Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Văn hóa ứng xử học đường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (469.59 KB, 20 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài

Văn hoá ứng xử của người việt đã được hình thành trong quá trình giao tiếp qua
4000 năm dựng nước và giữ nước. Cái đẹp trong văn hoá ứng xử được cha ông ta lưu giữ,
truyền lại từ đời này sang đời khác. Ngày nay mặc dù xã hộ đã có nhiều thay đổi nhưng
giao tiếp ứng xử vẫn có tầm quan trọng đặc biệt. Nó tạo nên các mối quan hệ đẹp có văn
hóa, có đạo đức trong cộng đồng dân cư, trong tình bạn, trong tình yêu, trong gia đình,
trong nhà trường, trong kinh doanh, đàm phán - thương lượng khi có những bất đồng có
thể dẫn đến xung đột.
Ông cha ta thường nói “Tiên học lễ, hậu học văn”. Chữ lễ ở đây không đơn thuần
là nghi lễ, mà còn bao hàm cả cách cư xử trong cuộc sống, từ lời chào hỏi, nói năng đến
sự cảm thông, chia sẻ với người khác. Và từ đó có những hành động cụ thể trong cuộc
sống thường nhật. Xã hội ngày càng phát triển, giới trẻ ngày càng được tiếp nhận thông
tin từ nhiều hướng, có điều kiện để phát triển về cả thể chất và tinh thần. Tuy nhiên hiện
nay một vấn đề đang nổi cộm và đáng báo động là sự suy thoái chuẩn mực đạo đức, lối
sống, hành vi ứng xử trong văn hoá đang làm ảnh hưởng lớn tới truyền thống tốt đẹp của
dân tộc.
Kiến thức có thể tìm thấy dễ dàng chỉ bằng một cái kích chuột trên internet.
Nhưng tại sao trẻ em vẫn phải đến trường? Bởi vì nhà trường không chỉ mở ra cho các
em những chân trời tri thức mới, mà còn dạy cho các em cách làm người.
Đó là lý do tôi chọn đề tài " Giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh trong trường
học", để một lần nữa khẳng định tầm quan trọng của việc giáo dục cho học sinh về văn
hóa ứng xử, có thể trang bị cho các em hành trang tốt nhất để có thể bước vào cuộc sống
sau này


2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: Giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh trong trường học
Phạm vi nghiên cứu: Do thời gian có hạn không thể nghiên cứu giáo dục văn hóa ứng xử


cho học sinh trong trường học một cách sâu sắc, mà chỉ tìm hiểu và trình bày về nhiệm
vụ, nội dung,thực trạng và các biện pháp giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh trong
trường học.
3. Phương pháp nghiên cứu

-

Phương pháp tổng hợp

-

Phương pháp phân tích

-

Phương pháp khái quát hóa
4. Cấu trúc đề tài

Ngoài phần mở đầu và kết thúc, phần nội dung của bài được triển khai như sau:
Chương 1: Khái quát chung về giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh trong trường học
Chương 2: Thực trạng văn hóa ứng xử của học sinh hiện nay
Chương 3: Biện pháp giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh trong trường học


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIÁO DỤC VĂN HÓA ỨNG XỬ CHO
HỌC SINH TRONG TRƯỜNG HỌC
1.1.
Khái niệm
1.1.1. Văn hóa


Theo “Cẩm nang ứng xử bí quyết trẻ lâu sống lâu”, tiến sĩ Nguyễn Thế Hùng là
người đầu tiên quan tâm đến khái niệm này. Ông cho rằng văn là đẹp, hóa là giáo hóa.
Văn hóa là dùng văn để giáo hóa. “Văn hóa nghĩa là lấy cái đẹp để giáo hóa con người”.
Sau đó xuất hiện nhiều định nghĩa văn hóa khác nhau:
-

Theo E.Henriotte: “Văn hóa là cái gì còn lại sau khi người ta đã quên đi tất cả,là

-

cái vẫn thiếu khi người ta đã học tất cả”.
Theo từ điển tiếng việt, văn hoá được định nghĩa là: “Văn hóa là tổng thể nói
chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình

