CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Kính gửi: Hội đồng chấm sáng kiến huyện .............................
Năm học: 2018 - 2019
Họ và tên: .............................
Ngày tháng năm sinh:
Nơi công tác: Trường Mầm non ............................. - .............................
- ..............................
Chức danh: Giáo viên
Trình độ chuyên môn: Đại học mầm non
Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến:
Tên sáng kiến: “Một số biện pháp giúp trẻ nhà trẻ lớp 2 tuổi A3 tại
trường Mầm non ............................. yêu thích đến trường”.
1. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: ............................. - Giáo viên chủ
nhiệm
lớp
2
tuổi
A3
-
Trường
mầm
non
.............................,
xã ............................., huyện ............................., tỉnh ..............................
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: : Sáng kiến áp dụng trong lĩnh vực giáo
dục tình cảm kĩ năng xã hội và thẩm mĩ cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi, tại nhóm trẻ
lớp 2 tuổi A3 trường Mầm non ............................., xã .............................,
huyện ............................., tỉnh ..............................
3. Ngày sáng kiến được áp dụng: Từ 09/2018 đến tháng 4/ 2019
4. Mô tả bản chất của sáng kiến: “Một số biện pháp giúp trẻ lớp 2 tuổi
A3 tại trường Mầm non ............................. yêu thích đến trường”
thuộc
huyện ............................., tỉnh ..............................
- Lĩnh vực áp dụng: Áp dụng trong lĩnh vực giáo dục tình cảm kĩ năng xã
hội và thẩm mĩ cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi, tại nhóm trẻ 2 tuổi A3 trường Mầm
1
non ............................., xã ............................., huyện .............................,
tỉnh ..............................
4.1. Tính mới:
* Cơ sở thực hiện sáng kiến:
Sáng kiến “Một số biện pháp giúp trẻ nhà trẻ lớp 2 tuổi A3 tại trường
Mầm non ............................. yêu thích đến trường” là sáng kiến lần đầu tiên tôi
nghiên cứu thực hiện và áp dụng tại nhóm trẻ lớp 2 tuổi A3 trường mầm
non ..............................
Bằng sự tích lũy kinh nghiệm trong công tác chăm sóc, giáo dục trẻ và
đặc biệt là sự quan sát trẻ đến trường, dựa trên đặc điểm tâm sinh lý của trẻ lớp
mình mà bản thân suy nghĩ tìm tòi và áp dụng các biện pháp mới, sáng tạo, hấp
dẫn để khuyến khích trẻ đến trường. Từ đó mang lại hiệu quả cao trong công
tác giáo dục trẻ của mình.
Sáng kiến có cấu trúc khoa học, mang tính sáng tạo và thực tiễn. Các hoạt
động nghiên cứu được thực hiện đảm bảo tính logic khoa học.
Các dữ liệu minh chứng của đề tài được trình bày đầy đủ, khoa học mang
tính thuyết phục sâu sắc.
4.2. Tính khoa học:
Sáng kiến“Một số biện pháp giúp trẻ nhà trẻ lớp 2 tuổi A3 tại trường
Mầm non ............................. yêu thích đến trường” có cấu trúc khoa học, được
viết theo đúng trình tự yêu cầu của một sáng kiến theo quy định. Sáng kiến
được thực hiện trong năm học 2018 - 2019. Kết quả đạt được là rất khả quan,
Các biện pháp giáo viên thực hiện dễ nhớ, phù hợp với đặc điểm của trẻ 24- 36
tháng tuổi
Các biện pháp mà tôi đưa ra hình thành cho trẻ nề nếp, thói quen và tình
yêu với trường, lớp, bạn bè và cô giáo một cách có hệ thống từ đơn giản đến
phức tạp từ dễ đến khó để giúp trẻ phát triển một cách toàn diện.
Phần lớn trẻ ở lứa tuổi mầm non đều có sự miễn cưỡng khi phải xa người
thân để đến một môi trường mới lạ, môi trường không người thân thuộc trong
2
gia đình. Lần đầu tiên bé đi học không phải là chuyện đơn giản đi từ nhà đến
trường mà bé phải rời xa điểm tựa tinh thần vững chắc để làm quen với một thế
giới mới hoàn toàn xa lạ, vậy trẻ quấy khóc là chuyện bình thường. Chính vì
vậy, việc tạo cho trẻ nhà trẻ ham thích đến trường, đến lớp là vấn đề rất quan
trọng. Vì trẻ là lứa tuổi đầu tiên bước vào làm quen với hoạt động trường, lớp
còn rất nhiều điều xa lạ, mới mẻ. Tạo cho trẻ hứng thú đi học sẽ tạo cho phụ
huynh có tâm lí thoải mái, yên tâm giao con cho cô giáo, trẻ sẽ hòa đồng nhanh
với môi trường tập thể tham gia tích cực vào các hoạt động của trường, lớp, cô
giáo cũng dễ dàng tiếp cận với trẻ để hiểu được tâm lý của trẻ và có biện pháp
giáo dục phù hợp.
Từ những lý do trên mà bản thân đã mạnh dạn lựa chọn sáng kiến “Một
số biện pháp giúp trẻ nhà trẻ lớp 2 tuổi A3 tại
trường Mầm
non ............................. yêu thích đến trường” để chia sẻ kinh nghiệm của bản
thân với đồng nghiệp, phụ huynh để mang lại hiệu quả cao hơn trong việc đón
trẻ vào lớp và trẻ được tiếp cận các hoạt động tại trường, lớp mầm non được dễ
dàng và hiệu quả hơn. Các biện pháp mà tôi đưa ra đã được áp dụng cho trẻ tại
lớp 2 tuổi A3 trường mầm non ............................. đạt hiệu quả cao.
4.3. Tính thực tiễn:
4.3.1 Thực trạng trẻ lớp 2 tuổi A3 tại trường Mầm
non ............................. đến trường.
Trường Mầm non ............................. được xây dựng tập trung tại một khu
trung tâm, trường có khuôn viên rộng rãi khang trang sạch đẹp môi trường gần
gũi thân thiện là môi trường tốt cho trẻ hoạt động.
Năm học 2018 – 2019 tôi được phân công chủ nhiệm lớp nhà trẻ 2 tuổi A3,
lớp có tổng số trẻ là 24 cháu trong đó có 11 trẻ nữ, 13 trẻ nam và trẻ dân tộc có 6,
trẻ xã ngoài 4 trẻ. Hầu hết trẻ là con em trong gia đình có bố mẹ làm nông nghiệp
nên thời gian để chăm sóc con cái rất ít và họ thường để mặc cho cô giáo. Do đó
khi nghiên cứu đề tài này tôi gặp những thuận lợi và khó khăn sau:
* Thuận lợi
Ban giám hiệu nhà trường quan tâm chỉ đạo sát sao về chuyên môn và chú
3
trọng về cơ sở vật chất của trường, lớp tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình
dạy và học của cô và trò. Đầu năm học nhà trường ưu tiên bố trí giáo viên cho
nhóm trẻ nhà trẻ để cùng chúng tôi tiếp xúc giao lưu với trẻ và phụ huynh để
hiểu thêm về tính cách cũng như sở thích của trẻ. Ban giám hiệu đã thường
xuyên tổ chức bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên qua các chuyên đề, hội thi
cho chị em đồng nghiệp học tập và rút kinh nghiệm.
Bản thân là giáo viên có trình độ chuẩn về chuyên môn, nhiệt tình yêu
nghề mến trẻ. Có khả năng tổ chức tốt các hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ ở
trường mầm non. Được sự tín nhiệm và tin cậy của phụ huynh học sinh.
