Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Vai trò của hội liên hiệp phụ nữ việt nam trong giám sát và phản biện xã hội tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.19 KB, 26 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận văn
Giám sát và phản biện xã hội là hoạt động quan trọng nhằm phát
huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, đại diện,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của nhân dân, góp phần
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, hiệu quả hoạt động của
các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị. Đồng thời kịp thời phát
hiện và kiến nghị xử lý sai phạm, khuyết điểm; kiến nghị sửa đổi, bổ
sung chính sách, pháp luật, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng
cường đồng thuận xã hội.

Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (Hội) là tổ chức chính trị - xã hội
trong hệ thống chính trị, có tư cách pháp nhân, đại diện cho quyền
và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp phụ nữ Việt Nam;
phấn đấu vì sự phát triển của phụ nữ và bình đẳng giới. Hội cũng là
thành viên của Liên đoàn Phụ nữ Dân chủ Quốc tế và Liên đoàn các
tổ chức phụ nữ ASEAN. Là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, Hội có vai trò tham mưu, đề xuất, tham gia xây dựng, phản
biện xã hội và giám sát việc thực hiện chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có liên quan đến quyền,
lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ, gia đình, trẻ em và bình
đẳng giới.
Trong những năm quá hoạt động giám sát của Hội đã góp phần xây
dựng, thực hiện đúng các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước, các chương trình kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc
phòng, an ninh và đối ngoại; kịp thời phát hiện những sai sót, khuyết điểm,
yếu kém và kiến nghị sửa đổi, bổ sung các chính sách cho phù hợp; phát
hiện, phổ biến những nhân tố mới, những mặt tích cực; phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước, các cấp chính
quyền nói chung, các cấp Hội nói riêng trong sạch, vững mạnh. Hoạt động
phản biện xã hội của Hội góp phần phát hiện những nội dung còn thiếu,


chưa sát, chưa đúng, chưa phù hợp trong các văn bản dự thảo của các cơ
quan Đảng, Nhà

1


nước, chính quyền các cấp; kiến nghị những nội dung thiết thực,
góp phần bảo đảm tính đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đời sống xã
hội và tính hiệu quả trong việc hoạch định chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; bảo đảm quyền và lợi
ích hợp pháp của nhân dân, của hội viên; phát huy dân chủ, tăng
cường đồng thuận xã hội.
Trong giai đoạn hiện nay, việc nâng cao nhận thức, thực hiện đúng đắn,
đầy đủ vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong hoạt động giám sát
và phản biện xã hội vừa là yêu cầu cấp thiết, vừa là nhiệm vụ cấp bách
đang được đặt ra đối với Hội nói chung, các cấp Hội nói riêng. Đó cũng là lý
do học viên lựa chọn chủ đề “Vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
trong giám sát và phản biện xã hội” làm đề tài luận văn thạc sĩ, chuyên
ngành Quản lý công.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Giám sát, phản biện xã hội là một trong những vấn đề quan trọng
trong đời sống chính trị ở nước ta hiện nay, bởi thông qua hoạt động
giám sát, phản biện xã hội sẽ thấy được sự tham gia của người dân,
của các đoàn thể nhân dân trong việc giám sát, kiểm tra các kế hoạch
thực hiện phát triển kinh tế - xã hội ở các cấp Hội, địa phương, tính dân
chủ, minh bạch và công khai trong đời sống xã hội. Đó cũng là lý do vấn
đề giám sát, phản biện xã hội thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của
nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu ở các cấp độ, các cách tiếp cận
khác nhau.


Một số công trình nghiên cứu tiêu biểu như:
- Trần Đăng Tuấn, Phản biện xã hội: một số vấn đề chung, Tạp chí
Cộng sản số 17 (tháng 9/2007); Phương thức thực hiện phản biện xã hội,
Tạp chí Cộng sản số 23 (tháng 12/2007). Trong hai bài viết này, tác giả đã
luận bàn dưới nhiều góc độ khác nhau về những vấn đề chung của phản
biện xã hội, phân tích khái niệm phản biện, phản biện xa hội, chủ thể, nội
dung, phương thức thực hiện phản biện xã hội; khẳng định vai trò quan
trọng của phản biện xã hội trong xây dựng chế độ dân chủ hiện đại và dân
chủ pháp quyền trong mọi chế

2


độ xã hội, đặc biệt là trong trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân; đề xuất các giải pháp cụ
thể nhằm nâng cao vai trò của phản biện xã hội.

- Hồ Bá Thâm và Nguyễn Thị Tường Văn, Phản biện xã hội và phát huy
dân chủ pháp quyền, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010. Các tác giả đã
khảo sát thực trạng phản biện xã hội trên các vấn đề tham nhũng, đất đai, ô
nhiễm môi trường, giáo dục, y tế, giao thông... của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam thành phố Hồ Chí Minh như một mô hình phản biện xã hội ở Việt Nam;
từ đó, chỉ ra những khó khăn, trở ngại khi thực hiện phản biện xã hội ở
nước ta hiện nay.

- Ngọ Văn Nhân, Dư luận xã hội với tư cách là phương thức
thực hiện phản biện xã hội ở nước ta hiện nay, Tạp chí Khoa học Xã
hội, số 5(105) - 2007. Theo tác giả bài viết, việc tìm kiếm những
phương thức cụ thể, hữu hiệu để thực hiện phản biện xã hội ở nước

ta hiện nay đang là vấn đề có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và
thực tiễn. Do những đặc điểm, tính chất của mình, dư luận xã hội
được coi là một trong những kênh chủ yếu, là phương thức để thực
hiện phản biện xã hội. Nội dung của phản biện xã hội thông qua dư
luận xã hội là xác định tính đúng đắn, hợp lý; tính hợp hiến, hợp
pháp; tính tất yếu khách quan và tính khả thi của các mục tiêu,
phương hướng, nhiệm vụ đặt ra trong các đường lối, chính sách
kinh tế - xã hội, trong các dự án, dự thảo luật của Đảng và Nhà
nước. Để làm được điều đó thì nhất thiết phải tiến hành điều tra,
thăm dò dư luận xã hội.