-

lịch sử”.
Ts Nguyễn Thế Hùng viết: Văn hóa có vai trò quan trọng trong đời sống con
người, là nhu cầu thiết yếu trong đời sống tinh thần xã hội, thể hiện trình độ phát
triển chung của một đất nước, một thời đại. Văn hóa thể hiện khát vọng sống của
con người hướng về Chân_Thiện_Mỹ. Văn hóa trở thành công cụ quan trọng của

con người
1.1.2. Ứng xử
Ứng xử là từ ghép gồm “ ứng” và “ xử”. “ Ứng” là ứng đối, ứng phó. “Xử” là xử
thế, xử lí, xử sự….. Ứng xử là phản ứng của con người đối với sự tác động của người
khác đến mình trong một tình huống cụ thể nhất định. Ứng xử là phản ứng có lựa chọn
tính toán, là cách nói năng tuỳ thuộc vào tri thức, kinh nghiệm và nhân cách của mỗi
người nhằm đạt kết quả cao nhất trong giao tiếp.

1.1.3. Văn hóa ứng xử


Văn hóa ứng xử là: Thế ứng xử, là sự thể hiện triết lí sống, các lối sống, lối suy
nghĩ, lối hành động của một cộng đồng người trong việc ứng xử và giải quyết những mối
quan hệ giữa con người với tự nhiên, với xã hội từ vi mô (gia đình) đến vĩ mô (nhân
gian).
Văn hóa ứng xử phải được nhìn nhận từ ít nhất dưới bốn chiều kính của con
người: quan hệ với tự nhiên (chiều cao), quan hệ với xã hội (chiều rộng), quan hệ với
chính mình (chiều sâu), quan hệ với tổ tiên và con cháu mai sau (chiều lịch sử).
1.2.

Ý nghĩa của việc giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh trong trường học.
Giáo dục hành vi ứng xử là quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch đến học

sinh nhằm giúp cho nhân cách của học sinh được phát triển đúng đắn, giúp học sinh có
những cách ứng xử đúng mực trong các mối quan hệ.
Giáo dục văn hóa ứng xử có ý nghĩa lâu dài, được thực hiện thường xuyên và
trong mọi trường hợp
Trong nhà trường, giáo dục văn hóa ứng xử là mặt giáo dục cần được đặc biệt coi
trọng, nếu học sinh được giáo dục tốt sẽ góp một phần rất lớn cho thành công của học
sinh sau này.
1.3.

Nhiệm vụ của giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh trong trường học.
Hình thành cho học sinh ý thức thực hiện các hành vi ứng xử phải phù hợp với lợi

ích xã hội, giúp học sinh lĩnh hội một cách đúng mức các chuẩn mực ứng xử được quy
định.
Biến kiến thức thành niềm tin, nhu cầu cho mỗi các nhân để đảm bảo các hành vi

cá nhân được thực hiện
Bồi dưỡng tình cảm, tính tích cực và bền vững của các phẩm chất ý chí để bảo
đảm việc thực hiện các hành vi ứng xử có văn hóa


Rèn luyện thói quen ứng xử có văn hóa để nó trở thành bản tính tự nhiên của mỗi
các nhân và duy trì thói quen này lâu bền.
Giáo dục văn hóa ứng xử đúng mức thể hiện sự tôn trọng và quý trọng của con
người với nhau
1.4.
Những nguyên tắc giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh trong trường học.
1.4.1. Giáo dục học sinh trong thực tiễn sinh động của xã hội

Nguyên tắc này đòi hỏi nhà trường phải gắn liền với đời sống thực tiễn của xã hội,
của cả nước và địa phương, nhạy bén với sự thay đổi của xã hội, đưa thực tiễn vào giờ
học, vào các hoạt động của nhà trường để giáo dục các em.
1.4.2. Giáo dục theo nguyên tắc tập thể

Nguyên tắc này thể hiện ở những nội dung: Để học sinh trong tập thể để giáo dục,
giáo dục bằng sức mạnh tập thể, giáo dục học sinh tinh thần vì tập thể
Trong một tập thể lớp được tổ chức tốt, có sự đoàn kết nhất trí thì sức mạnh của
những điều tích cực sẽ góp phần rất lớn trong việc giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh.
1.4.3. Giáo dục bằng cách thuyết phục và phát huy mạnh mẽ tính tự giác của học sinh