* Khó Khăn
Trẻ mới đi học khóc không chịu vào lớp, cô bế không chịu thậm chí còn
đánh, cào cô, trẻ mới đi nên chưa quen với cô và các bạn, chưa thích nghi với
chế độ sinh hoạt ở lớp, các cháu không cùng tháng tuổi, mỗi cháu đều có sở
thích và tính cách khác nhau. Một số phụ huynh tính chất công việc chiếm
nhiều thời gian hay do công việc bận rộn kiếm sống nên chưa thực sự quan tâm
đến con em mình vì vậy phụ huynh nhờ cậy việc dạy dỗ con cái cho cô giáo ở
trường. Còn một số phụ huynh thấy con em khóc nôn trớ sót ruột và thương
con hôm thì cho đi hôm lại nghỉ, như vậy sẽ rất khó khăn trong việc dạy dỗ và
chăm sóc trẻ.
Đặc điểm tâm sinh lý của trẻ ở giai đoạn phát triển lời nói, do đó khả năng
giao tiếp về ngôn ngữ của trẻ gặp rất nhiều khó khăn, khả năng nhận thức của
trẻ không đồng đều, vốn từ của trẻ cũng rất ít, cơ quan phát âm chưa hoàn
thiện, trẻ còn nói ngọng nhiều nên rất khó khăn cho việc giao tiếp và tổ chức
các hoạt động cho trẻ.
Trẻ đang sống trong môi trường gia đình được ông, bà, bố, mẹ nuông
chiều, muốn gì được đấy do đó trẻ hoàn toàn chưa quen nề nếp, thói quen trong
mọi hoạt động ở trường, lớp, trẻ mới đến môi trường nên còn dụt dè nhút nhát
ít giao tiếp với cô giáo nên cô giáo khó có thể biết được tâm sinh lý của trẻ hay
là tính cách, cá tính của trẻ.
* Thực trạng của việc đón trẻ nhà trẻ lớp 2 tuổi A3 đầu năm vào lớp.
4
Đối với trẻ Mầm non nói chung và trẻ lớp 2 tuổi A3 tôi chủ nhiệm nói
riêng. Các biện pháp tạo tâm lý thoải mái khi trẻ nhà trẻ đến lớp là rất quan
trọng. Bố, mẹ cần trò chuyện và làm công tác tư tưởng khi trẻ sắp đến trường
Mầm non. Trước khi cho bé đi lớp vài tháng, phụ huynh cần nói chuyện nhiều
lần với bé, “vẽ” ra một bức tranh thú vị về ngôi trường mà bé sẽ đến học. Phụ
huynh hãy chuẩn bị tâm lý cho chính bản thân mình cần có sự tin tưởng, an
tâm với ngôi trường mình đã lựa chọn để gửi gắm con em mình.
Năm học 2018 - 2019 tôi được phân công chủ nhiệm lớp 2 tuổi A3 trường
Mầm non .............................. Qua giờ đón trẻ buổi sáng tôi thấy vô cùng vất vả
vì những buổi đầu tiên đi học các cháu còn hay quấy khóc đòi bố mẹ, phải dỗ
mãi mà các cháu vẫn không chịu chơi. Trong những ngày này cô giáo phải tất
bật từ sáng đến trưa, nào dỗ dành, ẵm bồng, vật vã với trẻ. Đến giờ ăn thì trẻ
khóc không chịu ngồi ăn, đến giờ ngủ cô giáo phải ẵm ru ngủ. Có trẻ không
chịu ngủ cô giáo phải ẵm ra sân chơi vì sợ ảnh hưởng đến cháu khác. Hôm sau
đã có một số cháu nghỉ học vì bố mẹ thấy các cháu khóc sót ruột quá. Một số
phụ huynh phản ánh là cháu bảo “ Ở lớp toàn bạn lạ, cô giáo lạ con sợ lắm”.
Chính vì những lí do đó tôi đã tìm hiểu và áp dụng một số biện pháp để các
cháu sớm thích nghi với trường, lớp và yêu thích tới trường hơn.
Tôi đã tiến hành khảo sát thực trạng hứng thú của trẻ lớp 2 tuổi A3 thông
qua một số nội dung và kết quả thu được như sau.
Bảng 1: Bảng điều tra thực trạng
Nội dung
Tổng số
trẻ khảo
sát
Kết quả
Đạt
Tỷ lệ
%
Chưa Tỷ lệ
đạt
%
- Trẻ hứng thú đến trường
24
6
25%
18
77%
- Kỹ năng giao tiếp của trẻ
24
05
20,8%
19
79,2%
- Kĩ năng biểu lộ xúc cảm, tình cảm
24
05
20,8%
19
79,2%
* Nguyên nhân:
5
Trẻ ở độ tuổi này chưa rời khỏi bàn tay ấp ủ của người mẹ vì thế các cháu
mang đến trường, đến lớp một tâm trạng vừa bỡ ngỡ lạ lẫm. Đây là lớp bé nhất
trường, trẻ mới đi học hoàn toàn chưa quen nề nếp, thói quen và chế độ sinh
hoạt tại trường do vậy trong các hoạt động trẻ còn rụt rè, nhút nhát, chưa hứng
thú đến trường, kĩ năng giao tiếp của trẻ còn hạn chế. Không chỉ có như vậy
mà con nhiều gia đình nuông chiều con, khi đưa con đi học thấy con khóc xót
con lại cho nghỉ, con muốn gì được đấy, như là con thích đồ chơi là phải được
nhưng đến lớp thì đồ chơi phải cùng nhau chơi do vậy trẻ cảm thấy hụt hẫng
không muốn đi học. Còn nhiều gia đình ở nhà trẻ có thể không muốn ăn thì lại
bảo con không ăn mai mẹ mách cô, bảo cô nhốt ở lớp không cho về chính như
vậy cũng ảnh hưởng đến tâm sinh lý của trẻ.
Mỗi trẻ đều có một tư duy, nhận thức và sở thích, tính cách khác nhau do
đó việc tổ chức cho trẻ làm quen với môi trường nhóm lớp, làm quen với các
bạn còn khó khăn.
Khả năng tổ chức các hoạt động phát triển tình cảm kỹ năng xã hội thẩm
mỹ của bản thân còn hạn chế.
* Đánh giá nguyên nhân và thực trạng:
Từ những nguyên nhân và thực trạng đã nêu trên bản thân tôi nhận thấy
sự hứng thú đến trường, kỹ năng giáo tiếp và kỹ năng biểu lộ xúc cảm, tình
cảm của trẻ còn hạn chế. Với mục tiêu của giáo dục mầm non là lấy trẻ làm
trung tâm và tỷ lệ bé chuyên cần của trẻ nhà trẻ cần đạt từ 80% trở lên. Đây là
một điều khó khăn cho cô giáo dạy lớp nhà trẻ.
Nhìn vào bảng kết quả ta thấy sự hứng thú đến trường của trẻ lớp 2 tuổi
A3 còn chưa cao, với kết quả đó bản thây tôi lo lắng giờ làm như thế nào cho
trẻ yêu thích đến trường. Để khắc phục được thực trạng trên tôi đã mạnh dạn
chọn một số biện pháp để giúp cho trẻ lớp 2 tuổi A3 tại trường Mầm
non ............................. yêu thích đến trường hơn.
4.3.2. Một số biện pháp giúp trẻ nhà trẻ lớp 2 tuổi A3 tại trường Mầm
non ............................. yêu thích đến trường.
6
a. Quan tâm tới đặc điểm tâm sinh lý của trẻ để có biện pháp tổ chức
các hoạt động thích hợp với trẻ nhà trẻ.