- Hoàng Thị Ngân, Một số vấn đề về giám sát xã hội và phản biện
xã hội, bài tham luận tại Hội thảo khoa học “Vấn đề phản biện và giám
sát xã hội ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay - thực trạng và giải pháp”
do Viện Nghiên cứu khoa học xã hội thành phố Hồ Chí Minh tổ chức
năm 2007. Bài viết trình bày khái lược về các vấn đề như khái niệm, nội
dung, mục đíc, hậu quả, đặc trưng, vai trò, ý nghĩa của giám sát và phản
biện xã hội; chỉ ra những thuận lợi và khó khăn trong thực hiện giám sát
và phản biện xã hội.

3


- Trần Hậu, Các hình thức và giải pháp thực hiện giám sát xã hội và
phản biện xã hội đối với tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, Đề
tài nghiên cứu khoa học thuộc Chương trình khoa học và công nghệ
KX10.06-10, Hà Nội, 2009. Công trình tập trung luận giải khái niệm giám
sát xã hội và phản biện xã hội, phân tích bản chất và nững đặc trưng cơ
bản của hoạt động giám sát và phản biện xã hội; vai trò, tác dụng của
giám sát, phản biện xã hội đối với quyền lực chính trị, phát huy quyền

làm chủ của nhân dân trong điều kiện cụ thể của nước ta; xác định chủ
thể, khách thể, các hình thức, giải pháp thực hiện giám sát xã hội và
phản biện xã hội; vận dụng chúng để xử lý các tình huống thực tiễn
trong hoạt động của hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu cơ sở lý luận,
đánh giá thực trạng thực hiện vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam trong giám sát, phản biện xã hội, xác định rõ nguyên
nhân để từ đó đề xuất một số giải pháp bảo đảm phát huy vai trò
của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát, phản biện xã
hội ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề hiện thực hóa mục đích nghiên cứu, đề tài triển khai
thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
Thứ nhất, nghiên cứu cơ sở lý luận về vai trò của Hội Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát, phản biện xã hội.
Thứ hai, đánh giá thực trạng, chỉ ra những kết quả đạt
được, hạn chế, bất cập trong việc thực hiện vai trò của Hội
Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát, phản biện xã hội;
làm rõ nguyên nhân dẫn đến thực trạng.
Thứ ba, đề xuất, luận giải tính khả thi của một số giải pháp
phát huy vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám
sát, phản biện xã hội.
4


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề vai trò của Hội Liên

hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát, phản biện
xã hội. 4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài được giới hạn theo không
gian và thời gian:
- Theo không gian: Đề tài giới hạn việc nghiên cứu vai trò giám sát,
phản biện xã hội của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam nói chung, của một
số cấp Hội tại các địa phương ở nước ta nói riêng

- Theo thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu tình hình
triển khai các hoạt động giám sát, phản biện xã hội, góp ý xây
dựng Đảng, xây dựng chính quyền từ năm 2014 đến năm 2018
trong hệ thống Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
- Theo nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu làm rõ vai trò của Hội
Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát và phản biện xã hội

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của
luận văn 5.1. Phương pháp luận
Đề tài được triển khai nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp
luận của Triết học Mác - Lênin về hệ thống chính trị, về các tổ chức
chính trị - xã hội; tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của
Đảng Cộng sản Việt Nam về vị trí, vai trò của các tổ chức chính trị xã hội, của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, về hoạt động giám sát và
phản biện xã hội.

5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu, đề tài sử dụng
các phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp quy nạp và
diễn dịch; phương pháp lịch sử và lôgíc; phương pháp phân tích
nguồn thông tin, tài liệu có sẵn; phương pháp thống kê; phương

pháp so sánh, khái quát hóa, hệ thống hóa...

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Về mặt lý luận
Đề tài góp phần khái quát hóa, phân tích, làm rõ cơ sở lý luận về vai trò
của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong hoạt động giám sát

5


và phản biện xã hội; đánh giá được thực trạng thực hiện vai trò của
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong hoạt động giám sát và phản
biện xã hội, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra một số bài học kinh nghiêm;
đồng thời đề xuất, luận giải được một số giải pháp khoa học, khả thi
nhằm phát huy vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong hoạt
động giám sát và phản biện xã hội.

6.2. Về mặt thực tiễn
Với những kết quả nghiên cứu đạt được, đề tài có ý nghĩa thực tiễn
quan trọng, có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo đối với học
viên, sinh viên các cơ sở giáo dục đại học trong quá trình học tập,
nghiên cứu những vấn đề có liên quan đến hoạt động giám sát, phản
biện xã hội của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.

Kết quả nghiên cứu của đề tài cũng có thể là nguồn tài liệu
tham khảo hữu ích đối với Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam nói
chung, các cấp Hội, hội viên nói riêng trong việc triển khai các
hoạt động giám sát, phản biện xã hội phù hợp với chức năng,
nhiệm vụ của từng cấp Hội.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo, luận văn có kết cấu gồm 03 chương, 11 tiết.
Chương 1: Cơ sở lý luận về vai trò của Hội Liên hiệp Phụ
nữ Việt Nam trong giám sát và phản biện xã hội;
Chương 2: Thực trạng thực hiện vai trò của Hội Liên hiệp
Phụ nữ Việt Nam trong giám sát và phản biện xã hội;
Chương 3: Giải pháp bảo đảm phát huy vai trò của Hội Liên hiệp
Phụ nữ Việt Nam trong giám sát và phản biện xã hội;

6


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ
VIỆT NAM TRONG GIÁM SÁT VÀ PHẢN BIỆN XÃ HỘI
1.1. Quản lý nhà nước về hoạt động giám sát, phản biện xã hội

1.1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Khái niệm hoạt động giám sát
Theo cuốn Tìm hiểu một số thuật ngữ trong văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XII của Đảng: “Giám sát là sự theo dõi, kiểm tra, phát
hiện, đánh giá của cá nhân, tổ chức, cộng đồng người này đối với cá nhân,
tổ chức, cộng đồng người khác trong các lĩnh vực hoạt động kinh tế- xã hội;
trong việc thực hiện chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng, Hiến pháp,
pháp luật, chính sách của Nhà nước, các quyền, nghĩa vụ công dân, của
các tổ chức chính trị- xã hội và những kiến nghị phát huy ưu điểm, thành
tựu, xử lý đối với các nhân, tổ chức có những hành vi sai trái”.