Phải giáo dục văn hóa ứng xử bằng cách thuyết phục và phát huy tính tự giác của
học sinh chứ không phải bằng các biện pháp cưỡng ép, mệnh lệnh, dọa nạt biến học sinh
thành người thụ động, sợ sệt, hoặc là thành một kẻ quậy phá, bất cần đời.
Nguyên tắc này đòi hỏi người thầy phải kiên trì, nhẫn nại, yêu thương học sinh sâu
sắc, có tinh thần trách nhiệm, không làm qua loa cho xong việc, cần phải giải thích cặn
kẽ, tỉ mỉ cho học sinh hiểu, để các em tự giác thực hiện

1.4.4. Giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh phải lấy việc phát huy ưu điểm là chính,

trên cơ sở đó mà khắc phục các khuyết điểm


Đặc điểm tâm lý của học sinh là thích được khen, muốn mọi người nhìn thấy các
ưu điểm, thành tích của mình. Nếu giáo dục hành vi ứng xử quá nhấn mạnh khuyết điểm,
luôn nêu cái xấu, cái chưa tốt thì sẽ làm cho các em cảm thấy chán nản, thiếu tự tin.
Để thực hiện nguyên tắc này đòi hỏi người thầy phải hết sức trân trọng những mặt
tốt, những thành tích của học sinh dù chỉ là những thành tích nhỏ, dùng những gương tốt
của học sinh trong trường và những tấm gương người tốt việc tốt khác để giáo dục các
em.
1.4.5. Phải tôn trọng nhân cách học sinh, đồng thời đề ra yêu cầu ngày càng cao đối với

học sinh
Muốn xây dựng nhân cách cho học sinh người thầy cần phải tôn trọng nhân cách
các em. Tôn trọng học sinh, thể hiện lòng tin đối với học sinh là một yếu tố tinh thần có
sức mạnh động viên học sinh không ngừng vươn lên rèn luyện hành vi đạo đức. Khi học
sinh tiến bộ về cách ứng xử cần kịp thời có yêu cầu cao hơn để thúc đẩy các em vươn lên
cao hơn nữa.
Trong công tác giáo dục đòi hỏi người thầy phải yêu thương học sinh nhưng phải
nghiêm với chúng, nếu chỉ thương mà không nghiêm học sinh sẽ nhờn và ngược lại thì
các em sẽ sinh ra sợ sệt, rụt rè, không dám bộc lộ tâm tư tình cảm, do đó người thầy
không thể uốn nắn tư tưởng, xây dựng tình cảm đúng đắn cho học sinh được.
1.4.6. Giáo dục văn hóa ứng xử phải phối hợp với đặc điểm lứa tuổi học sinh và đặc

điểm hoàn cảnh cá nhân học sinh
Công tác giáo dục văn hóa ứng xử cần phải chú ý đến đặc điểm tâm sinh lý của
học sinh để từ đó có được hình thức, biện pháp thích hợp.
Cần phải chú ý đến cá tính, giới tính của các em. Đối với từng em, học sinh gái,

học sinh trai cần có những phương pháp giáo dục thích hợp, không nên đối xử sư phạm
đồng loạt với mọi học sinh.


Muốn vậy người thầy phải sâu sát học sinh, nắm chắc từng em, hiểu rõ cá tính để
có những biện pháp giáo dục phù hợp.
1.4.7. Trong công tác giáo dục văn hóa ứng xử, người thầy cần phải có nhân cách mẫu

mực và phải đảm bảo sự thống nhất giữa các các ảnh hưởng giáo dục đối với học
sinh
Kết quả công tác giáo dục đạo đức học sinh trong trường họa phụ thuộc rất lớn vào
nhân cách của thầy cô giáo. Lời dạy của thầy cô dù hay đến đâu, phương pháp sư phạm
dù khéo léo đến đâu cũng không thay thế được những ảnh hưởng trực tiếp của nhân cách
người thầy với học sinh.
Phải đảm bảo sự nhất trí cao về yêu cầu giáo dục đạo đức giữa các thành viên
trong nội bộ nhà trường và sự thống nhất phối hợp giáo dục học sinh giữa nhà trường, gia
đình và xã hội
1.5.
Các phương pháp giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh trong trường học
1.5.1. Phương pháp thuyết phục

Là những phương pháp tác động vào lý trí tình cảm của học sinh để xây dựng
những niềm tin ở các em, gồm các nội dung sau:
-

Giảng giải về văn hóa ứng xử: được tiến hành trong giờ dạy môn giáo dục công

-

dân cũng như trong các giờ học môn khác, giờ sinh hoạt lớp, sinh hoạt dưới cờ…

Nêu gương người tốt, việc tốt bằng nhiều hình thức như: nói chuyện, kể chuyện,
đọc sách báo, mời những người có gương phấn đấu tốt đến nói chuyện, nêu gương

-

tốt của giáo viên và học sinh trong trường.
Trò chuyện với học sinh hoặc nhóm học sinh để khuyến khích động viên những
hành vi ứng xử có văn hóa của các em, khuyên bảo, uốn nắn những mặt chưa tốt.

