NỘI DUNG THUYẾT TRÌNH
NHÓM 12- ĐỀ SỐ 1
STT
Họ và tên
MSSV
1
Nguyễn Thị Thanh Huyền
1211110311
2
Ngô Thị Thùy Dung
1211110135
3
Vũ Thị Tuyết Ngân
1211110472
4
Lê Phương Dung
1211110134
5
Hoàng Bảo Ngọc
1211120078
1. Giới thiệu tình huống
Công ty Hoà Bình ký một HĐ nhập khẩu ti vi của công ty D. của Hàn Quốc. Ngân
hành phát hành L/C là Agribank. NH thông báo phía Hàn Quốc là NH F. L/C quy
định:
• Cho phép thanh toán nhiều lần
• Bộ vận đơn đường biển sạch, đầy đủ (3/3)
• Giao hàng vào 3 chuyến vào mỗi tháng 6, 7, 8 năm 2014
Hàng được tiến hành giao lần 1, lần 2 và thanh toán bình thường. Sau khi lô hàng
thứ 3 giao xong vào tháng 8 công ty D. xuất trình chứng từ đòi tiền Agribank. NH
kiểm tra bộ chứng từ thanh toán và phát hiện có sai sót là trong vận đơn thứ 3 có
ghi chú “giao hàng lên tàu” nhưng không ghi ngày giao hàng và thông báo cho
công ty Hoà Bình.
Mặc dù hàng chưa về tới cảng nhưng do thị trường ti vi có xu hướng giảm giá,
công ty Hoà Bình không muốn nhận lô hàng này nên thông báo cho Agribank từ
chối thanh toán bộ chứng từ. Sau khi nhận được điện từ chối, NH F ngay lập tức
phản bác, cho rằng 2 chuyến hàng trước cũng sai sót như vậy nhưng Agribank
không có ý kiến gì và vẫn tiến hành thanh toán bình thường. NH F yêu cầu
Agribank thanh toán ngay bộ chứng từ cùng tiền lãi trả chậm.
Hỏi Agribank Thăng Long từ chối thanh toán bộ chứng từ có đúng không? Quyết
định trên dựa trên căn cứ nào? Hãy phân tích điều khoản của UCP 600 đã áp dụng
để giải đáp tình huống.
2. Giải quyết tính huống
Vấn đề phát sinh mâu thuẫn đầu tiên là : Sau hai chuyến hàng được giao bình
thường vào các tháng 6 và 7 và đã được thanh toán, Công ty D giao tiếp chuyến
thứ 3 rồi lập và xuất trình bộ chứng từ đòi tiền Agribank. Agribank kiểm tra bộ
chứng từ thanh toán và phát hiện thấy có sai sót như sau: Vận đơn ghi chú “giao
hàng lên tầu” không đề ngày giao hàng Ngân hàng đã thông báo lại cho người nhập
khẩu, mặc dù hàng vẫn chưa về tới cảng nhưng do thị trường tivi có biến động
giảm giá mạnh, Công ty Hòa Bình không muốn nhận hàng nên đã điện thông báo
cho ngân hàng Agribank từ chối thanh toán bộ chứng từ.
Vậy việc từ chối thanh toán của Ngân hàng Agribank có hợp lệ không?
Theo điều 20 a ii. UCP 600, quy định: “Một vận tải đơn, dù được gọi tên như
thế nào, phải: …
ii. Chỉ rõ hàng hoá đã được xếp hàng lên một con tàu đích danh tại cảng giao
hàng quy định trong tín dụng, bằng
cụm từ in sẵn hoặc
Một ghi chú hàng đã được xếp lên tàu có ghi ngày xếp hàng lên tàu.
