năm 2014 “Con được sinh ra trong
thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ
có trong thời kỳ hôn nhân”. Cùng với đó trường hợp con sinh ra trước ngày vợ,
chồng đăng kí kết hôn và được vợ chồng thừa nhận là con chung sẽ không được áp
dụng đối với trường hợp sinh con ra bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản. Và với nguyên tắc
tự nguyện, người vợ trong cặp vợ chồng vô sinh được xác định là mẹ đứa trẻ tttong
mọi trường hợp kể cả người mẹ là người nhận tinh trùng, nhận noãn hay nhận phôi
của người khác. Người chồng hợp pháp của người mẹ đó cũng chính là cha của đứa
trẻ ngay cả trường hợp người chồng không phải là người cho tinh trùng.
- Trường hợp con sinh ra trong thời kì hôn nhân nhưng ko được cha thừa
nhận
3
Theo khoản 2 Điều 88 khi người cha nghi ngờ đứa trẻ không phải là con mình thì
có quyền yêu cầu giám định về gen để chứng minh đứa trẻ và mình không có cùng
quan hệ huyết thống.
Thế nhưng trường hợp đứa con được sinh ra theo phương pháp hỗ trợ sinh sản
thì quan hệ cha, mẹ và con là tất yếu và không thể phủ nhận được, trong trường hợp
cặp vợ chồng vô sinh người chồng đương nhiên là cha của đứa trẻ mà họ không được
quyền yêu cầu xác định đứa trẻ đó không phải là con của mình. Bởi vì khi làm đơn
yêu cầu thực hiện biện pháp hỗ trợ sinh sản, cả hai vợ chồng đều phải thể hiện ý chí
đồng thuận đồng nghĩa với việc người chồng thừa nhận mình là người chồng trong
cặp vợ chồng vô sinh; do đó mối quan hệ cha, con với đứa trẻ mặc nhiên được thiết
lập.
Như vậy, pháp luật không cho phép thực hiện việc xác định lại cha, mẹ, con đối
với trường hợp sinh con theo phương pháp khoa học.
- Trường hợp người vợ thụ tinh trong thời kì hôn nhân nhưng sinh con
khi hôn nhân kết thúc
Khoản 1 Điều 88 Luật HN&GĐ quy định: “Con sinh ra trong thời hạn 300 ngày
kể từ thởi điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời kì
hôn nhân”. Nếu người vợ có thai nhờ kĩ thuật hỗ trợ sinh sản trong thời kì hôn nhân,
nghĩa là kể từ ngày hôn nhân chấm dứt trước pháp luật, nếu trong thời hạn 300 ngày
(người vợ chưa kết hôn với người khác) mà sinh con thì con đó vẫn được xác định
là con chung của cả hai vợ chồng.
Khoản 1 Điều 93 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: “Trong trường hợp người
vợ sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì việc xác định cha, mẹ được áp dụng
theo quy định tại Điều 88 của Luật này.” Đối chiếu với quy định tại Điều 88: “Con
sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là
con chung của vợ chồng. Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm
4
chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân. Con
sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ
chồng.
Như vậy, căn cứ vào thời kì hôn nhân cua cặp vợ chồng vô sinh để xác định cha
mẹ, con. Bởi vậy mà trường hợp con sinh ra trước ngày vợ chồng đăng kí kết hôn và
được vợ chồng thừa nhận là con chung sẽ không được áp dụng đối với trường hợp
sinh con bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản. Và với nguyên tắc tự nguyện, người vợ trong
cặp vợ chồng vô sinh được xác định là mẹ đứa trẻ trong mọi trường hợp kể cả người
mẹ là người nhận tinh trùng, nhận noãn hoặc nhận phôi từ người khác. Người chồng
hợp pháp của người mẹ đó cũng chính là cha đứa trẻ ngay cả trường hợp người chồng
không phải là người cho tinh trùng.