1.5.2. Phương pháp rèn luyện


Là những phương pháp tổ chức cho học sinh hoạt động để rèn luyện cho các em
những thói quen ứng xử có văn hóa, thể hiện được nhận thức và tình cảm của các em
thành hành động thực tế:
-

Rèn luyện thói quen ứng xử có văn hóa thông qua các hoạt động cơ bản của nhà

-

trường: dạy học trên lớp, lao động, hoạt động xã hội đoàn thể và sinh hoạt tập thể.
Rèn luyện văn hóa ứng xử thông qua các phong trào thi đua trong nhà trường là
biện pháp tác động tâm lý rất quan trọng nhằm thúc đẩy các động cơ kích thích
bên trong của học sinh, làm cho các em phấn đấu vươn lên trở thành người ứng xử
có văn hóa, vì vậy nhà trường cần tổ chức các phong trào thi đua và động viên học

-

sinh tham gia tốt phong trào này.

Rèn luyện bằng cách chuyển hướng các hoạt động của học sinh từ hoạt động có
hại sang hoạt động có ích, phương pháp này dựa trên đặc tính ham hoạt động của
trẻ và được dùng để giáo dục học sinh bỏ một thói hư xấu nào đó bằng cách gây
cho học sinh hứng thú với một hoạt mới bổ ích, lôi kéo trẻ ra ngoài những tác
động có hại.

1.5.3. Phương pháp thúc đẩy

Là phương pháp dùng những tác động có tính chất “ cưỡng ép” để điều chỉnh,
khuyến khích những động cơ tốt của học sinh nhằm xây dựng văn hóa ứng xử cho học
sinh. Những nội quy, quy chế trong nhà trường vừa là những yêu cầu với học sinh, vừa là
những điều lệnh có tính chất mệnh lệnh đòi hỏi học sinh tuân theo để có những hành vi
đúng đắn theo yêu cầu của nhà trường.
-

Khen thưởng: là tán thành, coi trọng, khích lệ những cố gắng của học sinh làm cho
bản thân học sinh đó vươn lên hơn nữa và động viên khuyến khích các em khác

-

noi theo.
Xử phạt : là phê phán những khiếm khuyết của học sinh, là tác động có tính chất
cưỡng ép đến danh dự lòng tự trọng của cá nhân học sinh để răn đe những hành vi
ứng xử thiếu văn hóa và ngăn ngừa sự tái phạm của học sinh đó và những học sinh
khác. Do đó phải thận trọng và đúng mực, không được lạm dụng phương pháp
này. Khi xử phạt cần phải làm cho học sinh thấy rõ sai lầm, khuyết điểm, thấy hối


hận và đặc biệt sau đó phải theo dõi, giúp đỡ, động viên học sinh sửa chữa khuyết
điểm, cần phải tỏ rõ thái độ nghiêm khắc nhưng không có lời nói, cử chỉ thô bạo

đánh đập, xỉ nhục hoặc các nhục hình xúc phạm đến thân thể học sinh.

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VĂN HÓA ỨNG XỬ CỦA HỌC SINH HIỆN NAY
2.1. Trong trường học
Phần lớn thế hệ trẻ trong nhà trường hiện nay có kiến thức rất rộng, nhanh nhạy
trong nắm bắt thông tin có sức khoẻ tốt, tinh thần cầu thị trong học tập, khả năng ứng