Theo Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội (Ban hành kèm

theo Quyết định số 217-QĐ/TW, ngày 12/12/2013 của Bộ Chính
trị): “Giám sát là việc theo dõi, phát hiện, xem xét; đánh giá kiến
nghị nhằm tác động đối với cơ quan, tổ chức và cán bộ, đảng
viên, đại biểu dân cử, công chức, viên chức nhà nước về việc
thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước”.
Hoạt động giám sát là hoạt động theo dõi, xem xét, đánh giá có tính
bao quát của chủ thể từ bên ngoài hệ thống đối với đối tượng không
nằm trong cùng một hệ thống phụ thuộc nhau nhằm bảo đảm việc thực
hiện đúng những chuẩn mực, quy định.

1.1.1.2. Khái niệm hoạt động phản biện xã hội
Trong đời sống chính trị của một đất nước, các thiết chế cầm quyền
luôn đứng trước nhu cầu là phải lựa chọn, đắn đo cân nhắc trong số rất
nhiều các dữ kiện chủ quan và khách quan cũng như các

7


lợi ích của các giai cấp, các nhóm xã hội, dân tộc, quốc tế.v.v. khác
nhau để đưa ra những quyết sách đúng đắn, kịp thời, hợp lý nhất nhằm
giải quyết những vấn đề mà thực tiễn cuộc sống đặt ra.
Phản biện xã hội khác với phản biện khoa học. Phản biện khoa học
là hình thức được áp dụng khi tiến hành nghiên cứu, xét duyệt, nghiệm
thu các công trình nghiên cứu khoa học để đưa ra các quyết định về tính
đúng sai; chủ thể tiến hành các cuộc phản biện khoa học là hội đồng
nghiệm thu, đánh giá các công trình nghiên cứu khoa học, đề án, dự án
có những thẩm quyền xác định (nghiệm thu - không nghiệm thu, tán
thành - không tán thành) đối với công trình nghiên cứu, phát minh, sáng
chế được đưa ra xét duyệt, còn phản biện xã hội là hình thức được áp

dụng để tìm được sự đồng thuận xã hội về lợi ích trong thẩm định, xét
duyệt các chủ trương, đường lối, trong ban hành các đạo luật, trong
hoạch định các đề án, dự án, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Từ những điểm phân tích, luận giải nêu trên, có thể định nghĩa:
Phản biện xã hội là hoạt động phân tích, luận chứng một cách khách
quan, khoa học về tính đúng đắn, hợp lý của các đường lối, chính sách,
quyết định liên quan tới lợi ích chung của các cộng đồng xã hội do các
chủ thể lãnh đạo, quản lý xã hội đưa ra dựa trên các ý kiến, kiến nghị
của các tầng lớp xã hội.

1.1.1.3. Khái niệm quản lý nhà nước về hoạt động giám
sát, phản biện xã hội
Quản lý nhà nước là một dạng đặc biệt của quản lý xã hội, mang tính
quyền lực nhà nước. Quản lý nhà nước về hoạt động giám sát và phản biện
xã hội được hiểu là các cơ quan quản lý nhà nước dùng quyền lực nhà
nước (quyền hành pháp) quản lý tất cả các hoạt động giám sát và phản biện
xã hội trên tất cả các lĩnh vực của đời sống chính trị, văn hóa, kinh tế... theo
quy định của pháp luật. Giám sát công tác quản lý nhà nước đối với các
hoạt động tôn giáo; hoạt động giám sát với cơ quan hành chính nhà nước ở
một tổ chức hay cơ quan nào đó; phản biện với các dự án luật, các dự án
trọng điểm quốc

8


gia, Các hội nghị phản biện xã hội, các cuộc giám sát đã góp phần phát
huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc tham gia xây dựng Đảng
trong sạch vững mạnh, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.


1.1.2. Nội dung quản lý nhà nước về hoạt động giám sát,
phản biện xã hội
Ở nước ta hiện nay, Hiến pháp, pháp luật đã giao cho Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam chịu trách nhiệm thực hiện giám sát xã hội và phản biện xã
hội. Theo Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, hoạt động giám sát của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là giám sát mang tính nhân dân, hỗ trợ
cho công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra của Nhà nước; góp phần
xây dựng và bảo vệ Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có
hiệu lực, hiệu quả; bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân
dân.
Phản biện xã hội bao gồm phản biện các dự thảo văn bản về
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật, các quy
hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã
hội của Nhà nước khi được yêu cầu phản biện, phù hợp với chức
năng, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể
chính trị - xã hội. Để giám sát và phản biện xã hội thật sự phát huy
hiệu quả trong cuộc sống, các cơ quan chức năng cần nghiên cứu
và xây dựng các quy chế, quy định về tiếp thu ý kiến, kiến nghị từ
hoạt động giám sát và phản biện xã hội

1.1.3. Phương thức quản lý nhà nước về giám sát, phản
biện xã hội
Phương thức quản lý nhà nước là những phương thức, cách thức và
chủ thể áp dụng để tác động lên khách thể quản lý nhằm đạt được những
mục đích đề ra. Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ là mối
quan hệ vốn ra đời trước đổi mới. Trong đó, hoạt động giám sát chủ yếu
dựa trên 03 hình thức: (i) Tham gia giám sát với cơ quan quyền lực nhà
nước; (ii) Vận động nhân dân giám sát và

(iii) Tự mình giám sát.

9


Phản biện xã hội nói lên sự phản hồi của xã hội đối với các hoạt
động lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước. Phản biện xã hội về
thực chất là người dân, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề
nghiệp của dân góp sức với Đảng và Nhà nước trong việc xây dựng các
chủ trương, chính sách, chuẩn bị các quyết định của về chương trình,
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Phản biện xã hội là một hình thức,
một biện pháp cụ thể thể hiện quyền của dân và ý thức trách nhiệm của
dân đối với công việc chung của đất nước, thể hiện lòng tin của cơ quan
lãnh đạo đối với mối quan hệ chặt chẽ giữa Đảng và Nhà nước với dân,
tin ở trình độ chính trị của dân, mức độ hiểu biết của dân về lãnh đạo và
quản lý.