Ngoài việc thực hiện chương trình chăm sóc - giáo dục trẻ là vấn đề trọng
tâm, giáo viên cần tiến hành tổ chức để đưa các cháu đi vào nề nếp thói quen ở
mọi lúc, mọi nơi. Chính vì vậy khi trẻ đã tới lớp đã ngoan và quen dần với
trường, lớp và cô giáo thì cô giáo cần bắt tay vào việc tổ chức các hoạt động
giáo dục theo chương trình giáo dục mầm non cho trẻ. Người xưa đã có câu:
“Học thầy không bằng học bạn” nên việc sắp xếp chỗ ngồi cho trẻ cũng rất cần
thiết tôi đã sắp xếp chỗ ngồi của trẻ như sau:
+ Tốp trẻ nhút nhát ngồi cạnh tốp trẻ nhanh nhẹn, mạnh dạn.
+ Tốp trẻ khá ngồi cạnh tốp trẻ trung bình.
+ Tốp trẻ hiếu động, cá biệt hay nói chuyện ngồi cạnh tốp trẻ ngoan,
những trẻ khóc thì ngồi cạnh cô giáo để dễ quan sát và chú ý đến trẻ cũng như
dỗ trẻ tốt hơn. Khi đến lớp thường tự nhiên trẻ thích và theo một cô nào đó
trong lớp hơn cô khác. Hễ đến lớp mà thấy cô đó thì yên tâm đi vào và không
khóc. Chính vì vậy khi chia các cháu vào từng nhóm để hoạt động, ngoài việc
chọn các cháu khó ăn, các cháu ‘đặc biệt” vào nhóm mình, những ngày đầu
nhận trẻ tôi thường để ý xem cháu nào thích và chọn cô giáo cùng lớp với tôi
thì tôi sẽ phân công cô ấy dạy bé và đón bé khi bé đến lớp để cho bé cảm thấy
được yên tâm và phấn khởi khi đến lớp. Khi bé yêu và tin tưởng cô thì việc làm
quen, chăm sóc, những ngày đầu sẽ dễ dàng hơn.
Cô luôn động viên khích lệ sự tiến bộ đối với những trẻ yếu, trẻ hiếu động
khi thấy trẻ ngoan hơn, tích cực hơn. Bằng những hình thức trên giáo viên sẽ
dần ổn định trẻ và trẻ cũng sẽ quen với cô giáo, các bạn ở lớp mầm non từ đó làm
nảy sinh sự say mê hứng thú tới trường, lớp mầm non cho trẻ. Việc sắp xếp này
mang tính chất tạm thời và thường xuyên có sự thay đổi có nhiều trẻ yêu thích
bạn nào đó và đến lớp rất thích chơi với bạn đó nên cô giáo cần luôn chú ý quan
sát cũng như phát hiện ra những cá tính, sở thích nổi bật của trẻ để tác động kịp
thời đáp ứng mong muốn của trẻ để trẻ được thoải mái và tích cực đến trường,
7
lớp.
Trẻ nhà trẻ 24 - 36 tháng bước đầu đi học tập làm quen với trường lớp và
các hoạt động ở trường Mầm non. Trẻ học mà chơi chơi mà học nên việc tổ
chức các hoạt động cho trẻ trước tiên cần có đủ đồ dùng trực quan đó là điều
kiện quyết định vì trẻ phải có đồ dùng để trẻ hoạt động thì trẻ mới vừa chơi mà
lại có thêm hiểu biết. Các hoạt động diễn ra rất nhẹ nhàng các nội dung cung
cấp kiến thức mới được thực hiện trong thời gian 12 - 15 phút và được củng cố,
ôn luyện trong các hoạt động khác hoặc ôn luyện củng cố mọi lúc mọi nơi để
tránh kéo dài gây nhàm chán mệt mỏi cho trẻ. Các hoạt động đều có sự tích
hợp giữa các môn học các lĩnh vực để phát triển toàn diện cho trẻ.
Ví dụ: Trong hoạt động nhận biết tập nói quả bóng. Khoảng 3 - 4 phút đầu
giành cho hoạt động gây hứng thú hát bài hát về quả bóng và trò chuyện về quả
bóng, hoạt động chính 5 - 7 phút trẻ được nhận biết và phát âm tên gọi đặc điểm
màu sắc của quả bóng, 3 - 4 phút sau là hoạt động chơi trò chơi như “ bóng tròn to”
Thông qua hoạt động trên trẻ được luyện phát âm, mở rộng vốn từ và phát
triển tố chất vận động cho trẻ thông qua trò chơi.
Hình ảnh: Một số hoạt động chơi- tập có chủ định của trẻ
Qua hoạt động chơi - tập có chủ định làm quen với âm nhạc: Tùy vào
từng chủ đề tôi áp dụng làm những chiếc mũ xinh, hay những bộ quần áo ngộ
nghĩnh, cho trình diễn thời trang. Từ đó trẻ ham thích và hăng say học không
tạo áp lực cho trẻ.
8
Hình ảnh: Hoạt động chơi - tập có chủ định làm quen với âm nhạc của trẻ
b. Tạo được niềm tin với trẻ và với phụ huynh.
Những ngày đầu tiên đến trường cô giáo phải là người bạn đáng tin cậy
của trẻ. Khi được ba mẹ đưa đến lớp những ngày đầu trẻ thường ôm chặt lấy ba
mẹ không muốn rời xa và nhìn xung quanh một cách dò xét. Nếu lúc đó cô
giáo đến ôm chầm và tách rời trẻ ra khỏi tay mẹ thì tôi nghĩ trẻ sẽ rất ghét và
rất sợ cô sợ đi học. Chính vì thế khi tiếp xúc lần đầu tiên với trẻ tôi chỉ chào
hỏi, cười và làm quen bằng những câu hỏi đơn giản thân mật như: “con tên gì”,
“Con mấy tuổi”, con có muốn vào lớp chơi cùng cô và các bạn không. Sau đó
trò chuyện cùng phụ huynh và từ từ vuốt ve trẻ, nắm tay trẻ thật nhẹ nhàng, đó
là bước đầu để trẻ cảm thấy an lòng. Đầu năm trẻ của tôi khóc nhiều, khi đón
tôi thường an ủi phụ huynh trước tiên vì họ rất thương con lo lắng cho con, sợ
con sẽ khóc nhiều làm ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe. Những lời động viên
sẽ giúp họ an tâm hơn và khi nhận trẻ từ tay ba mẹ tôi nắm tay trẻ, ở gần bên
trẻ và nói chuyện thật nhẹ nhàng. Nhiều trẻ còn ôm chặt lấy ba mẹ không chịu
rời, tôi không vội tách cháu ra khỏi vòng tay phụ huynh ngay mà chỉ đến chào
hỏi phụ huynh, trò chuyện, mỉm cười với trẻ để làm quen tránh cho trẻ bị hụt
hẫng và có cảm giác bị bỏ rơi. Tôi có thể bày đồ chơi hoặc tổ chức chơi trò
chơi với những trẻ khác để gây sự chú ý của trẻ đồng thời quan sát biểu hiện
của trẻ. Có những cháu thì tham gia ngay cùng cô, nhưng cũng có trẻ vẫn chỉ
ngồi trong lòng ba mẹ mà không chịu chơi cùng bạn, đối với những trẻ này tôi
lại gần trò chuyện cùng phụ huynh để hiểu hơn về thói quen, sở thích của trẻ và
9
dễ dàng tìm kiếm biện pháp thích nghi với trẻ, khi trẻ thấy cô và mẹ hay nói
chuyện vui vẻ với nhau trẻ sẽ cảm thấy cô gần gũi hơn, thân thiết hơn.Từ từ trẻ
sẽ chơi với cô và các bạn trong lớp. Khi đón trẻ vào lớp tôi luôn cố gắng trở
thành người bạn tin cậy của trẻ, luôn thu hút trẻ vào những trò chơi nhỏ hay
vào bài thơ, câu truyện, ca dao, đồng dao nhằm tạo sự quen thuộc như trẻ đang
ở với mẹ. Trong thời gian đầu tùy theo cá tính từng trẻ tôi luôn chiều trẻ để trẻ
cảm thấy an tâm trong môi trường mới. Tôi có thể đáp ứng những thói quen
không đẹp của trẻ như ăn sai chế độ, ôm gối đi ngủ, bắt cô ẵm bồng. Giờ ngủ
nếu trẻ chưa chịu ngủ tôi cũng không ép trẻ vào nằm chung với các bạn, tôi sẽ
để trẻ tự do ngồi đâu trẻ thích, khi đó tôi đến nói với trẻ lại đây nằm chơi với
cô, con chỉ cần nằm chơi tí xíu khi nào các bạn ngủ dậy cô sẽ cho con về. hoặc
tôi sẽ thuyết phục trẻ đến khi thấy trẻ buồn ngủ thì lúc đó tôi sẽ để trẻ vào gối
nằm. Là một người giáo viên bản thân tôi cũng luôn xác định mình như chính
là người mẹ của trẻ. Phải biết tôn trọng và đồng cảm với trẻ tạo nên không khí
cởi mở quên mình là người lớn để hòa vào với trẻ để thực sự là người bạn của
trẻ từ đó trẻ dễ dàng bị thu hút, lôi cuốn bởi nghệ thuật của cô và tham gia
hưởng ứng các hoạt động một cách dễ dàng, vui vẻ hơn.