Mang thai hộ được thực hiện đối với cặp vợ chồng hợp pháp, quá trình thụ thai
phải được diễn ra trong thời kì hôn nhân. Việc tiến hành mang thai hộ diễn ra ngoài
thời kì hôn nhân là trái với quy định của pháp luật. Đứa trẻ chỉ được coi là con chung
của vợ chồng trong trường hợp đứa trẻ đó được người mang thai hộ thụ tha thông
qua kĩ thuật hỗ trợ sinh sản, cụ thể là thụ tinh nhân tạo, trong thời kì hôn nhân của
cặp vợ chồng mang thai hộ.
1.2
Đối với người phụ nữ độc thân
Khoản 2 Điều 93 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: “Trong trường hợp người
phụ nữ sống độc thân sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì người phụ nữ đó là
là mẹ của con được sinh ra”.
Như vậy, việc xác định mối quan hệ cha, mẹ, con trong trường hợp người phụ nữ
độc thân sinh con bằng phương pháp hỗ trợ sinh sản được áp dụng tương tự như
trường hợp xác định cha, mẹ, con khi cha mẹ không có hôn nhân hợp pháp, trong
trường hợp này chỉ có quan hệ giữa mẹ và con. Người phụ nữ đôc thân được xác
định là mẹ của đứa trẻ rtong mọi trường hợp kể cả người mẹ này nhận tinh trùng
5
hoặc phôi từ người khác. Giữa đứa trẻ và người cho tinh trùng, cho phôi không có
mối quan hệ cha mẹ và con về mặt pháp lý. Chúng ta chỉ xác định được quan hệ mẹcon mà không có quan hệ cha-con như trường hợp của cặp vợ chồng vô sinh.
Mặt khác, pháp luật cũng quy định rất rõ một trong những nguyên tắc áp dụng
biện pháp hỗ trợ sinh sản là phải thực hiện nguyên tắc bí mật, nghĩa là không có bất
kì người đàn ông nào được quyền nhận đứa trẻ là con đẻ của mình. Nếu trong trường
hợp đặc biệt do thông tin rò rỉ hoặc do nguyên nhân khách quan, người phụ nữ độc
thân biết được danh tính người cho tinh trùng hoặc ngược lại thì về mặt pháp lí,
người đàn ông đó không có bất cứ mối quan hệ nào với người mẹ cũng như đứa cin,
đứa con cũng không có quyền “yêu cầu thừa kế, quyền được nuôi dưỡng đối với
người cho tinh trùng, trứng…cho phôi” như quy định tại Khoản 3, Điều 93 Luật
HN&GĐ năm 2014: “Việc sinh con bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản không làm phát
sinh quan hệ cha, mẹ và con giữa người cho tinh trùng, cho noãn, cho phôi với người
con được sinh ra.”
Tuy nhiên trong thực tế, chúng ta cũng có thể xác định được mối quan hệ- chacon cho đứa trẻ sinh ra bằng phương pháp khoa học khi người mẹ độc thân sinh sau
khi mang thia lại kết hôn. Theo quy định tại Điều 88 Luật HN&GĐ năm 2014: “Con
sinh ra trong thời kì hôn nhân…là con chung của vợ chồng.” Như vậy, trong mọi
trường hợp người mẹ độc thân mang thai đứa con bằng phương pháp sinh con khoa
học nhưng sau đó kết hôn và sinh con trong thời kì hôn nhân thì đứa con được xác
định là “con chung” của vợ chồng, nghĩa là khi đó mối quan hệ cha-con được mặc
nhiên thừa nhận cho dù đứa con không có cùng quan hệ huyết thống với người chồng.
Theo khoản 1 Điều 88 Luật HN&GĐ năm 2014: “con sinh ra trước ngày đăng
kí kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng” Nghĩa là trong
trường hợp người mẹ độc thân mang thai và sinh con sau đó mới kết hôn thì đứa con
cũng được xác định là con chung nếu người chồng thừa nhận (nếu không được người
chồng thùa nhận thì đứa trẻ đó được xác định là con riêng của vợ). Như vậy, khi
6
người phụ nữ độc thân sinh con bằng phương pháp khoa học thì ngoài quan hệ mẹ con, chúng ta cũng có thể xác định quan hệ cha - con cho đứa trẻ.