1.2. Khái quát về Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
1.2.1. Vị trí, vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Là tổ chức thành viên của Mặt trận tổ quốc Việt Nam, sinh thời Chủ
tịch Hồ Chí minh luôn quan tâm và đánh giá cao vị trí vai trò của phụ nữ
trong quá trình phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam. Bác từng nhấn
mạnh: “Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, do phụ nữ ta trẻ cũng
như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ”; “'Nhân dân ta anh
hùng là nhờ có các bà mẹ Việt Nam anh hùng”; “Dân tộc ta và Đảng ta
đời đời biết ơn các bà mẹ Việt Nam đã sinh ra và cống hiến những
người ưu tú, đã và đang chiến đấu anh dũng tuyệt vời bảo vệ non sông
gấm vóc do tổ tiên ta để lại”.
Vai trò đại diện của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam được xác định cụ
thể hơn thể hiện thông qua việc quy định Cơ quan Trung ương Hội Liên hiệp
Phụ nữ Việt Nam “có quyền trình dự án luật trước Quốc hội, trình dự án

pháp lệnh trước Ủy ban thường vụ Quốc hội”; “đại diện cơ quan Trung ương
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam có thể được mời dự các phiên họp công khai
của Quốc hội”; “người đứng đầu cơ quan trung ương của tổ chức chính trị xã hội được mời tham dự phiên họp của Chính phủ khi bàn các vấn đề có
liên quan”; cơ quan Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam “có quyền
đề

10


nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh”.
Đây là những cơ sở pháp lý quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi để Hội
Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thực hiện giám sát và phản biện xã hội, kiến
nghị và theo dõi các cơ quan có thẩm quyền tiếp thu kiến nghị, đề xuất
của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
1.2.2. Cơ cấu tổ chức của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Hội
LHPN Việt Nam tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tự
nguyện, dân chủ, liên hiệp, thống nhất hành động. Hội LHPN Việt Nam là tổ
chức thống nhất trong cả nước với hệ thống tổ chức chặt chẽ ở 4 cấp:
Trung ương; Tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và tương đương (gọi
chung là cấp tỉnh); Huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh và tương
đương (gọi chung là cấp huyện); Xã, phường, thị trấn và tương đương (gọi
chung là cấp cơ sở). Như vậy, hệ thống tổ chức Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam được thành lập tương ứng với hệ thống tổ chức hành chính nhà nước.
1.2.3. Chức năng. nhiệm vụ của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam Về chức
năng, Điều lệ Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam xác định chức năng của Hội là
“Đại diện chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng
lớp phụ nữ, tham gia xây dựng Đảng, tham gia quản lý Nhà nước; Đoàn kết,
vận động phụ nữ thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước; vận động xã hội thực hiện bình đẳng giới”. Hội vận
động, đoàn kết, tổ chức, hướng dẫn phụ nữ nâng cao hiểu biết về giới và

trình độ mọi mặt để góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, chăm lo quyền lợi phụ nữ, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Về nhiệm vụ, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam có các nhiệm vụ sau:, (i)
Động viên phụ nữ tự lực, tự cường nâng cao hiểu biết về giới, về luật pháp,
chính sách và trình độ mọi mặt. Tham gia tích cực vào các chương trình
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; (ii) Tham gia xây dựng và kiểm tra
giám sát việc thực hiện Hiến pháp, pháp luật, chính sách của Nhà nước có
liên quan đến quyền lợi, đời

11


sống của phụ nữ, trẻ em nhằm tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện
bình đẳng và phát triển; (iii) Hướng dẫn, giúp đỡ phụ nữ hiểu biết về
nuôi dạy con, giữ gìn giá trị đạo đức, truyền thống tốt đẹp của phụ
nữ Việt Nam, tổ chức cuộc sống gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ,
hạnh phúc; (iv) Xây dựng, củng cố các cấp Hội vững mạnh, đào tạo
bồi dưỡng cán bộ Hội, giới thiệu phụ nữ có đức, có tài tham gia vào
các cơ quan lãnh đạo Đảng, Chính quyền các cấp...; (v) Đoàn kết,
hợp tác rộng rãi với phụ nữ các nước, các tổ chức và cá nhân tiến
bộ, trong khu vực và trên thế giới vì bình đẳng, phát triển và hoà
bình.

1.3. Khái niệm, nội dung, phương thức hoạt động giám
sát, phản biện xã hội của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
Hoạt động giám sát của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam là việc Hội
Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam các cấp theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt
động của cơ quan, tổ chức, đại biểu dân cử, công chức, viên chức trong

việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước nhằm kịp thời phát hiện và kiến nghị xử lý những sai
sót, khuyết điểm đồng thời kiến nghị sửa đổi, bổ sung các chính sách
cho phù hợp; phát hiện, phổ biến những nhân tố mới, những mặt tích
cực; phát huy quyền làm chủ của nhân dân góp phần kiểm soát quyền
lực nhà nước, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy Đảng
và Nhà nước.

Hoạt động phản biện xã hội của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
là việc Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam các cấp, theo tôn chỉ, mục
đích, điều lệ, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ được giao, triển khai
việc nhận xét, đánh giá, nêu quan điểm, chính kiến, đề xuất, kiến
nghị đối với dự thảo các chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách và pháp luật của Nhà nước, các quy hoạch, kế hoạch, chương
trình, dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của Nhà nước (trừ
những vấn đề thuộc bí mật quốc gia) nói chung, của từng ngành,
lĩnh vực, địa phương nói riêng.

12


Trên bình diện chung, nội dung hoạt động giám sát của Hội Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam là việc thực hiện các chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các quy định, nội quy, quy
chế tổ chức, hoạt động của cơ quan, đơn vị... từ phía cơ quan, tổ chức
và cán bộ, đảng viên, đại biểu dân cử, công chức, viên chức nhà nước.
Giám sát những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của cán bộ, hội viên, phụ nữ thuộc phạm vi giám sát
của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam được quy định trong nhiều văn bản
pháp luật.