dụng những kiến thức học vào thực tiễn cao, quý trọng thầy cô, đoàn kết với bạn bè sống
có kỷ cương, không ngừng phấn đấu vươn nên trong học tập và trong cuộc sống. Nhiều
học sinh trong trường học vẫn luôn biết “Tôn sư trọng đạo”, đối xử hòa ái, chân thành với
bạn bè. Nhưng cũng có một bộ phận không nhỏ thế hệ trẻ đang ứng xử một cách vô văn
hoá. Quá nhiều hành vi thiếu văn hoá của cả học sinh và giáo viên. Văn hoá ứng xử học
đường đang xuống cấp nghiêm trọng, là sự xuống cấp đáng sợ nhất của một nền giáo dục.
Nhà trường chỉ tập trung vào việc dạy kiến thức tự nhiên xã hội mà quên đi giáo dục
nhân cách sống cho học sinh. Thực tế cho thấy trong môi trường học đường, nơi văn hoá
được coi trọng, được xây dựng và phát huy lại đang diễn ra những điều thiếu văn hoá.
Học sinh đánh nhau không chỉ dùng chân tay hay cặp sách nữa mà là những hình
ảnh các học em sinh mặc đồng phục tuổi từ 10 đến 18 cầm dao, phớ, kiếm và cả súng tự
chế hay súng mua chui trên thị trường để “Xử nhau” chỉ vì những lí do rất trẻ con như
“nhìn đểu”, không cho chép bài, nói xấu, ghen tuông hoặc chỉ đơn giản là đánh cho bõ
ghét.

Không dừng lại ở việc đánh nhau, học trò hiện nay yêu quá sớm, yêu nhiều và
quan niệm yêu gắn liền với tình dục đã để lại những hậu quả khó lường. Có những bạn
trẻ đứng trước nguy cơ vô sinh hoặc đã bị vô sinh do nạo hút thai ở tuổi dậy thì, sức khoẻ
giảm sút, tâm lý tổn thương….Đã có rất nhiều bậc phụ huynh khi đưa con gái vào bệnh


viện vì con đau bụng dữ dội mới tá hoả khi nhận được tin dữ con gái họ đã mang thai.

Không ít những cô cậuđã phải làm cha, làm mẹ ở độ tuổi “ăn chưa no lo chưa tới” do
quan niệm quá thoáng về tình yêu.
Văn hoá ứng xử giữa học trò với nhau ngày nay mang nhiều màu sắc biến tướng.
Tình trạng kết bè, kết phái tạo thành băng, hội cũng là vấn đề nhức nhối nó không những
làm ảnh hưởng đến môi trường giáo dục mà còn làm cho xã hội quan tâm lo lắng. Hiện
tượng lập băng nhóm rồi đi cướp, trấn lột, dằn mặt lẫn nhau, thanh toán ân oán cá nhân
của học trò làm gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh đối với các nhà làm công tác giáo dục và
quản lí giáo dục.
Trong môi trường giáo dục hai mối quan hệ chính là quan hệ giữa thầy và trò và
quan hệ giữa các trò với nhau. Trong đó mối quan hệ giữa thầy và trò là mối quan hệ cốt
lõi nhất để xây dựng môi trường giáo dục.

Ngày nay học trò của chúng ta đã không thể làm đủ lễ nghi với thầy cô họ lại còn
xuyên tạc, làm biến tướng các nghi lễ, thiếu sự tôn trọng với thầy cô, coi thường việc học.
Ví dụ như: Cách chào của học trò khi gặp thầy cô, họ vừa đi thậm chí là chạy ù ù qua
thầy cô vừa chào “cô ạ”, “thầy ạ” để tiết kiệm từ. Sau lưng học trò gọi thầy cô mình là
ông nọ, bà kia tệ hại hơn là gọi bằng đại từ nhân xưng “nó”. Khi làm bài kiểm tra không
tốt bị thầy cho điểm kém không vừa ý mình học trò sẵn sàng lôi bài kiểm tra ra xé trước


mặt thầy cô để tỏ thái độ. Ngay cả khi thầy cô bước vào lớp cũng có những bạn uể oải,
“nhấp nhổm” nửa đứng, nửa ngồi hoặc nếu thầy cô nào “dễ tính”, thì sẵn sàng vừa ngồi
vừa chào. Trong khi các thầy cô đang hăng say giảng bài thì dưới lớp một số bạn sinh
viên “hồn nhiên” ăn sáng, một số bạn khác thì ngủ gật hoặc dùng điện thoại, làm việc
riêng. Khi bị nhắc nhở, có sinh viên còn tỏ thái độ chống đối, thậm chí cãi nhau tay đôi
với các thầy cô. Ranh giới giữa thầy và trò ngày càng mong manh và lời dạy “nhất tự vi
sư, bán tự vi sư” cũng ít được các bạn trẻ ngày nay ghi nhớ. Có trường hợp trò vì mâu
thuẫn nhỏ, xung đột ý kiến hoặc bị giáo viên phạt mà quay ra thù thầy cô, tạt a-xít vào
thầy cô, cả kể việc thuê người giết chết thầy cô mình. Nhìn lại xem đây là lối ứng xử gì?