Riêng đối với trường hợp người mẹ độc thân mang thai đứa con bằng phương
pháp khoa học, kết hôn nhưng lại sinh con sau khi hôn nhân đã kết thúc thì người
phụ nữ đó vẫn được xác định là người phụ nữ độc thân. Do đó, mối quan hệ mẹ con là duy nhất, không phát sinh mối quan hệ cha – con nào. Tuy nhiên, nếu người
phụ nữ không đợi quá 300 ngày kể từ ngày hôn nhân chấm dứt (li hôn hoặc chồng
chết) mà tiếp tục kết hôn rồi sinh con thì người con lại được xác định là con của
người chồng sau theo nguyên tắc suy đoán.
1.3
Xác định cha, mẹ, con trong trường hợp mang thai hộ
vì mục đích nhân đạo
Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là điểm đổi mới, tiến bộ của luật hôn nhân và
gia đình. Pháp luật cho phép cặp vợ chồng vô sinh có quyền nhờ mang thai hộ. Việc
này mở ra cơ hội được làm cha mẹ thực sự cho nhiều cặp vợ chồng hiếm muộn.
Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đươc quy định tại khoản 22 Điều 3 Luật HN&GĐ
năm 2014: “Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc một người phụ nữ tự nguyện,
không vì mục đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ không
thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc
lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm,
sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang
thai và sinh con.” Và theo quy định tại Điều 94 Luật HN&GĐ năm 2014: “Con sinh
ra trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là con chung của vợ chồng
nhờ mang thai hộ kể từ thời điểm con được sinh ra.” Vì vậy, việc mang thai hộ vì
mục đích nhân đạo không làm phát sinh quan hệ cha, mẹ, con giữa người được nhờ
mang thai hộ và đứa trẻ được sinh ra.
Mặc dù việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp này vẫn có căn cứ vào sự
kiện sinh đẻ nhưng người mẹ sinh ra đứa trẻ không phải là mẹ ruột. Căn cứ để xác
7
định cha, mẹ, con trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo dựa trên yếu
tố huyết thống và thời kỳ hôn nhân của người nhờ mang thai hộ.
Phôi mà người mang thai hộ là do sự kết hợp gữa noãn và tinh trùng của cặp với
chồng nhờ mang thai hộ nên xét về mặt sinh học, đứa trẻ được sinh ra có cùng huyết
thống với cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ, đồng thời pháp luật cũng không có quy
định về mối quan hệ giữa người mang thai hộ và đứa trẻ. Quy định này là hợp lí, bởi
vấn đè mang thai hộ đặt ra để đảm bảo quyền làm cha làm mẹ của những cặp vợ
chồng vô sinh không thể có con kể cả khi đã sử dụng biện pháp hỗ trợ sinh sản, còn
người mang thai hộ chỉa nhằm mục đích giúp đỡ chứ không vì mục đích làm mẹ.
1.4
Đối với cặp vợ chồng vô sinh
- Trường hợp sinh con trong giá thú
Con trong giá thú là con mà cha mẹ là vợ chồng trước pháp luật. Như vậy đứa
con sinh ra bằng phương pháp khoa học trong thời kì hôn nhân cũng được xác định
là con trong giá thú. Căn cứ khoản 1, Điều 93 Luật HN&GĐ năm 2014: “trong
trường hợp người vợ sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì việc xác định cha,
mẹ được áp dụng theo quy định tại Điều 88 của Luật này.”
Thông thường khi nam nữ kết hôn với nhau, trở thành vợ chồng, trong thời kỳ
hôn nhân mà người vợ sinh con thì con đó mặc nhiên được coi là con chung của vợ
chồng theo nguyên tắc suy đoán được quy định tại Điều 88 Luật HN&GĐ năm 2014:
“Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kì hôn nhân
là con chung của vợ chồng”.