Tập trung phản biện về sự cần thiết, tính cấp thiết của văn bản dự
thảo; sự phù hợp của văn bản dự thảo với chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thực tiễn của đơn vị, địa
phương; tính đúng đắn, khoa học, phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội
và tính khả thi của văn bản dự thảo; dự báo tác động của văn bản dự
thảo đối với các nhóm đối tượng chịu tác động trực tiếp của văn bản,
hiệu quả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối
ngoại của văn bảo dự thảo.
Phương thức hoạt động giám sát là cách thức (phương pháp, hình
thức) được Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam các cấp sử dụng nhằm hiện
thực hóa mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ giám sát việc thực hiện các chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các
quy định, nội quy, quy chế tổ chức, hoạt động của cơ quan, đơn vị... từ
phía cơ quan, tổ chức và cán bộ, đảng viên, đại biểu dân cử, công
chức, viên chức nhà nước.
Phương thức hoạt động phản biện xã hội là tổng thể quy trình, biện
pháp, hình thức được Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam các cấp sử dụng
để triển khai việc nhận xét, đánh giá, nêu quan điểm, chính kiến, đề
xuất, kiến nghị đối với dự thảo các chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách và pháp luật của Nhà nước, các quy hoạch, kế hoạch,
chương trình, dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của Nhà nước
(trừ những vấn đề thuộc bí mật quốc gia) nói chung, của từng ngành,
lĩnh vực, địa phương nói riêng.

13


1.4. Các yếu tố ảnh hướng tới việc thực hiện vai trò giám sát,
phản biện xã hội của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
Bất kỳ một hoạt động xã hội nào của con người cũng chịu sự ảnh

hưởng bởi những yếu tố, điều kiện, hoàn cảnh nhất định. Cũng như các
dạng hoạt động xã hội khác, việc thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã
hội của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam cũng chịu sự tác động ảnh hưởng
của nhiểu yếu tố khác nhau, bao gồm cả các yếu tố chủ quan và các yếu tố
khách quan, yếu tố Chính trị, kinh tế văn hóa…. Điều đó giải thích tại sao
cùng trong điều kiện hoàn cảnh như

nhau, việc thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội của Trung
ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, một số cấp Hội Phụ nữ được triển
khai một cách chủ động, tích cực, nhận được sự quan tâm chỉ đạo sâu
sát, kịp thời của cấp ủy Đảng, giúp các cấp Hội Phụ nữ thực hiện hiệu
quả công tác giám sát và phản biện xã hội.

Tiểu kết chương 1
Trong nội dung chương 1, luận văn đã đề cập, phân tích, luận giải các
vấn đề lý luận liên quan đến quản lý nhà nước về hoạt động giám sát, phản
biện xã hội, bao gồm khái niệm, nội dung, phương thức quản lý nhà nước
về hoạt động giám sát, phản biện xã hội.

Trên cơ sở trình bày về vị trí, vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, về cơ cấu tổ chức, chức năn,
nhiệm vụ của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, luận văn đã tập trung làm
rõ khái niệm, nội dung, phương thức thực hiện hoạt động giám sát,
phản biện xã hội của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.;; chỉ ra các yếu tố
ảnh hướng tới việc thực hiện vai trò giám sát, phản biện xã hội của Hội
Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.

14



Chương 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN VAI TRÒ
CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM TRONG
GIÁM SÁT VÀ PHẢN BIỆN XÃ HỘI
2.1. Kết quả đạt được, nguyên nhân và những hạn chế,
bất cập trong thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội
của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt nam
2.1.1. Trong thực hiện vai trò giám sát
Vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát việc thực thi
các chính sách bình có liên quan tới đẳng giới được coi là trung tâm vì vị thế
đặc biệt của Hội Liên hiệp Phụ nữ trong hệ thống chính trị và xã hội của Việt
Nam. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã chủ trì giám sát 10 nội dung với 28
đoàn giám sát tại 26 tỉnh và 02 bộ ngành. Trong 5 năm, Hội Liên hiệp Phụ
nữ cấp tỉnh, huyện, xã đã chủ trì thành lập đoàn giám sát 15.601 cuộc; trong
đó, cấp tỉnh chủ trì thành lập đoàn giám sát 523 cuộc; cấp huyện chủ trì
thành lập đoàn giám sát 2.438 cuộc; cấp xã chủ trì thành lập đoàn giám sát
12.640 cuộc. Ngoài ra, các cấp Hội giám sát bằng các hình thức khác, như
nghiên cứu xem xét văn bản; tham gia các đoàn giám sát của cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền (Quốc hội, Hội đồng nhân dân, cơ quan quản lý nhà
nước); qua đơn thư khiếu nại, tố cáo, phản ảnh; quan sát, tìm hiểu, giao
tiếp.

2.1.2. Trương thực hiện vai trò phản biện xã hội
Từ năm 2014 đến nay, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã tập trung
phản biện xã hội nhiều dự thảo luật, dự thảo báo cáo quan trọng, có ảnh
hưởng trực tiếp đến phụ nữ, trẻ em, bình đẳng giới, như: dự thảo Bộ luật
Dân sự (sửa đổi); dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi), Trung ương Hội Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam đã tổ chức 06 Hội thảo tham vấn ý kiến chuyên gia,
đại biểu các ngành và cán bộ Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam các cấp tại 6
tỉnh; Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam các tỉnh, thành tổ chức được 7.809

cuộc góp ý kiến với tổng số 3.287.039 người tham gia, dự thảo Luật Hôn
nhân và gia

15


đình; dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội, dự thảo Luật Ban hành văn bản quy
phạm pháp luật (sửa đổi), dự thảo Luật Trẻ em; dự thảo Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều Luật Các cơ quan đại diện nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam ở nước ngoài; dự thảo Luật Trợ giúp pháp lý; dự thảo Luật
Tiếp cận thông tin; dự thảo Báo cáo mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới
năm 2017, Luật Giáo dục (sửa đổi), Luật Thi hành án hình sự (sửa đổi)...
Ngoài ra Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam các cấp ở địa phương đã tích cực
tham gia phản biện xã hội, góp ý vào các dự thảo văn bản pháp luật, kế
hoạch, chương trình, dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội cấp địa
phương.
2.1.3. Những hạn chế, bất cập trong thực hiện vai trò giám sát, phản biện xã
hội của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và nguyên nhân Thứ nhất, hoạt động
giám sát của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam các cấp mới chủ yếu triển khai
giám sát chuyên đề và tập trung chủ yếu vào các cơ quan, đơn vị sự nghiệp
công lập, doanh nghiệp...; ít thực hiện giám sát thường xuyên và chưa thực
hiện được việc giám sát đối với các tổ chức Đảng, đặc biệt chưa giám sát
được cán bộ,