Thông qua các hoạt động trên lớp bằng sự quan tâm, chăm sóc của cô
mang đến cho trẻ trong từng bữa ăn, giấc ngủ. Cứ như vậy trẻ sẽ yêu mến cô
giáo, yêu qúy các bạn và ngày càng yêu thích tới trường. Từ đó trẻ sẽ quên đi
nỗi nhớ gia đình và hòa vào các hoạt động ở trường.
Hình ảnh: Cô trò chuyện cởi mở, nhẹ nhàng đón trẻ vào lớp.
10
c. Tạo môi trường trong và ngoài lớp học gần gũi và thân thiện với trẻ.
Trường Mầm non ............................. là trường Mầm non đạt chuẩn quốc
gia
mức
độ
1,
trong
suốt
quá
trình
phát
triển
trường
Mầm
non ............................. luôn không ngừng đầu tư và phát triển để tạo môi
trường an toàn khang trang trường đã được nâng cấp, sửa chữa các phòng học
như sơn, bắn mái tôn, lát lại nền, thiết kế thêm khu vườn cổ tích, đặc biệt khu
dãy nhà 2 tầng 8 phòng cũng đã được hoàn thiện và đưa vào sử dụng môi
trường khang trang, sạch đẹp, an toàn thu hút trẻ và tạo sự an tâm cho phụ
huynh nhiều hơn. Năm học 2018- 2019 là năm học toàn nghành đã triển khai
chuyên đề “xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm”. Đây là
chuyên đề đã được triển khai từ năm học trước tôi thấy rất phù hợp với giai
đoạn hiện nay khi mà giáo dục Mầm non cũng như trẻ Mầm non ngày càng
được quan tâm và đầu tư phát triển. Ngay từ đầu năm học chúng tôi đã được
nhà trường tiếp tục triển khai chuyên đề và chúng tôi cũng lên kế hoạch và
triển khai chuyên đề luôn. Dựa trên điều kiện của nhóm trẻ 24- 36 tháng lớp 2
tuổi A3 lớp tôi phụ trách và trên cơ sở vật chất nhóm lớp ngay từ đầu tôi đã
thiết kế, xây dựng, và tạo ra môi trường trong lớp học và ngoài lớp học sao cho
gần gũi và thân thiện với trẻ để thu hút sự chú ý của trẻ.
Môi trường thiên nhiên môi trường ngoài trời là một môi trường vô cùng
thú vị tại đó trẻ sẽ được tiếp xúc trực tiếp với thế giới tự nhiên sẽ có vô vàn các
tình huống thú vị xảy ra mà cô giáo có thể tận dụng để thu hút trẻ khiến trẻ có
thể ngay lập tức quên luôn là mình đang khóc. Đầu năm một số giáo viên sợ
cháu khóc thường cho các cháu ở trong lớp, đóng cửa lại không cho các cháu
ra chơi ngoài sân vì sợ các cháu gặp người quen sẽ khóc, hay các cháu bỏ
chốn. Nhưng tôi thiết nghĩ : Trong lớp sẽ ngột ngạt, các cháu sẽ bị ức chế, nỗi
sợ hãi sẽ càng tăng lên. Tại sao mình không cho các bé ra sân trường đi dạo
dưới những tán cây để hít thở không khí trong lành? Chính không khí này sẽ
giúp bé thoải mái, tâm lý vui vẻ. Khi được ra sân các cháu đi theo tôi ngắm
11
nhìn cảnh vật xung quanh, được quan sát các hiện tượng thiên nhiên, quang
cảnh trong sân trường. Mọi vật trở nên mới mẻ với trẻ và tôi cũng tổ chức cho
trẻ chơi các đồ chơi ngoài trời như chơi đu quay, chơi bập bênh, chơi cầu trượt
hoặc chạy nhảy vui đùa. Nhằm kích thích sự nhanh nhẹ, khỏe mạnh của trẻ, tạo
cho trẻ cảm giác thoải mái. Đối với những cháu còn lạ, ngơ ngác và khóc thì
tôi thường dẫn cháu đi bên cạnh, vỗ về âu yếm và trò chuyện với cháu để các
cháu cảm thấy được quan tâm, gần gũi. Dần dần các cháu bị tiếng cười đùa của
các bạn, tiếng hát, đọc thơ và kể chuyện của tôi thu hút. Các cháu không khóc
nữa mà hòa cùng vào các bạn tham gia các trò chơi vận động, trò chơi dân gian
như “bóng tròn to” “dung dăng dung dẻ” “ gieo hạt”, “lộn cầu vồng” thậm chí
“quên” cả mẹ đang đi ở phía sau.
Đối với tôi, phương châm “Mỗi ngày trẻ ở trường đều là ngày vui”. Vì
vậy, vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ và rất được trẻ yêu thích, chơi ở trẻ
vừa là thỏa mãm trí tò mò vừa là phương tiện phát triển toàn diện cho trẻ và tôi
luôn cố gắng tạo điều kiện tốt nhất cho trẻ tham gia đầy đủ các góc phù hợp
với nhu cầu hứng thú của trẻ.