Trường hợp đặc biệt, con được sinh ra theo phương pháp khoa học nhưng vẫn
trong thời kì hôn nhân thì căn cứ vào Điều 88, đứa trẻ vẫn được xác định là “con
chung” của vợ chồng tương tự như đứa con huyết thống.
Cũng theo quy định tại Điều 88 Luật HN&GĐ năm 2014 “Con được sinh ra trong
thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ
có trong thời kỳ hôn nhân”. Cùng với đó trường hợp con sinh ra trước ngày vợ,
8
chồng đăng kí kết hôn và được vợ chồng thừa nhận là con chung sẽ không được áp
dụng đối với trường hợp sinh con ra bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản. Và với nguyên tắc
tự nguyện, người vợ trong cặp vợ chồng vô sinh được xác định là mẹ đứa trẻ tttong
mọi trường hợp kể cả người mẹ là người nhận tinh trùng, nhận noãn hay nhận phôi
của người khác. Người chồng hợp pháp của người mẹ đó cũng chính là cha của đứa
trẻ ngay cả trường hợp người chồng không phải là người cho tinh trùng.
- Trường hợp con sinh ra trong thời kì hôn nhân nhưng ko được cha thừa
nhận
Theo khoản 2 Điều 88 khi người cha nghi ngờ đứa trẻ không phải là con mình thì
có quyền yêu cầu giám định về gen để chứng minh đứa trẻ và mình không có cùng
quan hệ huyết thống.
Thế nhưng trường hợp đứa con được sinh ra theo phương pháp hỗ trợ sinh sản
thì quan hệ cha, mẹ và con là tất yếu và không thể phủ nhận được, trong trường hợp
cặp vợ chồng vô sinh người chồng đương nhiên là cha của đứa trẻ mà họ không được
quyền yêu cầu xác định đứa trẻ đó không phải là con của mình. Bởi vì khi làm đơn
yêu cầu thực hiện biện pháp hỗ trợ sinh sản, cả hai vợ chồng đều phải thể hiện ý chí
đồng thuận đồng nghĩa với việc người chồng thừa nhận mình là người chồng trong
cặp vợ chồng vô sinh; do đó mối quan hệ cha, con với đứa trẻ mặc nhiên được thiết
lập.
Như vậy, pháp luật không cho phép thực hiện việc xác định lại cha, mẹ, con đối
với trường hợp sinh con theo phương pháp khoa học.
- Trường hợp người vợ thụ tinh trong thời kì hôn nhân nhưng sinh con
khi hôn nhân kết thúc
Khoản 1 Điều 88 Luật HN&GĐ quy định: “Con sinh ra trong thời hạn 300 ngày
kể từ thởi điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời kì
hôn nhân”. Nếu người vợ có thai nhờ kĩ thuật hỗ trợ sinh sản trong thời kì hôn nhân,
9
nghĩa là kể từ ngày hôn nhân chấm dứt trước pháp luật, nếu trong thời hạn 300 ngày
(người vợ chưa kết hôn với người khác) mà sinh con thì con đó vẫn được xác định
là con chung của cả hai vợ chồng.
Khoản 1 Điều 93 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: “Trong trường hợp người
vợ sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì việc xác định cha, mẹ được áp dụng
theo quy định tại Điều 88 của Luật này.” Đối chiếu với quy định tại Điều 88: “Con
sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là
con chung của vợ chồng. Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm
chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân. Con
sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ
chồng.
Như vậy, căn cứ vào thời kì hôn nhân cua cặp vợ chồng vô sinh để xác định cha
mẹ, con. Bởi vậy mà trường hợp con sinh ra trước ngày vợ chồng đăng kí kết hôn và
được vợ chồng thừa nhận là con chung sẽ không được áp dụng đối với trường hợp
sinh con bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản. Và với nguyên tắc tự nguyện, người vợ trong
cặp vợ chồng vô sinh được xác định là mẹ đứa trẻ trong mọi trường hợp kể cả người
mẹ là người nhận tinh trùng, nhận noãn hoặc nhận phôi từ người khác. Người chồng
hợp pháp của người mẹ đó cũng chính là cha đứa trẻ ngay cả trường hợp người chồng
không phải là người cho tinh trùng.