đảng viên, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị.
Thứ hai, trong việc thực hiện vai trò phản biện xã hội của Hội Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam chưa có cơ chế khuyến khích tiếp nhận ý kiến
của các tầng lớp nhân dân vào các văn bản dự thảo.
Thứ ba, một bộ phận cán bộ Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam các
cấp chưa hiểu biết đầy đủ, chưa nắm vững các chủ trương, đường lối

của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về giám sát và phản
biện xã hội; năng lực giám sát, phản biện xã hội, khả năng phát hiện,
lựa chọn, lập luận, phân tích vấn đề phục vụ hoạt động phản biện xã hội
còn hạn chế, chỉ ở mức độ theo dõi, phản ứng chứ chưa đi đến cùng để
giải quyết vấn đề đặt ra.
Thứ tư, trong thực hiện vai trò giám sát, phản biện xã hội của Hội Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam, có thể nhận thấy rằng, càng xuống cấp dưới thì công
tác giám sát, phản biện xã hội càng gặp nhiều khó khăn, lúng túng, hiệu quả
chưa rõ nét, chưa có nhiều phát hiện, kiến

16


nghị xử lý sau giám sát; nhiều kiến nghị còn chung chung, chưa chỉ
ra lĩnh vực, vấn đề cụ thể cần khắc phục, giải quyết.

2.2. Một số bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn thực
hiện vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát,
phản biện xã hội
Thứ nhất, sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của cấp ủy là yếu tố đầu
tiên, có vị trí rất quan trọng để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức chính trị - xã hội các cấp nói chung, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam các cấp nói riêng thực hiện có hiệu quả hoạt động giám sát, phản
biện xã hội. Người đứng đầu cấp ủy phải nhận thức đầy đủ, sâu sắc và
trách nhiệm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo quá trình triển khai thực
hiện các hoạt động này.
Thứ hai, để hoạt động giám sát, phản biện xã hội, góp ý xây dựng
Đảng, xây dựng chính quyền đi vào thực chất, các cấp Hội Liên hiệp
Phụ nữ Việt Nam cần chủ động lựa chọn những nội dung giám sát,
phản biện xã hội, những vấn đề gây bức xúc dư luận xã hội, có liên

quan trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của hội viên,
phụ nữ; xây dựng chương trình, kế hoạch giám sát và phản biện xã hội,
trong đó xác định cụ thể nội dung chủ trì, nội dung phối hợp giám sát,
lựa chọn phương pháp giám sát, phản biện xã hội phù hợp với từng nội
dung, đối tượng tránh chồng chéo qua đó mang lại hiệu quả cao khi
triển khai thực hiện.
Thứ ba, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, năng lực chuyên
môn, nghiệp vụ và rèn luyện bản lĩnh chính trị cho cán bộ Hội, hội viên
là nhân tố quyết định chất lượng công tác giám sát, phản biện xã hội,
tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.

Thứ tư, chính quyền các cấp cần tạo các điều kiện thuận lợi
để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội,
trong đó có Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam các cấp, thực hiện và
phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội
Thứ năm, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam các cấp, nhất là cấp
Trung ương, cần chú trọng, đầu tư thỏa đáng cho công tác sơ kết,

17


tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, dự báo khoa học những vấn
đề sẽ xảy ra trong tương lai, lấy đó làm cơ sở khoa học cho hoạt
động giám sát, phản biện xã hội, góp ý xây dựng Đảng, xây dựng
chính quyền; tránh tình trạng tham gia góp ý qua loa, hình thức vì
ngại bày tỏ quan điểm, chính kiến.

Tiểu kết chương 2
Nội dung chương 2 của luận văn tập trung phân tích, đánh giá thực
trạng thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội của Hội Liên hiệp Phụ

nữ Việt Nam thông qua việc luận chứng những thành công, kết quả đạt
được trong thực hiện vai trò giám sát, phản biện xã hội của Hội Liên hiệp
Phụ nữ Việt Nam, chỉ ra những nguyên nhân đem đến những kết quả đạt
được; phân tích những hạn chế, bất cập trong thực hiện vai trò giám sát,
phản biện xã hội của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và làm rõ các nguyên
nhân dẫn đến những hạn chế, bất cập đó. Trên cơ sở đánh giá thực trạng,
chỉ ra nguyên nhân, luận văn đã rút ra được một số bài học kinh nghiệm từ
thực tiễn thực hiện vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám
sát, phản biện xã hội; lấy đó làm cơ sở để đề xuất, luận giải các giải pháp
phát huy vài trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong hoạt động giám
sát, phản biện xã hội.

Chương 3
GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM PHÁT HUY VAI TRÒ
CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM TRONG
GIÁM SÁT, PHẢN BIỆN XÃ HỘI
3.1. Tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối của
Đảng, thực hiện nghiêm túc chính sách, pháp luật của Nhà
nước về giám sát, phản biện xã hội
3.1.1. Tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối của
Đảng về giám sát, phản biện xã hội, đặc biệt là Quyết định số
217-QĐ/TW và Quyết định số 218-QĐ/TW ngày 12/12/2013
của Bộ Chính trị tới các cấp Hội, hội viên
Cụ thể hóa bằng Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội (Ban hành

18


kèm theo Quyết định số 217-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ Chính trị) và

Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội
và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền đó là
những văn bản chính trị - pháp lý rất quan trọng, mở ra một bước ngoặt lớn
trong nhận thức về giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các đoàn thể chính trị

- xã hội trong hệ thống chính trị cũng như trong xã hội, góp
phần quan trọng vào tham gia xây dựng Đảng, chính quyền
các cấp trong sạch, vững mạnh.
3.1.2. Thực hiện nghiêm túc chính sách, pháp luật của
Nhà nước về giám sát, phản biện xã hội
Ban hành các văn bản triển khai có hiệu quả Quy chế giám sát
và phản biện xã hội là một trong nhiệm vụ trọng tâm của Hội Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam nhằm phục vụ cho các cấp Hội tiếp tục thực
hiện nghiêm túc chính sách, pháp luật của Nhà nước về giám sát và
phản biện xã hội, phát huy vai trò của cán bộ, hội viên, phụ nữ trong
đấu tranh ngăn chặn, đầy lùi sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong nội bộ.