Những năm gần đây hiện tượng tiêu cực trong giáo dục không phải là ít. Những sự
việc như học trò biếu phong bì cho thầy cô đổi lại thầy cô cho học trò điểm cao (mặc dù
bài làm rất kém) để học trò đỡ tốn công học. Biếu xén thầy cô để tránh bị kỷ luật…nó đã
góp phần làm biến tướng và thương mại hoá quan hệ thầy trò, làm cho thầy không còn là
thầy, không được tôn trọng, không uy nghiêm, được học trò coi là tấm gương để noi theo
học tập, trò cũng chẳng phải trò, chẳng lễ phép, kính trọng thầy và chăm chỉ học hành tu
dưỡng. Ở đâu đó chúng ta còn thấy những thầy giáo không đủ tư cách làm tấm gương,
những cô giáo thiếu tinh thần trách nhiệm, những học trò bàng quan với việc học với
tương lai, cuộc đời, chúng ta có thể thấy rằng việc giáo dục giới trẻ hiện nay đang là vấn
đề cấp thiết được cả xã hội quan tâm.


2.2. Trong gia đình:
Trong gia đình tồn tại rất nhiều mối quan hệ, quan hệ ba mẹ - con cái, quan hệ ông
bà – cháu, quan hệ anh, chị - em,... Học sinh về nhà có rất nhiều vai trò, vai trò làm con,
làm cháu, làm em (hoặc làm anh, chị) vì vậy có được một văn hóa ứng xử phù hợp với
từng vai của mình.

Ngày nay, xã hội ngày càng phát triển, văn hóa ứng xử của học sinh trong gia đình
cũng có nhiều thay đổi. Trong bối cảnh kinh tế -xã hội của đất nước Việt Nam đang
chuyển động theo cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế, mặt tích cực phù hợp với quy
luật khách quan rất lớn nhưng mặt trái của nó cũng rất đa dạng, phong phú và có khi khá
nặng nể trong mối quan hệ giữa gia đình và con cái. Đó là sự thay đổi về mức sống và thu
nhập; do cạnh tranh trên thương trường quá căng thẳng dẫn đến có một khoảng cách giữa
cha mẹ và con cái dẫn đến có nhiều trường hợp chiều con quá mức, biến con “thành bố,
thành mẹ”, tốn rất nhiều tiền chạy trường, chạy lớp, chạy điểm cho con khiến cho ý thức
trách nhiệm trong con mờ dần nhường chỗ cho tính ỷ lại có khi rơi vào ích kỷ cực đoan.
Ngày nay, có nhiều người con người cháu đối xử tàn nhẫn, thậm chí còn đánh đập
ông bà cha mẹ, anh chị em tranh giành tài sản, đối chọi nhiều khi còn dẫn tới đánh nhau,
không nhìn mặt nhau. Có rất nhiều bài báo đã đề cập đến vấn đề này, đây quả thực và

một chuyện rất đáng buồn trong cách ứng xử giữa người thân với nhau. Đã có nhiều vụ
cộng đồng người dùng mạng Internet phải “ném đá” những kẻ sử dụng mạng xã hội để


nói xấu người thân của mình, lăng mạ chính bố mẹ mình. Xem đấng sinh thành ngang
hàng như bạn bè, lời lẽ vô lễ, câu chửi thề để xả giận. Hành động này bị cộng đồng phản
ứng dữ dội.

2.3. Trong xã hội
Thay vì gặp nhau ngoài đời thực để thăm hỏi, nói chuyện thì không ít bạn trẻ suốt
ngày dán mắt vào màn hình máy tính để nói chuyện. Mọi nhu cầu giải trí, giao tiếp đều
được mạng xã hội thỏa mãn… Lượng bạn bè đông đảo trên mạng xã hội đã thay thế cho