Mang thai hộ được thực hiện đối với cặp vợ chồng hợp pháp, quá trình thụ thai
phải được diễn ra trong thời kì hôn nhân. Việc tiến hành mang thai hộ diễn ra ngoài
thời kì hôn nhân là trái với quy định của pháp luật. Đứa trẻ chỉ được coi là con chung
của vợ chồng trong trường hợp đứa trẻ đó được người mang thai hộ thụ tha thông
qua kĩ thuật hỗ trợ sinh sản, cụ thể là thụ tinh nhân tạo, trong thời kì hôn nhân của
cặp vợ chồng mang thai hộ.
2. Xác định cha, mẹ, con trong trường hợp vợ chồng vô sinh sinh con bằng
kĩ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng từ ngân hàng tinh trùng
10
2.1 Xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con bằng kĩ thuật hỗ
trợ sinh sản với tinh trùng của người chồng
Việc xác định quan hệ cha,mẹ, con trong trường hợp này không khác gì so vưới
xác định quan hệ cha, mẹ, con căn cứ và huyết thống, con có chung huyết thống với
cha, mẹ. Việc xác định một người là con hay không phải là con mình dựa trên việc
chứng minh họ có cùng chung huyết thống hay không. Pháp luật cho phép cha, mẹ
có quyền xác định người nào đó là con mình cũng như có quyền xác định một người
nào đó không phải là con mình theo Điều 89 Luật HN&GĐ năm 2014.
Quy định tại khoản 1 Điều 88 cho phép suy đoán con do người vợ sinh ra hoặc
mang thai trong thời kì hôn nhân sẽ có chung huyết thống với người vợ chồng đó,
do đó, sẽ là con chung của vợ chồng. Trong trường hợp cha mẹ không thừa nhận thì
phải có chứng cứ và phải được Tòa án xác định.
2.2 Xác định cha, me, con trong trường hợp sinh con bằng kĩ thuật hỗ trợ
sinh sản với tinh trùng của người hiến.
Đối với trường hợp cặp vợ chồng vô sinh sinh con bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản
từ tinh trùng của người hiến. Con sinh ra có chung huyết thống với người vợ nhưng
không có chung huyết thống với người chồng. Mẹ của đứa trẻ là người vợ, người có
chung huyết thống với đứa trẻ cũng là người sinh ra đứa trẻ. Trong khi đó cha đứa
trẻ xác định căn cứ vào thời kì hôn nhân. Cha đứa trẻ là người chồng hợp pháp của
mẹ đứa trẻ trong thời kì mang thai hoặc sinh son. Quy định tại khoản 1 Điều 88 Luật
HN&GĐ năm 2014, con do người vợ sinh ra hoặc mang thai trong thời kì hôn nhân
sẽ có chung huyết thống với vợ chồng đó, do đó sẽ là con chung của vợ chồng. Trong
trường hợp cha mẹ không thừa nhận con chung thì phải có chứng cứ và phải được
Tòa án xác định.
11
2.3 Xác định cha, mẹ trong trường hợp sinh con bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh
sản với tinh trùng của người hiến
Đối với trường hợp cặp vợ chồng vô sinh sinh con bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản
từ tinh trùng của người hiến. Con sinh ra có chung huyết thống với người vợ nhưng
không có chung huyết thống với người chồng. Mẹ của đứa trẻ là người vợ, người có
chung huyết thống với đứa trẻ là người sinh ra đứa trẻ. Trong khi đó cha đứa trẻ
được xác định căn cứ vào thời kì hôn nhân. Cha đứa trẻ là người chồng hợp pháp
của mẹ đứa trẻ trong thời kì mang thai hoặc sinh con. Quy định tại khoản 1, Điều 88
Luật HN&GĐ năm 2014, con do người vợ sinh ra haowjc mang thai trong thời kì
hôn nhân là con chung của vợ chồng.