Ngày phát hành vận tải đơn sẽ được coi như là ngày giao hàng, trừ khi trên vận
tải đơn có ghi chú hàng đã xếp lên tàu có ghi ngày giao hàng, trong trường hợp
này, ngày đã ghi trong ghi chú hàng đã xếp lên tàu sẽ được coi như là ngày giao
hàng…”
Trong trường hợp này, do vô tình hay cố ý mà người bán đã quên ghi ngày giao
hàng và rõ ràng đã vi phạm điều 20 a ii UCP 600. Như vậy, có thể nói người xuất
khẩu là công ty D của Hàn Quốc đã xuất trình một bộ chứng từ không hợp lệ với
quy định của L/C do đó công ty D sẽ không được thanh toán ( Điều 16a UCP 600:
“ Khi một ngân hàng hành động theo sự chỉ định, một ngân hàng xác nhận, nếu có,
hoặc ngân hàng phát hành xác định rằng việc xuất trình là không phù hợp, thì
ngân hàng đó có thể từ chối thanh toán hoặc thương lượng thanh toán”
Như vậy việc vận dụng điều 16a và 20a ii UCP600 quy định thì việc từ chối thanh
toán của Agribank là từ chối đúng. Tranh chấp phát sinh do lỗi từ phía người bán
trong khâu lập chứng từ không tuân thủ tinh thần UCP 600.
Vấn đề phát sinh thứ 2 là: Ngân hàng F (ngân hàng thông báo phía Hàn Quốc)
sau khi nhận được lệnh từ chối thanh toán, lập tức phản bác, cho rằng, hai chuyến
trước (giao trong tháng 6 và 7) cũng có sai sót giống như sai sót trong chứng từ của
chuyến giao hàng thứ ba nhưng Agribank không có ý kiến gì mà vẫn tiến hành
thanh toán bình thường. Ngân hàng F yêu cầu thanh toán ngay cùng với tiền lãi trả
chậm.
Vậy việc phản bác của Ngân hàng F có hợp lệ không? Liệu việc chấp nhận bộ
chứng từ đã có sự khác biệt có nghĩa là người xin mở thư tín dụng và/hoặc ngân
hàng sẽ phải chấp nhận sự khác biệt tương tự trong các chứng từ tiếp theo
- Theo nguyên tắc hành động nhất quán, thì việc từ chối của Agribank là
không đúng. Nếu ngân hàng đã chấp nhận sự sai biệt trong hai lần giao hàng trước
thì sẽ phải chấp nhận sự sai biệt trong lần giao hàng tiếp theo
- Theo tinh thần của UCP 600 thì ngân hàng sẽ không phải chấp nhận sự khác
biệt tương tự trong những chứng từ tiếp theo
Điều 14a UCP 600 quy định về việc kiểm tra chứng từ “… chỉ dựa trên cơ sở của
chứng từ để quyết định chứng từ thể hiện trên bề mặt của chúng có tạo thành một
xuất trình phù hợp hay không…” nghĩa là việc giao dịch lần này không bị ảnh
hưởng bởi các giao dịch đã xảy ra, sau hoặc xoay quanh giao dịch thư tín
dụng đang thực hiện ( do mỗi lần giao hàng và thanh toán sẽ có bộ chứng từ riêng
biệt), Ngân hàng phát hàng L/C cũng không bị ràng buộc bởi nguyên tắc nhất quán
của Tòa án
-
Một vấn đề phát sinh mâu thuẫn ở đây là giao hàng nhiều lần thì heo điều
32 UCP 600 về giao hàng và trả tiền nhiều lần có quy định :
“ Nếu việc trả tiền và giao hàng nhiều lần trong từng thời kỳ nhất định được quy
định trong tín dụng và bất cứ lần nào không trả tiền hoặc không giao hàng trong
thời kỳ dành cho lần đó thì tín dụng không còn giá trị với lần đó và bất cứ lần nào
tiếp theo” nghĩa là giao hàng và trả tiền nhiều lần thì việc không thanh toán trong
giao dịch lần này thì tín dụng sẽ không có giá trị với chính giao dịch lần đó và các
giao dịch xảy ra tiếp theo.
Tuy nhiên vì đây là chuyến hàng cuối cùng trong đơn hàng nên mâu thuẫn giữa 2
điều khoản này không phát sinh.
- Trong giao dịch L/C cho phép giao hàng hoặc thanh toán từng phần (partial
drawings or shipments), việc chấp nhận chứng từ có sai biệt được xuất trình thanh
toán từng phần (lần trước) không có nghĩa rằng những lần xuất trình thanh toán
tiếp theo sẽ được chấp nhận nếu chứng từ xuất trình có chứa những sai biệt như
trong lần xuất trình trước đó. (ICC Publication 613 Case 332).