Hình ảnh: Một số hình ảnh về môi trường ngoài trời
Hình ảnh: Cô giáo gần gũi vui chơi cùng trẻ
Ngoài việc xây dựng môi trường giáo dục ngoài trời thì việc xây dựng
môi trường giáo dục trong lớp cần chú trọng nhiều hơn. Môi trường trong lớp
học có ý nghĩa vô cùng quan trọng đó là diễn ra rất nhiều các hoạt động học,
ăn, ngủ, vui chơi. Để trẻ không bị gò bó và được thỏa sức lựa chọn các nội
dung hoạt động tôi đã chuẩn bị tranh ảnh sinh động phù hợp với trẻ, tranh ảnh
được thay đổi vào mỗi chủ đề, trang trí các mảng tường của trẻ bằng các hình
ảnh, đẹp mắt. Tạo môi trường cho trẻ ngồi trong lớp thoáng mát, làm đồ chơi
phong phú (Ví dụ đồ chơi âm nhạc như: trống lắc, phách tre và tất cả các
12
nguyên liệu có thể sử dụng cho các góc khác nhau), rực rỡ nhiều màu sắc với
nhiều nguyên vật liệu khác nhau và sắp xếp các góc chơi phù hợp, nhằm kích
thích sự chú ý, gợi cho trẻ khả năng tìm tòi, mở rộng trí tưởng tượng của trẻ và
thiết kế các bài tập mở phù hợp với nhận thức cũng như khả năng của trẻ 2 tuổi
để trẻ được hoạt động theo ý của mình nhằm phát triển các lĩnh vực như thể
chất, nhận thức, ngôn ngữ và tình cảm kĩ năng xã hội của trẻ. Khi tổ chức các
hạt động vui chơi cho trẻ, tôi tận dụng tất cả những nguyên vật liệu có thể sự
dụng làm đồ dùng đồ chơi. Như chai nhựa, vải vụn, xốp và chuẩn bị đầy đủ các
góc chơi với nhiều chất liệu khác nhau. Đồ chơi phát ra âm thanh như kèn,
trống, phách. Đồ chơi phát triển trí tuệ (Đồ chơi lắp nghép, đồ chơi lô tô).
Ngoài ra tôi còn sắp xếp các góc chơi theo đúng chức năng của đồ chơi nhằm
kích hích khả năng sáng tạo của trẻ (Ví dụ: Góc xây dựng thì đồ chơi thường là
hàng rào, chậu hoa). Thông qua các hoạt động đó cô giáo theo dõi đánh giá sự
tiến bộ, hứng thú trong các hoạt động của trẻ. Ngoài việc trang trí xây dựng
môi trường giáo dục đẹp thì trường lớp phải thoáng mát sạch sẽ. Trẻ lứa tuổi
này bên cạnh sự giúp đỡ của cô trẻ rất vui và thích thú khi trẻ được tự mình
làm những việc mình thích và làm theo ý của trẻ để có được kết quả. Trẻ thích
được tự làm và khi trẻ say mê, yêu thích các hoạt động đó trẻ sẽ yêu thích đến
trường, đến lớp hơn.
Ví dụ: Tại cửa lớp tôi đã chụp ảnh của trẻ và dán tại bảng ngoài cửa lớp.
Trẻ rất thích được ngắm nhìn hình ảnh của mình và xem ảnh của các bạn. Sau
khi điểm danh tôi lại cho trẻ gỡ ảnh của các bạn nghỉ học xuống. Cháu Phúc
ngày đầu tiên đi học còn rất hay khóc tôi dỗ cho trẻ nín tranh thủ chụp cho
cháu 1 cái ảnh để làm ảnh điểm danh. Ngày hôm sau đến tôi bế cháu vào lớp
và hướng dẫn trẻ dán ảnh của mình lên bảng trẻ được ngắm nhìn ảnh của mình,
ảnh của các bạn mà cháu nín khóc. Ngày hôm sau trẻ đến lớp đã biết chỉ ảnh
của mình cho bố mẹ xem và đi vào lớp chơi cùng các bạn không còn khóc nữa.
Trẻ đã ham thích đi học hơn.
d. Tạo cho trẻ có thói quen nề nếp tốt bắt đầu từ những thói quen cũ
của trẻ
13
Đối với giờ ăn có thể vài ngày đầu tôi vẫn chiều theo nhiều thói quen
không tốt của trẻ như: Không ăn thịt, ăn rau, đậu, ăn rất ít cơm. Tôi sẽ từ từ tập
dần thói quen cho trẻ đến khi trẻ quen dần và hiểu chuyện tôi sẽ đưa trẻ nề nếp
ăn, ngủ, vệ sinh. Nếu trẻ không ăn nữa hoặc muốn ói cô phải ngưng cho trẻ ăn
vì nếu nôn thức ăn trẻ sẽ rất sợ thức ăn ở trường. Khi đó cô sẽ cho trẻ uống sữa
nhằm bù lại phần ăn cho trẻ. Vài ngày sau cho trẻ ăn tăng dâng lên trẻ sẽ dễ
thích nghi với thức ăn ở trường, lớp sau đó sẽ cho ăn nhanh gọn và hết suất.
Những cháu ăn chậm cô động viên, khuyến khích và bón cho trẻ để trẻ ăn hết
suất. Đặc biệt hơn là không cho trẻ ăn quà vặt trước giờ ăn để tạo sự thèm ăn
cho trẻ.
Hình ảnh: Tổ chức giờ ăn cho trẻ
Giấc ngủ trưa là rất quan trọng với trẻ cho nên tôi đã bố trí chỗ ngủ sạch
sẽ yên tĩnh, thoáng mát về mua hè và ấm áp về mùa đông, khi ngủ được giảm
ánh sáng bằng cách thả dèm và đóng cửa. Cô kể phản, trải xốp, chăn đệm và
gối cho trẻ ngủ, nhiều lúc tạo cho trẻ có thói quen tự phục vụ bản thân như là
cô giáo hướng dẫn trẻ lấy gối xếp ngay ngắn để chuẩn bị cho giấc ngủ. Những
cháu khó ngủ chưa quen với giấc ngủ ở trường hay có cháu ở nhà không chịu
14
ngủ trưa cô dỗ cháu, bế cháu để đưa cháu dần vào giấc ngủ, cô luôn gần gũi
vỗ về trẻ để trẻ dễ ngủ hơn. Trong giờ ngủ cô quan sát theo dõi để kịp thời xử
lý những tình huống có thể sảy ra. Ngủ trưa là một bước đệm, một quá trình
chuyển tiếp mà cơ quan nội tặng của trẻ được nghỉ ngơi một cách đầy đủ, tạo
điều kiện tốt cho quá trình sinh trưởng và phát triển của cơ thể, giúp trẻ thực
hiện tốt các hoạt động tiếp theo. Vì vậy tổ chức tốt giờ ngủ cho trẻ ở trường
Mầm non là góp phần phát triển thể chất, nhận thức và cảm xúc ở trẻ. Trẻ
được ngủ đủ giấc sẽ có tinh thần thoải mái tiếp thu những kiến thức tốt hơn,
hiệu quả hơn. Từ đó góp phần phát triển toàn diện ở trẻ, Trẻ có tinh thần thoải
mái vui tươi thì các bập phụ huynh cũng yên tâm và đặt niềm tin vào các cô.
15
Hình ảnh: Chăm sóc giấc ngủ cho trẻ
Là giáo viên của lớp, tôi luôn tạo không khí vui tươi, thoải mái cho trẻ,
động viên trẻ đi học đều, tạo điều kiện quan tâm đến những trẻ nhút nhát,
giành thời gian gần gũi trò chuyện với trẻ để trẻ mạnh dạn, tự tin tham gia các
hoạt động tập thể giúp trẻ được giao tiếp nhiều hơn.
e. Quan tâm tới trẻ bằng tình cảm yêu thương trìu mến của người mẹ.
Tình cảm của cô dành cho trẻ như là tình yêu của một người mẹ đối với
đứa con của mình, tình yêu có cả sự dịu dàng và cả những yêu cầu mà trẻ phải
thực hiện. Không chỉ yêu trẻ, mà tôi còn phải biết yêu điều mình dạy, nghĩa là
yêu chính công việc của mình. Yêu trẻ không chỉ bằng lời nói, bằng suy nghĩ
mà bằng chính hành động, bởi: “Càng yêu nghề bao nhiêu, càng yêu người
bấy nhiêu”.