3. Thẩm quyền xác định cha, mẹ con
Căn cứ theo quy định tại Điều 101 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 thì:
Cơ quan đăng ký hộ tịch có thẩm quyền xác định cha, mẹ, con theo quy định của
pháp luật về hộ tịch trong trường hợp không có tranh chấp;
Tòa án có thẩm quyền giải quyết việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp có
tranh chấp hoặc người được yêu cầu xác định là cha, mẹ, con đã chết và trường hợp
có yêu cầu việc xác định cha, mẹ, con mà người có yêu cầu chết thì người thân thích
của người chết có quyền yêu cầu Tòa án xác định cha, mẹ, con cho người đã yêu cầu
chết.
Quyết định của Tòa án về việc xác định cha, mẹ, con phải được gửi cho cơ quan
đăng ký hộ tịch để ghi chú theo quy định của pháp luật về hộ tịch. Các bên trong
quan hệ xác định cha, mẹ, con; cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan theo quy định
của pháp luật về tố tụng dân sự.
12
III.
Đánh giá những điểm tiến bộ và hạn chế trong quy định xác định cha,
mẹ con trong trường hợp sinh con bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản và
kiến nghị hoàn thiện pháp luật
1. Những điểm tiến bộ
Xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con theo phương pháp khoa học
được áp dụng theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và Nghị định
số 10/2015/NĐ-CP quy định về sinh con bằng kĩ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và
điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Quyền của người phụ nữ được đặc
biệt bảo vệ trong trường hợp này. Đó là tạo ra một hành lang pháp lý giúp cho người
phụ nưc thực hiện thiên chức của mình, bảo vệ hạnh phúc gia đình họ khi họ không
thể sinh con bằng con đường tự nhiên. Đối tượng áp dụng trong trường hợp này là
cặp vợ chồng vô sinh và phụ nữ độc thân muốn sinh con bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh
sản.
Có thể nhận thấy một điều đặc biệt mới của việc sinh con theo phương pháp khoa
học là pháp luật cho phép người phụ nữ độc thân cũng được áp dụng biên pháp hỗ
trợ sinh sản và thừa nhận mối quan hệ mẹ - con hợp pháp. Đây là một quyền lợi rất
chính đáng của người phụ nữ khi họ không muốn hoặc không có cơ hội kết hơn mà
vẫn có thể thực hiện thiên chức của mình. Nếu như trước đây, khi chưa có cơ sở
pháp lý cho vấn đề này thì người phụ nữ độc thân vẫn có thể thực hiệ thiên chức của
mình nhưng điều đó có thể ảnh hưởng đến hạnh phúc của một gia đình khác, đặc
biệt là có thể ảnh hưởng đến quyền lợi người phụ nữ khác thì hiện nay nếu áp dụng
biện pháp hỗ trợ sinh sản thì họ sẽ thực hiện được thiên chức của mình mà không
ảnh hưởng đến quyền lợi bất cứ ai.
Ngoài ra quy định này còn có mặt tích cực đó là giữu gìn thuần phong mỹ tục
không cho phép mang thai hộ vì mục đích thương mại, sinh sản vô tính- những
phương pháp đi ngược lại với truyền thống cũng như đạo đức của dân tộc ta.
13
2. Những điểm hạn chế
Thứ nhất, có nhiều người cha người mẹ không muốn nhận con sau khi áp dụng
kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Do đứa trẻ sinh ra lại không mang gen của cha hoặc mẹ
thậm chí của cả hai nên trong trường hợp này việ xác định cha mẹ con rất khó khăn.
Bên cạnh đó người phụ nữ độc thân nghi ngờ cơ sở y tế có sự nhầm lẫn trong quá
trình thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Pháp luật vẫn chưa có hướng dẫn cự thể để
cho phép họ được quyền yêu cầu xem xét lại trong phạm vi và mức độ nào đó.