- Thực tế là một ngân hàng đã từng chấp nhận bộ chứng từ có sự khác biệt, có
hoặc không có sự đồng ý của người xin mở thư tín dụng. Ðiều này không thể ràng
buộc ngân hàng đó chấp nhận lỗi khác biệt tương tự trong các chứng từ tiếp theo,
trừ phi luật địa phương quy định khác.
Một số điểm cần lưu ý:
- Người xin mở thư tín dụng từ chối thanh toán toàn bộ chứng từ thường
không phải do họ không chấp nhận một số sai sót trong nội dung chứng từ mà phần
lớn liên quan đến hàng hóa và thị trường nhiều hơn. Cụ thể ở đây là chuyến hàng
tháng 8 giá ti vi trên thị trường đã giảm mạnh, nên người mua đã tìm cách để có
thể từ chối thanh toán. Thậm chí, sau khi đã từ chối thanh toán, giá cả thị trường lại
tăng lên theo chiều hướng có lợi cho người mua, hàng hóa về đến cảng đủ số
lượng, đúng chất lượng thì người mở L/C sẽ lại đồng ý nhận hàng và chấp nhận
thanh toán
- Ngoài ra khi giải quyết tranh chấp, một số tòa án có thể ngả về quyền lợi
người hưởng lợi. Trong trường hợp nói trên, tòa án vin vào cớ là ngân hàng đã
hành động không nhất quán. Tuy nhiên sự phân tích của tòa án đã chẳng dựa trên
bất cứ một cơ sở pháp lý nào. Tòa án đã quên mất một điều rằng: Một khi UCP 600
đã được tuyên bố tham chiếu trong nội dung L/C thì các điều khoản của nó sẽ được
các bên tuân thủ và đó là cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp.
3. Đề xuất cách giải quyết và bài học kinh nghiệm
3.1 Đề xuất cách giải quyết
Do việc từ chối thanh toán của ngân hàng phát hành (Agribank) là hoàn
toàn hợp lý, xuất phát từ lỗi của nhà xuất khẩu (công ty D) nên nhà xuất khẩu
không nên tiếp tục kháng nghị với ngân hàng.
Thay vào đó, nhà xuất khẩu nên tiến hành thương lượng với nhà nhập khẩu
(công ty Hòa Bình) vì các lí do sau:
- Nhà xuất khẩu và ngân hàng ràng buộc trách nhiệm thông qua L/C nhưng
nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu phải thực hiện nghĩa vụ của mình thông qua Hợp
đồng nhập khẩu xuất khẩu. Ở đây nhà xuất khẩu đã có lỗi trong xuất trình chứng từ
thanh toán L/C nhưng đã thực hiện nghĩa vụ giao hàng theo Hợp đồng nhập khẩu
xuất khẩu.
- Việc ngân hàng không thanh toán hoàn toàn là do yêu cầu hay bắt bẻ lỗi từ
phía nhà nhập khẩu nên khi thương lượng được với nhà nhập khẩu, ngân hành sẽ
thanh toán bình thường.
- Vì hàng đã trên đường đi nên việc thương lượng là cần thiết, nếu không nhà
xuất khẩu sẽ bị thiệt hại lớn (vì đã giao hàng mà không được thanh toán, kể cả khi
nhà nhập khẩu phải bồi thường thiệt hại vì không thực hiện hợp đồng)
Nhà xuất khẩu có thể thương lượng đề nghị giảm giá cho nhà nhập khẩu,
đây là phương án thương lượng thường gặp nhất. Bằng cách này, nhà nhập khẩu sẽ
nhận hàng vì nhà nhập khẩu vẫn có lợi, dù thị trường tivi giảm giá, còn nhà xuất
khẩu, do nhà nhập khẩu nhận hàng, sẽ được nhanh chóng thanh toán tiền hàng,
tránh tổn thất, tiết kiệm chi phí kháng nghị/kiện tụng (nếu cần) và tổn thất do đọng
vốn.