3.2. Tạo sự phối hợp chặt chẽ giữa Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong hoạt động giám
sát, phản biện xã hội
3.2.1. Xây dựng, ban hành quy chế phối hợp giữa Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong
giám sát, phản biện xã hội
Có sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, tổ chức liên quan; không làm
trở ngại các hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân được giám sát và
phản biện xã hội; Trong quá trình giám sát và phản biện xã hội phải bảo
đảm dân chủ, công khai, khách quan và mang tính xây dựng; tôn trọng các ý
kiến khác nhau nhưng không trái với quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng

của hội viên phụ nữ. Sự phối hợp đó trên cơ sở phải đảm bảo 3 nguyên tắc
theo Thông tri số 28 /TTr-MTTW-BTT ngày 17/4/2014 Hướng dẫn thực hiện
một số điều

19


của Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội
3.2.2. Tạo cơ chế, diễn đàn phù hợp, bảo đảm sự phối hợp thực
chất, hiệu quả giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam trong hoạt động giám sát, phản biện xã hội
Thường xuyên Tổ chức đối thoại trực tiếp, các ý kiến đều được người
đứng đầu tiếp thu giải trình, nhiều ý kiến được giải quyết ngay tại các hội
nghị đối thoại. Từ đó góp phần tạo môi trường dân chủ, cởi mở, kết hợp đối
thoại với nhiều bên, nhiều cấp cùng tham gia. Qua đó người dân được bày
tỏ tâm tư, nguyện vọng, phản ánh, kiến nghị với thái độ tích cực, chân
thành, góp ý với tinh thần thẳng thắn, có trách nhiệm; người đứng đầu giải
trình, tiếp thu hầu hết các ý kiến ngay tại hội nghị đối thoại, qua đó đã góp
phần củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước; người dân hiểu
và chấp hành pháp luật tốt hơn, giúp họ yên tâm lao động, sản xuất, tích
cực tham gia phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

Ở góc độ khác, khi Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phối hợp với Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội thực hiện giám sát
và phản biện sẽ tiết kiệm được thời gian, nguồn lực, đảm bảo không trùng
lắp quá nhiều đoàn giám sát một địa phương đơn vị.

3.3. Tăng cường công tác phổ biến, tuyển truyền nâng cao
nhận thức của các cấp Hội, hội viên về vai trò của Hội Liên hiệp

Phụ nữ Việt Nam trong giám sát, phản biện xã hội
3.3.1. Lựa chọn báo cáo viên có năng lực, uy tín cao thực
hiện công tác phổ biến, tuyên truyền
Trong những năm qua, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam các cấp đã chú
trọng lựa chọn được những báo cáo viên đáp ứng ở mức độ nhất định các
tiêu chuẩn, yêu cầu đề ra; đội ngũ báo cáo viên cũng đã cố gắng thực hiện
tròn vai các nhiệm vụ được giao. Trong thời gian tới, việc lựa chọn đội ngũ
báo cáo viên tham gia tập huấn, bồi dưỡng nhằm nâng cao nhận thức của
các cấp Hội, hội viên về vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong
giám sát, phản biện xã hội.

20


3.3.2. Đổi mới phương pháp phổ biến, tuyên truyền
Để tạo ra bước đột phá trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy, phổ
biến, tuyên truyền về hoạt động giám sát, phản biện xã hội cho đội ngũ cán
bộ Hội, hội viên, phụ nữ, các báo cáo viên cần phải đổi mới phương pháp
giảng dạy, tuyên truyền theo hướng “lấy người nghe làm trung tâm” nhằm
phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo của người nghe, buộc người
nghe phải đầu tư nhiều thời gian tự học hỏi, nghiên cứu về hoạt động thực
hiện giám sát và phản biện xã hội. Qua cần phải kết hợp hài hòa giữa
phương pháp thuyết trình truyền thống với phương pháp nêu vấn đề, kết
hợp giữa trình bày các nội dung lý thuyết với việc nêu ra các tình huống
thực tế, những bài tập thực hành giám sát, phản biện xã hội. Các báo cáo
viên cần hạn chế sử dụng phương pháp thuyết trình theo lối độc thoại một
chiều; tăng cường sử dụng các phương pháp đối thoại, thảo luận nhóm theo
các chủ đề, nội dung khác nhau của hoạt động giám sát, phản biện xã hội,
phương pháp nêu tình huống thực tế để lôi cuốn người nghe vào sự tranh
luận, tìm ra hướng giải quyết hợp lý nhất...; chuyển mạnh từ phương pháp

“lấy người dạy làm trung tâm” sang phương pháp “lấy người nghe làm trung
tâm”. Ngoài ra, tuyên truyền còn phải lồng ghép, cài đặt những video phim,
hình ảnh, tư liệu chọn lọc, liên quan trực tiếp đến nội dung bài giảng cần
truyền đạt cho người nghe; qua đó, tạo sự hấp dẫn, lôi cuốn người nghe vào
nội dung bài giảng, gia tăng hiệu quả truyền đạt thông tin. Bên cạnh đó, mỗi
cơ quan, tổ chức Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp cũng cần chú trọng xây
dựng hệ thống thông tin điện tử; giúp cho cán bộ Hội, hội viên, phụ nữ có đủ
khả năng, điều kiện tiếp cận công nghệ thông tin hiện đại phục vụ cho việc
trau dồi kỹ năng thực hiện giám sát và phản biện xã hội.

3.3.3. Đa dạng hóa hình thức phổ biến, tuyên truyền
Hình thức phổ biến, tuyên truyền về vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam trong thực hiện giám sát, phản biện xã hội, về thực chất, là những
dạng hoạt động mà thông qua đó, các cấp Hội, báo cáo viên thực hiện việc
phổ biến, tuyên truyền, giáo dục. Các hình

21


thức phổ biến, tuyên truyền khác nhau được sử dụng có tác dụng thúc
đẩy đội ngũ cán bộ Hội, hội viên, phụ nữ rèn luyện, cọ sát thực tế, rút ra
những điều bổ ích cho công tác chuyên môn nói chung, kỹ năng thực
hiện giám sát, phản biện xã hội nói riêng thực hiện theo phương châm
đa dạng hóa bằng nhiều hình thức phong phú, sinh động, sáng tạo, phù
hợp với từng cấp Hội, hội viên.