Thứ hai, việc xác định cha mẹ con trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ
trợ sinh sản cũng xuất phát từ nguyên tắc chung đó là xác định cha, mẹ, con khi cha
mẹ có hôn nhân hợp pháp (Điều 88, 93 Luật HN và GĐ năm 2014). Quy định này
nhằm đảm bảo mọi quyền lợi cho cặp vợ chồng, người phụ nữ độc thân và đặc biệt
là đứa trẻ. Đối với trường hợp người phụ nữ độc thân khi sinh con thì áp dụng tương
tự như trường hợp xác định cha, mẹ, con khi cha mẹ không có hôn nhân hợp pháp,
trong trường hợp này chỉ có quan hệ giữa mẹ và con.
Thứ ba, việc áp dụng nguyên tắc suy đoán tại Khoản 1 Điều 88 Luật HN&GĐ
năm 2014: “Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời
kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng. Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày
kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời
kỳ hôn nhân.”Điều này có thể dẫn đến trường hợp cặp vợ chồng vô sinh sau khi
đồng ý sinh con bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản đã tiến hành ly hôn nhưng vẫn thực
hiên kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, việc sinh con trong trường hợp này tùy thuộc vào quá
trình thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với người vợ cũng như chỉ định của cơ sở ý
tế theo căn cứ khoa học, vì thế việc sinh con có thê kéo dài quá 300 ngày. Khi đó,
đứa trẻ sinh ra mặc dù là con chung của căp vợ chồng đã li hôn nhưng không thể
được xác định là con người chồng, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích các bên, đặc
biệt là của đứa trẻ.
14
Thứ tư, trong trường hợp người mang thai hộ không muốn trả con, có thể xảy ra
việc người mang thai hộ có thể được coi là mẹ đứa trẻ đó nếu căn cứ vào giấy chứng
minh mà cơ sở y tế nơi đứa trẻ được sinh ra cấp. Vấn đề xác định cha mẹ con là rất
phức tạp, nhất là khi không có thỏa thuận rõ ràng, mặc dù đứa trẻ sinh ra không
mang gen của người mang thai hộ.
Ngoài ra, pháp luật chưa quy định về việc xác định cha mẹ con trong trường hợp
mang thai hộ vì mục đích thương mại nếu có xảy ra tranh chấp nhằm đảm bảo quyền
lợi của đứa trẻ cũng như quyền lợi của người phụ nữ.
Thứ năm, nguyên tắc bí mật khi thực hiện cho noãn, tinh trùng, phôi đã bộc lộ
nhiều hạn chế trong trường hợp đứa trẻ trưởng thành và kết hôn với người cận huyết
với mình về mặt sinh học hoặc trong trường hợp đứa trẻ mắc bệnh hiểm nghèo đòi
hỏi phải có sự giúp đỡ từ người mang gen điều này gây ảnh hưởng đến quyền và lợi
ích của đứa trẻ cũng như của xã hội.
3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật
Một là, pháp luật cần sửa đổi và quy định cụ thể về từng trường hợp xác định
cha, mẹ, con đối với sinh con bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản sau thời kì hôn nhân của
cặp vợ chồng vô sinh chấm dứt. Việc quy định thời gian mang thai tối đa cần được
sủa đổi phù hợp với từng trường hợp cụ thể.
Hai là, cần bổ sung các trường hợp được phép thực hiện sinh con bằng kĩ thuật
hỗ trợ sinh sản, cụ thể:
- Mở rộng quy định đối với việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đối với
những cặp vợ chồng mà người vợ không đảm bảo về sức khỏe như mắc bệnh:
tim, phổi…bởi vì việc mang thai và sinh con đối với những người này là rất
nguy hiểm với tính mạng kể cả đối với người mẹ cũng như đứa trẻ.