3.2 Bài học kinh nghiệm:
* Để tránh mẫu thuẫn phát sinh như trong tình huống trên, các bên nên sử dụng LC
tuần hoàn bởi lẽ, với loại LC đặc biệt này, khi tiến hành giao hàng và thanh toán
nhiều lần thì mỗi lần là một bộ chứng từ riêng và các lần này không ràng buộc
nhau.
* Đối với nhà xuất khẩu (nhà xuất khẩu).
- Lỗi không ghi ngày giao hàng trên vận đơn được xem là lỗi cơ bản trong
việc xuất trình bộ chứng từ xảy ra do sự bất cẩn của nhà xuất khẩu. Để tránh những
lỗi tương tự nhà xuất khẩu cần:
Nắm rõ các yêu cầu của L/C và đảm bảo đáp ứng tất cả các yêu cầu đó.
Trong phương thức thanh toán TDCT, theo điều 15 UCP 600, ngân hàng (
NHPH, NH xác nhận, NH chỉ định) xác định việc xuất trình chứng từ là phù hợp,
thì nó phải thanh toán. Và theo điều 14 UCP 600, việc kiểm tra của ngân hàng chỉ
dựa trên cơ sở bản thân chứng từ.
Nắm rõ kiến thức cơ bản về phương thức thanh toán TDCT như tập quán
quốc tế về thanh toán bằng L/C: ICC UCP 600, 2007; ICC ISBP 745, 2013; URR
725, 2008,…Trong tình huống trên, việc ghi rõ ngày giao hàng có thể không được
yêu cầu trong L/C nhưng điều này là bắt buộc theo điều 20 UCP 600.Vì vậy , việc
nắm rõ các yêu cầu của L/C cũng như các kiến thức cơ bane liên quan và đảm bảo
đáp ứng tất cả các yêu cầu đó sẽ giúp nhà xuất khẩu chắc chắn được ngân hàng
thanh toán.
Trước khi tham gia giao dịch chứng từ, các bên mua và bán phải nghiên cứu
kỹ độ tin cậy của đối tác và tính chất của từng thương vụ. Trong tình huống trên, rõ
ràng công ty Hòa Bình không là một đối tác hợp tác tin cậy. Và tình thế ở chuyến
hàng tháng 8 đã khác so với 2 chuyến hàng trước: giá ti vi ở thị trường VN giảm,
công ty Hòa Bình sẽ không muốn nhận hàng, và thực tế là đã từ chối nhận hàng.
Nhà xuất khẩu, rõ ràng, nên nắm rõ điều này, dự đoán phản ứng hay hành động của
đối tác đề có biện pháp phòng ngừa/khắc phục tương ứng, tránh để bị động.
* Đối với nhà nhập khẩu và ngân hàng
- Hành động của nhà nhập khẩu và ngân hàng ở tình huống này, dù là hợp lệ,
nhưng là không nên thực hiện.
Điều này làm giảm uy tín của nhà nhập khẩu và ngân hàng, đặc biệt là nhà
nhập khẩu do hành động không nhất quán của 2 bên. Hành động của nhà nhập
khẩu sẽ phá hủy khả năng hợp tác lâu dài của 2 công ty trong tương lai, gây tổn
thất 1 bạn hàng thương mại trong kinh doanh.
Điều này có khả năng gây ra tổn thất cho cả 2 bên. 1 ví dụ đơn giản, trong
tình huống trên bắt lỗi của ngân hàng là hợp lệ, nhưng nếu bắt lỗi đó là không hợp
lý? Hoặc do hành động của ngân hàng/nhà nhập khẩu mà trở nên bất hợp lý? Như
vậy ngân hàng sẽ vẫn phải thanh toán đầy đủ tiền hàng cho nhà xuất khẩu, cùng
với 1 khoản lãi trả chậm-hay chính là tổn thất của ngân hàng. Hoặc xa hơn nữa,
như ví dụ tình huống của Centrimex, bắt lỗi không ghi ngày giao hàng trên vận
đơn, dù không là tất cả nguyên nhân, nhưng cũng là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến
những tổn thất nặng nề cho cả ngân hàng và nhà nhập khẩu ở sau đó.
Bởi vậy, việc bắt lỗi của ngân hàng cần phải được thực hiện chính xác, hợp lý và
đúng quy trình thực hiện.