3.4. Bảo đảm các điều kiện cần thiết cho việc thực hiện vai
trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong giám sát, phản
biện xã hội
3.4.1. Bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của các

cấp ủy đảng, cán bộ lãnh đạo các cấp Hội trong hoạt động
giám sát, phản biện xã hội
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam sáng lập,
rèn luyện; mọi hoạt động của Hội đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Sự
lãnh đạo của Đảng đối với Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam là tất yếu và quan
trọng để Hội hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích, phát huy vai trò giám sát và
phản biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững
mạnh. Thực tiễn hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Hội Liên hiệp Phụ
nữ Việt Nam còn nhiều vấn đề đặt ra cần bám sát sự lãnh đạo, chỉ đạo
Đảng để có phương hướng và giải pháp phù hợp. Trong Văn kiện Đại hội
lần thứ XII của Đảng, Đảng ta yêu cầu: “Tiếp tục thể chế hóa và cụ thể hóa
các quan điểm đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và đại đoàn kết
dân tộc, hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả các cơ chế, chính sách phát
huy vai trò của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề lớn của đất
nước; bảo đảm tất cả các quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; khắc
phục những hạn chế, bảo đảm tác dụng, hiệu quả thực chất hoạt động giám
sát, phản biện xã hội của Mặt trận

3.4.2. Bảo đảm các điều kiện cần thiết về kinh tế cho hoạt
động giám sát, phản biện xã hội
Trong bối cảnh hiện nay, hầu hết hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam vẫn do ngân sách nhà nước đảm bảo. Các cấp Hội

22


cần phải quản lý, điều hành, sở dụng hiệu quả nguồn ngân sách do Nhà
nước phân bổ hàng năm, đảm bảo đúng quy định hiện hành, linh hoạt
bám sát nhiệm vụ và tình hình thực tiễn. Bên cạnh đó, Hội Liên hiệp Phụ
nữ Việt Nam các cấp cần chủ động khai thác nguồn thu phục vụ nhiệm

vụ chính trị được giao: Dân chủ, công khai, minh bạch là đòi hỏi tất yếu
của quá trình đổi mới hoạt động của Đảng, Nhà nước đồng thời cũng
tạo điều kiện thuận lợi để Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tiến hành giám
sát, phản biện xã hội một cách chủ động, khoa học, hiệu quả.

3.4.3. Bảo đảm chất lượng nguồn nhân lực tham gia hoạt
động giám sát, phản biện xã hội
Đối với cấp Trung ương: Hiện nay, cơ cấu tổ chức Trung ương Hội Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam gồm có Văn phòng và 9 Ban với 276 biên chế; trong
đó: lãnh đạo cơ quan: 5; cán bộ chuyên trách Đảng ủy, Công đoàn, Văn
phòng Đảng đoàn: 3; Khối phong trào (gồm Văn phòng và 9 Ban): 143 công
chức, người lao động (trong đó có 15 hợp đồng theo Nghị định 68/2000/NĐCP). Riêng khối đơn vị sự nghiệp hiện. Cần xây dựng đội ngũ cán bộ Hội có
bản lĩnh chính trị, có năng lực chuyên môn, nhiệt tình, tâm huyết có kỹ năng
vận động quần chúng, có phương pháp làm việc khoa học, kế hoạch là chủ
thể của quá trình đổi mới lấy mong muốn, nguyện vọng chính đáng của phụ
nữ làm cơ sở để đề ra nội dung, phương thức hoạt động của các cấp Hội
làm bằng chứng cho việc hoạch định chiến lược phát triển của Hội cũng như
đề xuất chính sách, pháp luật, phản biện chính sách, pháp luật liên quan
đến bình đẳng giới, phụ nữ, trẻ em và tổ chức Hội.

Tiểu kết chương 3
Nội dung chương 3 tập trung đề xuất, phân tích, luận giải tính khoa học,
khả thi của các giải pháp bảo đảm phát huy vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam, bao gồm các giải pháp cụ thể sau: (1) Tiếp tục quán triệt sâu sắc
quan điểm, đường lối của Đảng, thực hiện nghiêm túc chính sách, pháp luật
của Nhà nước về giám sát, phản biện xã hội; (2) Tạo sự phối hợp chặt chẽ
giữa Mặt trận Tổ quốc Việt

23



Nam và Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong hoạt động giám sát, phản
biện xã hội; (3) Tăng cường công tác phổ biến, tuyển truyền nâng cao
nhận thức của các cấp Hội, hội viên về vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam trong giám sát, phản biện xã hộ; (4) Bảo đảm các điều kiện
cần thiết cho việc thực hiện vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
trong giám sát, phản biện xã hội.

KẾT LUẬN
Giám sát và phản biện xã hội của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam là
hoạt động mang tính tất yếu khách quan góp phần xây dựng Đảng, xây
dựng chính quyền trong sạch vững mạnh. Thực tiễn sau hơn 30 năm đổi
mới cho thấy, hoạt động giám sát, phản biện xã hội được Hội Liên hiệp Phụ
nữ Việt Nam xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm để Hội thực
hiện tốt chức năng đại diện bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng cho
hội viên phụ nữ, giám sát không chỉ thực hiện quyền và trách nhiệm giám
sát theo quy định của pháp luật, mà còn thực hiện có hiệu quả chức năng
dân chủ đại diện cho các tầng lớp phụ nữ theo Điều lệ Hội, góp phần thực
hiện mục tiêu bình đẳng giới và vai trò, trách nhiệm của Hội Liên hiệp Phụ
nữ Việt Nam trong tham gia quản lý nhà nước và phản biện xã hội đối với
các chính sách, pháp luật. Đồng thời, nó cũng là kinh nghiệm quý báu cho
hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật, tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý và
giải quyết đơn thư.

Với kết quả nghiên cứu đề tài “Vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam trong giám sát và phản biện xã hội”, học viên hy vọng rằng
sẽ góp phần nghiên cứu, làm rõ các cơ sở lý luận và thực tiễn, đánh
giá đúng thực trạng thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội
của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam; từ đó, đề xuất, luận giải tính khả
thi của các giải pháp bảo đảm phát huy vai trò giám sát, phản biện

xã hội của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, góp phần phát huy dân
chủ, xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền các cấp trong sạch,
vững mạnh.

24



×