- Cho phép thuewjc hiện sinh con bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản đối với người
chồng bị bất lực về sinh lí hoặc họ không phải là cặp vợ chồng vô sinh nhưng
15
người chồng bị nhiễm chất độc màu da cam, HIV, …Điêu này đảm bảo những
đứa trẻ sinh ra khỏe mạnh, tạo ra sự an tâm với người làm mẹ cũng như với
xã hội.
Ba là, pháp luật cần quy định riêng biệt đối với những người sinh ra từ kỹ thuật
hỗ trợ sinh sản khi họ kết hôn để tránh tình trạng kết hôn cận huyết mà nguyên nhân
xuất phát từ nguyên tắc bí mật của cha, mẹ về mặt sinh học.
Bốn là, cần bổ sung quy định về việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp
người vợ sinh con bằng cách thụ tinh trong ống nghiệm từ việc kết hợp giữa tinh
trùng của người chồng đã mất và noãn của người vợ.
Năm là, quy định cụ thể về thủ tục xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh
con bằng kỹ thuật hô trợ sinh sản, đặc biệt là mang thai hộ: người yêu cầu, thẩm
quyền, chứng minh, chứng cứ,…
Cần có hướng dẫn cụ thể đối với các giấy tờ, đồ vật hoặc các chứng cứ khác như
thư từ, hình ảnh, băng đĩa,… để chứng minh quan hệ cha, mẹ, con đảm bảo việc
nhận cha, mẹ, com được chính xác, đúng pháp luật.
Sáu là, quy định về vấn đề xác định lại cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con
bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản. Do việc sinh con bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản thông
thường không được yêu cầu xác định lại cha, mẹ, con nên pháp luật cần bổ sung quy
định cho phép tiến hành xác định lại cha, mẹ con trong trường hợp này.
C. KẾT LUẬN
Sinh con theo phương pháp khoa học là vấn đề khá phức tạp, đặc biệt về mặt pháp
lí, bởi nó làm thay đổi những quan niệm truyền thống về mặt huyết thống giữa cha
mẹ và con. Nhưng phương pháp đã đáp ứng được nguyện vọng mong mỏi, tha thiết
được làm cha, là mẹ của những cặp vợ chồng không may bị hiếm muộn hay vô sinh.
Thể hiện giá trị nhân đạo cao đẹp và sự tiến bộ vượt bậc của khoa học kĩ thuật. Hiện
nay sinh con theo phương pháp được áp dụng ở rất nhiều nước trên thế giới và ở cả
Việt Nam. Thực tế cho thấy sinh con theo phương pháp khoa học có rất nhiều ưu
điểm vượt bậc, nhưng bên cạnh đó cũng có không ít những khó khăn khi thực hiện.
16
Vì vậy cần có những văn bản pháp lý quy định và hướng dẫn rõ ràng, cụ thể về vấn
đề này.
17
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Ngọc Huy (2017) Luận văn thạc sĩ luật học, Xác định cha, mẹ, con trong
trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản theo pháp luật Việt Nam : luận
văn thạc sĩ luật học
2. Nguyễn Thị Phương Linh (2016), Khóa luận tốt nghiệp, Xác định cha, mẹ,
con trong trường hợp sinh con bằng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản- Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn
3. Ngô Thị Vân Anh (2018), Khoa học pháp lý, Quyền xác định nguồn gốc của
con được sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
4. Đặng Hải Yến (2019), Luận văn Thạc sĩ Luật học, Sinh con bằng biện pháp
hỗ trợ sinh sản và những vấn đề pháp lý phát sinh.
5. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
6. Nghị định 10/2015/NĐ-CP Quy định sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong
ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
7. Nghị định 98/2016/NĐ-CP Sửa đổi Nghị định 10/2015/NĐ-CP quy định về
sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục
đích nhân đạo.
8. Thông tư 57/2015/TT-BYT Hướng dẫn Nghị định 10/2015/NĐ-CP quy định
về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì
mục đích nhân đạo.
9. />