Trẻ ở độ tuổi 24 – 36 tháng chưa rời khỏi bàn tay ấp ủ của người mẹ vì thế
các cháu mang đến trường, đến lớp một tâm trạng vừa bỡ ngỡ lạ lẫm vừa lưu
luyến nhớ nhà. Thậm chí trẻ còn khóc lóc sợ hãi, vì tuổi này trẻ còn rất bé, sống
nhiều về tình cảm nên rất cần sự âu yếm, nhẹ nhàng của cô nhất là những ngày
đầu trẻ mới nhập lớp, cô phải làm sao để trẻ có thể cảm nhận được nguồn hạnh
phúc, được an toàn, được quan tâm, và được yêu mến có thể coi là một thành viên
trong cộng đồng mà trẻ đang hoà nhập. Tình cảm của cô đối với trẻ giàu cảm xúc
thân thiết, yêu thương như quan hệ mẹ con. Biết tôn trọng và đồng cảm với trẻ tạo
nên không khí cởi mở quên mình là người lớn để thực sự là người bạn của trẻ.
Khi trẻ có tình cảm có hứng thú, cô có thể sử dụng nghệ thuật của mình để thu hút
trẻ vào các hoạt động một các dễ dàng hơn .
16
Khi đón trẻ vào lớp những ngày đầu tiên trẻ còn bỡ ngỡ và còn khóc cô
có thể bế trẻ âu yếm rồi bế đến gần bức tranh cho trẻ xem tranh về các bạn
đang ngồi ăn cơm, ngồi chơi xếp hình, đang múa hát. Thông qua nội dung các
bức tranh, với lời dẫn nhẹ nhàng tình cảm của cô đã tạo cho lòng ham muốn
đến lớp được múa hát, vui chơi cùng các bạn. Qua các hoạt động trên lớp
bằng tình cảm chân thành, sự gần gũi thân thiện của cô sẽ chiếm được trái tim
của trẻ trong từng bữa ăn, giấc ngủ. Trẻ sẽ được rèn luyện để có những thói
quen, nề nếp tốt, cứ như vậy trẻ sẽ yêu mến các cô, các bạn, thực sự ham
thích đến trường, đến lớp. Tình cảm thân mật giữa cô và các bạn ngày càng
gắn bó và gần gũi hơn, Từ đó đã mất dần tình trạng đến lớp ngồi một mình
khóc, thay vào đó đến lớp là những tiếng cười tiếng hát vui tươi của trẻ.
Hình ảnh: Ân cần, kiên trì gần gũi hướng dẫn trẻ thực hiện hoạt động
g. Tích cực tổ chức các hoạt động ngày hội, ngày lễ để trẻ được tham gia.
Như chúng ta đã biết trẻ mầm non rất hứng thú và bị thu hút nhanh với
các hoạt động mang tính tập thể, vui vẻ tôi nhận thấy khi trẻ được tham gia
ngày hội, ngày lễ trẻ rất vui và hào hứng và quên đi nỗi nhớ nhà, nhớ mẹ mà
thích thú tham gia hoạt động. Thông qua các hoạt động chung, hoạt động tập
thể, cũng như sự chuẩn bị về khánh tiết, âm thanh, trang phục cho trẻ, từ đó sẽ
thu hút được chú ý của trẻ. Ví dụ trong ngày hội đến trường trước đó tôi
thường trò chuyện với trẻ về ngày hội đến trường, tạo cho trẻ có không khí vui
tươi, phấn khởi đón chào ngày hội. Đến ngày hội tôi nhắc phụ huynh mặc đồng
phục cho trẻ và đưa trẻ đến dự, trẻ được xem sân khấu với nhiều cờ hoa, bóng
với nhiều màu sắc, cùng với đó là các tiết mục văn nghệ của các anh chị lớp
lớn, khi xem các điệu múa, điệu nhảy trẻ hứng thú vui vẻ, cuối buổi trẻ còn
được tặng quà để khích lệ trẻ đi học đều và yêu thích đến trường.
17
Hình ảnh: Trẻ tham gia ngày hội đến trường
Không chỉ có ngày hội đến trường mà trong năm học nhà trường còn tổ
chức các ngày hội ngày lễ khác như: Tổ chức hội khỏe măng non, bé vui hội
xuân, bé khéo tay. Qua các hoạt động này trẻ được trải nghiệm, rèn luyện kỹ
năng, phát triển kĩ năng phối hợp hoạt động cho trẻ. Trẻ được tham gia ngày
hội, ngày lễ đã giúp trẻ ham thích tới lớp và tích cực, mạnh dạn tham gia các
hoạt động của trường lớp Mầm non. Dù là các hoạt động ở lớp hay các hoạt
động toàn trường thì đó cũng là hoạt động trẻ rất hứng thú.
Hình ảnh: Trẻ tham gia hội khỏe măng non
18
Hình ảnh: Trẻ và các bậc phụ huynh tham gia bé vui hội xuân
h. Tuyên truyền tới các bậc phụ huynh để chuẩn bị sẵn sàng tâm lý
cho trẻ tới trường.
Hầu hết phụ huynh tỏ ra lo lắng, không tin tưởng vào nhà trường như:
Không biết cô giáo có thương yêu con mình không, có cho bé ăn uống đầy đủ
không, bé khóc cô có dỗ không. Có phụ huynh còn khóc khi để con lại
trường, có chị vừa nhìn con vừa lưu luyến lau nước mắt.
Các nhà tâm lý đã kết luận: Lần đầu tiên đi học, đa số sự sợ hãi của trẻ
đều bắt nguồn từ tâm lý bất ổn của cha mẹ mình. Thế nhưng chuyện lo lắng là
điều không thể tránh khỏi đối với các bậc làm cha làm mẹ.
Đương nhiên, khi gửi gắm đứa con mình dứt ruột sinh ra vào một môi
trường mới không bậc cha mẹ nào có thể hoàn toàn yên tâm. Mà sự không
yên tâm ấy khó có thể giấu giếm được. Trẻ em rất nhạy cảm, bé sẽ “đọc”
được ngay tâm trạng của bố mẹ mình. Thực tế đã chứng minh phụ huynh
đóng một vai trò thiết yếu và không thể thiếu trong quá trình thực hiện hợp
tác cần thiết trong mọi kế hoạch, hoạt động giáo dục mầm non giành cho trẻ.
Họ chính là người luôn chăm sóc và gẫn gũi con mình. Chính vì vậy ngay tại
buổi họp phụ huynh đầu năm học tôi đã thống nhất với các bậc phụ huynh và
lập nên mạng một nhóm facebook mang tên “ Lớp 2 tuổi A3” để trao đổi
thông tin của nhà trường, của lớp như lịch sinh hoạt, một số hình ảnh, video
hoạt động của trẻ tại trường, lớp với các phụ huynh và tại đó chúng tôi trả lời
các thắc mắc cũng như những chia sẻ của phụ huynh về đặc điểm riêng của
19
con em họ để có biện pháp giáo dục tốt nhất. Thông qua việc tìm hiểu này,
phụ huynh sẽ tập cho con mình nếp ăn uống, sinh hoạt theo thời gian biểu gần
giống như ở trường; sau đó ở nhà có thể tập dần cho con theo chế độ sinh
hoạt đó.
Ví dụ: 10h00 các bé nhà trẻ ăn trưa, 11h00 các bé đi ngủ thì ở nhà ta
cũng cho bé ăn vào giờ đó để khi đi học bé không phải thay đổi lịch sinh hoạt.
Tập cho bé một thói quen ăn, ngủ, vệ sinh (Khi ăn không làm rơi vãi cơm,
ngủ trên sạp, xốp chứ không nằm võng hay nôi, tập cho trẻ biết ngồi bô)
Những ngày đầu tiên cha mẹ nên trực tiếp đưa con đi học (không nên để
ông bà hay cô, dì, chú, bác, người giúp việc đưa đi) và thường xuyên gặp gỡ,
trao đổi với cô giáo, cho cô giáo biết những biểu hiện bất thường ở trẻ (ví dụ:
khi ngủ trẻ có bị giật mình không, trẻ có bị dị ứng với món ăn nào không, trẻ
có tiền sử bệnh lý gì không, có tè dầm không). Qua đó, phụ huynh và giáo
viên sẽ cùng nhau tìm ra biện pháp tốt nhất để giúp trẻ thích nghi với môi
trường mới. Các nhà tâm lý phát hiện rằng trẻ không an tâm vì thấy sự lo lắng
của bố mẹ. Vấn đề này thường thể hiện ở chỗ trẻ hay khóc nhè vào mỗi buổi
sáng và đòi ở nhà, không chịu đến trường. Theo tôi, phụ huynh nên làm “công
tác tư tưởng” với mình trước tiên để có sự tin tưởng vào nhà trường và giáo
viên, rằng con mình đi học sẽ mau chóng hòa nhập môi trường mới, vui vẻ,
hoạt bát và phát triển tốt cả về trí tuệ lẫn thể lực. Vì vậy, hãy đưa trẻ đến
trường với nụ cười và sự tin tưởng.
Đối với trẻ. Trẻ ở lứa tuổi này đều có sự miễn cưỡng khi phải xa người
thân để đến một môi trường mới lạ, môi trường không người thân thuộc trong
gia đình. Lần đầu tiên bé đi học không phải là chuyện đơn giản đi từ nhà đến
trường mà bé phải rời xa điểm tựa tinh thần vững chắc để làm quen với một
thế giới mới hoàn toàn xa lạ. Vậy “các bậc phụ huynh hãy chuẩn bị tâm lý
cho trẻ thật tốt trước khi đưa con đến trường”. Trước khi cho trẻ tới trường
phụ huynh cần nói chuyện nhiều lần với bé, “vẽ” ra một bức tranh thú vị về
ngôi trường mà bé sẽ đến học. Một số phụ huynh rất sai lầm khi thường
xuyên đem nhà trường và cô giáo ra dọa: “Con không chịu ăn, mai cho đi học,
bị bỏ đói cho biết”, “Con hư quá, kêu cô giáo đến đánh đòn”. Từ đó bé có ác
20
cảm với chuyện đi học. Trong quá trình nói chuyện hãy giải thích cho bé hiểu
khi con đi học thì cha mẹ, ông bà làm gì; rằng con chỉ ở trường ban ngày thôi,
buổi chiều bố mẹ lại đón về nhà. Ngoài ra, người chăm sóc bé (có thể là ông
bà, bố mẹ) Nên cho trẻ đến thăm và ở lại chơi trong khuôn viên trường để bé
làm quen với không khí của trường mầm non.
Khi chuẩn bị quần áo, vật dụng cho bé đi học, phụ huynh hãy thực hiện
trước mặt bé, thông báo cho bé biết: “Mẹ chuẩn bị cho con đi học đấy”.
Những lúc đưa bé đến trường, phụ huynh hãy trò chuyện vui vẻ, thân mật với
cô giáo trước mặt bé. Điều này tưởng đơn giản nhưng lại rất quan trọng: về
mặt tâm lý khi trẻ thấy ông bà hoặc bố mẹ mình (những người yêu thương,
gần gũi với bé) tỏ ra thân thiết với giáo viên thì trẻ sẽ có cảm giác cô giáo
cũng yêu thương, gần gũi với mình.
Khi phụ huynh có con đi học lần đầu, tùy theo đặc điểm lứa tuổi và cá
tính của trẻ, những ngày đầu tiên trẻ mới đến trường cha mẹ và gia đình hãy
sắp xếp để gửi bé tới trường và đón trẻ sớm hơn.
Đúng vậy việc trao đổi với phụ huynh về trẻ là rất quan trọng vì mỗi trẻ
có một đặc điểm tâm lí và những thói quen riêng nên khi đón trẻ mới đi học
giáo viên cần nắm được những đặc điểm cá biệt ở trẻ điều đó sẽ giúp giáo
viên nhanh chóng làm quen được trẻ và giảm tiếng khóc cho các cháu một
cách nhanh nhất để các cháu thấy được trường lớp và cô giáo rất gần gũi và
quen thuộc mà từ đó trẻ yêu thích tới trường.
4.4. Tính hiệu quả:
Việc giáo dục tình cảm kĩ năng xã hội và thẩm mĩ là một cơ sở tốt giúp
trẻ hình thành và phát triển nhân cách con người. Đặc biệt là rèn luyện thói
quen nề nếp giúp trẻ mạnh dạn, tự tin có cảm xúc tích cực với trường, lớp, cô
giáo và bè bạn từ đó hình thành cho trẻ kĩ năng giao tiếp, kĩ năng tham gia
các hoạt động. Thông qua các hoạt động học và chơi giúp trẻ làm quen với
môi trường và chế độ sinh hoạt tại trường, lớp Mầm non. Trẻ mầm non không
thể cảm nhận được cái hay, cái đẹp khi thiếu sự tác động của cô giáo và người
lớn xung quanh. Bởi các cháu chưa có nề nếp thói quen tốt mà phải nhờ vào
sự tổ chức, hướng dẫn của cô giáo và những người thân trong gia đình, cộng
21
đồng xã hội cùng chung tay giáo dục đến với các cháu trở thành nhân tố giúp
trẻ phát triển tư duy, trí tưởng tượng, ngôn ngữ thẩm mỹ hình thành nhân cách
và giáo dục đạo đức cho trẻ. Cô giáo tạo được niềm tin với phụ huynh để phụ
huynh yên tâm gửi con tại trường.
+ Về nội dung của sáng kiến:
Thông qua việc điều tra thực trạng về sự hứng thú ham thích tới trường,
lớp của trẻ nhà trẻ 24 - 36 tháng tuổi và việc tổ chức các hoạt động phát triển
tình cảm xã hội và thẩm mỹ cho trẻ tôi mạnh dạn nhận xét và rút kinh nghiệm
để khắc phục. Từ đó đề xuất “Một số biện pháp giúp trẻ nhà trẻ lớp 2 tuổi A3
tại trường Mầm non ............................. yêu thích đến trường”.
- Tạo môi trường trong và ngoài lớp học gần gũi và thân thiện với trẻ.
- Quan tâm tới đặc điểm tâm sinh lý cũng như đặc điểm riêng của trẻ khi
lần đầu tới lớp để có biện pháp tổ chức các hoạt động thích hợp với trẻ nhà trẻ.
- Tạo cho trẻ có thói quen nề nếp tốt bắt đầu từ những thói quen cũ của trẻ.
- Quan tâm tới trẻ bằng tình cảm yêu thương trìu mến của người mẹ.
- Tạo được niềm tin với trẻ và với phụ huynh.
- Tích cực tổ chức các hoạt động ngày hội, ngày lễ để trẻ được tham gia.
- Tuyên truyền tới các bậc phụ huynh để chuẩn bị sẵn sàng tâm lý cho trẻ
tới trường.
Sáng kiến “Một số biện pháp giúp trẻ nhà trẻ lớp 2 tuổi A3 tại trường
Mầm non ............................. yêu thích đến trường” là sáng kiến lần đầu tiên
tôi nghiên cứu thực hiện và áp dụng tại lớp 2 tuổi A3 trường mầm
non ..............................
Sáng kiến này chưa được quy định thành tiêu chuẩn, quy trình, quy phạm
bắt buộc phải thực hiện. Mà là bản thân tôi phụ trách nhóm lớp dựa trên đặc
điểm tâm sinh lý của trẻ lớp mình suy nghĩ tìm tòi và áp dụng các biện pháp
giáo dục để mang lại hiệu quả cao trong công tác giáo dục trẻ của mình.
+ Về khả năng áp dụng của sáng kiến:
Trong quá trình áp dụng sáng kiến một số biện pháp giúp trẻ lớp 2 tuổi
A3 tại trường Mầm non ............................. yêu thích tới trường mà bản thân
đã đưa ra và áp dụng vào thực tế của nhóm lớp, trong thời gian thực hiện các
22
biện pháp tôi nhận thấy khả năng của trẻ có những chuyển biến rõ rệt, lớp tôi
không còn những tiếng khóc nỉ non như ngày trẻ mới bước vào lớp thay vào
đó là những tiếng cười, trẻ hứng thú và yêu thích đến trường, lớp, yêu cô,
mến bạn và có nề nếp tốt. Các biện pháp tôi sử dụng đã mang lại những kết
quả cao. Với kết quả và hiệu quả của sáng kiến mang lại, tôi nhận thấy các
phương pháp này có thể tiếp tục áp dụng cho nhóm trẻ 24 - 36 tháng tuổi
trong những năm học tiếp theo và trong quá trình công tác của tôi, không chỉ
áp dụng riêng cho khối nhà trẻ 24 - 36 tháng tuổi mà còn có thể áp dụng cho
khối 3 tuổi ở trường Mầm non ............................. và các trường Mầm non lân
cận.
5. Những thông tin cần được bảo mật: Không có
6. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
Để áp dụng sáng kiến “Một số biện pháp giúp trẻ nhà trẻ lớp 2 tuổi A3
tại trường Mầm non ............................. yêu thích đến trường”. Cần có những
điều kiện như sau: Cơ sở vật chất, trang thiết bị, học liệu đảm bảo tối thiểu.
Bản thân cô giáo cần chăm sóc trẻ với tình thương như một người mẹ đối với
đứa con của mình, cô phải quên đi mình là người lớn mà hòa mình cùng trẻ
chơi với trẻ như một người bạn của trẻ, phải luôn tìm tòi sáng tạo, sưu tầm
tranh ảnh, thơ ca, truyện kể các trò chơi để tích hợp trong các nội dung giáo
dục cho trẻ để các hoạt động của trẻ luôn mới mẻ, thường xuyên đổi mới các
hoạt động và hình thức tổ chức để cho trẻ không nhàm chán và thu hút được
sự chú ý của trẻ. Phải thường xuyên thực hiện giờ nêu gương hàng tuần để
khích lệ trẻ tạo cho trẻ sự yêu thích tới trường, lớp mầm non.
7. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp
dụng sáng kiến theo ý kiến tác giả:
7.1. Theo ý kiến tác giả:
Sau khi nghiên cứu và áp dụng sáng kiến“Một số biện pháp giúp trẻ nhà
trẻ lớp 2 tuổi A3 tại trường Mầm non ............................. yêu thích đến
trường” Tôi nhận thấy nội dung nghiên cứu đã thu lại được một số kết quả
như sau:
Tôi đã tạo được môi trường học thân thiện, cô giáo như người mẹ người
23
bạn của trẻ, luôn luôn gần gũi yêu thương, tạo cho trẻ một không khí thoải
mái vui vẻ để trẻ có thể sớm hòa nhập và thích nghi với môi trường lớp học
mầm non. Tôi thấy trẻ đến lớp không còn bỡ ngỡ như ngày đầu, các cháu đã
có nề nếp và ngoan rất nhiều, không còn chạy chốn kêu khóc. Trẻ đã ham
thích đi học hơn, khi trẻ đã quen với môi trường lớp học tôi đã đưa trẻ vào nề
nếp, đến lớp trẻ biết chào hỏi lễ phép, biết chơi đoàn kết, biết chia sẻ đồ dùng
đồ chơi, biết đi vệ sinh và bỏ rác đúng nơi quy định. Mới ngày nào trẻ đến lớp
còn khóc nỉ non đòi về mà giờ trẻ ham thích đi học, yêu trường, yêu lớp. Thật
không có gì vui sướng hơn khi nhìn thấy những nụ cười hồn nhiên vui tươi
của các bé. Khi áp dụng các biện pháp giáo dục tình cảm kĩ năng xã hội và
thẩm mỹ giúp trẻ lớp 2 tuổi A3 tại trường Mầm non ............................. yêu
thích tới trường, tôi cảm thấy mình đã gặt hái được những thành công như
mong đợi, không chỉ trẻ yêu thích đến trường mà qua những buổi trao đổi trò
chuyện với phụ huynh tôi thấy rằng các bậc phụ huynh đã thực sự yên tâm khi
trao con yêu quý của mình cho các cô.
Bảng 2: Bảng kết quả đạt được
Tổng số
trẻ được
đánh giá
Đạt
Tỷ lệ
- Trẻ hứng thú đến trường
24
24
100%
0
0%
- Kỹ năng giao tiếp của trẻ
24
23
95,7%
01
4,2%
- Kĩ năng biểu lộ xúc cảm, tình cảm
24
23
95,8%
01
4,2%
Nội dung
Kết quả
Chưa
Tỷ lệ
đạt
Qua bảng kết quả tôi thấy khi áp dụng biện pháp giáo dục tình cảm kĩ
năng xã hội giúp trẻ lớp 2 tuổi A3 tại trường Mầm non ............................. yêu
thích tới trường. Tôi nhận thấy việc đón trẻ vào lớp các cháu ngoan hơn,
nhanh chóng quen với trường, lớp Mầm non và yêu thích tới trường.
Những điểm khác biệt được áp dụng:
Nhằm tìm ra biện pháp hữu hiệu nhất, phù hợp nhất để trẻ nhà trẻ 24 - 36
tháng tuổi nhanh thích nghi với trường Mầm non từ đó yêu thích tới trường.
Góp phần nhỏ bé vào công tác đón trẻ ra lớp đầu năm ở lứa tuổi nhà trẻ 24- 36
tháng tuổi.
24
Lần đầu tiên cô giáo thay đổi môi trường hoạt động trong và ngoài lớp,
hình thức tổ chức các hoạt động giáo dục và phương thức đánh giá trẻ theo
quan điểm lấy trẻ làm trung tâm để tìm ra các biện pháp giúp trẻ nhà trẻ 24 36 tháng tuổi yêu trường, yêu lớp, yêu cô giáo, yêu các bạn. Từ đó mới đảm
bảo tỉ lệ trẻ chuyên cần đạt 90% và nâng cao hiệu quả giáo dục.
7.2. Theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần
đầu, kể cả áp dụng thử:
Năm học 2018 – 2019 trường tôi được lựa chọn là điểm trường tổ chức
“Hội nghị sinh hoạt chuyên môn lần 1” để các trường bạn đến thăm quan học
tập và trao đổi về cách trang trí môi trường trong và ngoài lớp học cũng như
các hình thức tổ chức các hoạt động. Và trường cũng là địa điểm để các
trường Mầm non trong cụm chuyên môn số 2 tới tổ chức hoạt động thực hành
trong “hội thi giáo viên dạy giỏi cấp huyện”. Tôi cho rằng sáng kiến “Một số
biện pháp giúp trẻ nhà trẻ lớp 2 tuổi A3 tại trường Mầm
non ............................. yêu thích đến trường” có thể áp dụng mang lại hiệu
quả cao tại trường Mầm non ............................. và các trường mầm non lân
cận trong huyện.
Hình ảnh: Hội nghị sinh hoạt chuyên môn lần 1
8. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp
dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng
sáng kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử:
Trong năm học tôi được phân công chủ nhiệm lớp 2 tuổi A3, tôi thấy trẻ
25