bạn bè trong đời thực, mặc dù phần lớn bạn bè trong danh sách đều là những người họ
chưa từng gặp gỡ và trò chuyện ngoài đời.
Bên cạnh những mặt tích cực của mạng xã hội đem lại như chia sẻ thông tin, hình
ảnh; gắn kết mọi người lại với nhau; trao đổi, học tập hoặc thảo luận các vấn đề mọi mặt
của xã hội,... Tuy nhiên những vấn đề tiêu cực khi sử dụng mạng xã hội hiện nay cũng
tương đối phổ biến. Đó là tình trạng dùng mạng xã hội để tuyên truyền các nội dung,
hình ảnh không lành mạnh; nói xấu, chửi bới với những ngôn từ thiếu văn hóa,...
Không chỉ dùng mạng xã hội như nơi để trút giận, nhiều nhóm còn lập các nhóm
để hạ nhục, nói xấu bạn bè. Chỉ vì hiểu nhầm hay xích mích, hội những người “ghét”, “
kỳ thị”,... cứ thế lên mạng xã hội cho ra đời các nội dung để lôi kéo các thành viên hùa
theo, các hội này còn đăng ảnh cùng thông tin cá nhân của “nạn nhân” lên để chửi bới.
Hành vi không đẹp này nhận được nhiều bức xúc và phản hồi của cộng đồng dùng mạng
xã hội hiện nay.

Nhiều học sinh biết hút thuốc nơi cộng cộng là không được phép, không lịch sự,
biết xả rác ra đường là hành vi xấu… nhưng vẫn làm, đặc biệt là khi không có ai nhìn

thấy. Thậm chí ngay chốn đông người như ở ngã tư hay trên xe buýt, một số học sinh vẫn
cư xử thiếu văn hóa, như vượt đèn đỏ, tranh chỗ. Có lẽ họ nghĩ sẽ khó có dịp gặp lại lần


thứ hai những người cùng ngồi chung xe, hay
đứng tại ngã tư với mình, nên không việc gì
phải “nhìn trước ngó sau”, giữ ý. Chuyện nói
lời xin lỗi khi vô tình đụng phải người khác có
lẽ với nhiều người là xa xỉ.
CHƯƠNG 3: BIỆN PHÁP GIÁO DỤC
VĂN HÓA ỨNG XỬ CHO HỌC SINH
TRONG TRƯỜNG HỌC
-

Thứ nhất, phải thiết lập được mối quan hệ bền vững giữa gia đình – nhà trường –
xã hội.
Trong cuộc sống chúng ta luôn có những khó khăn vì nhiều lí do khác nhau. Cha

mẹ phải chăm lo cuộc sống vật chất và tinh thần cho gia đình nên đôi lúc không thể có
được thời gian theo sát con cái để có những biện pháp giáo dục thích hợp hướng con
mình theo cái tốt, cái thiện. Do vậy, cha mẹ muốn con trở thành công dân tốt phải tạo sự
gắn kết với nhà trường (đặc biệt là thường xuyên liên lạc với giáo viên chủ nhiệm) và xã
hội. Với nhà trường thì phải không ngừng liên lạc với phụ huynh (nhất là những học sinh
yếu kém, thường vi phạm nội qui, nề nếp…) để hiểu nhiều hơn về học sinh và có giải
pháp khắc phục hữu hiệu. Đồng thời cả gia đình, nhà trường và xã hội phải có sự kết nối
và thống nhất trong các hoạt động vui chơi giải trí và biện pháp giáo dục trẻ. Nhà nước
phải can thiệp và quản lý những hoạt động văn hóa - xã hội, đảm bảo tạo môi trường sống
lành mạnh cho trẻ. Chính vì thế, chúng ta phải đặt quan hệ giữa gia đình, nhà - trường xã hội trong mối quan hệ biện chứng không thể tách rời nhau. Đây là giải pháp cơ bản
nhất để hoàn thiện việc giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ hiện nay.
-


Thứ hai, phải tạo một môi trường sống, môi trường giao tiếp và học tập tốt ở gia
đình, nhà trường và xã hội.
Đây là một trong những yếu tố cần thiết cho sự phát triển nhân cách ở học sinh.

Có môi trường sống, làm việc và học tập tốt, học sinh sẽ ít có cơ hội trở thành người xấu,


thcj hiện những hành vi thiếu văn hóa. Hiện nay, môi trường sống xung quanh rất phức
tạp, luôn diễn ra những tệ nạn xã hội ảnh hưởng không tốt đến việc hình thành tư tưởng,
lối sống của học sinh. Do vậy, bản thân của các bậc phụ huynh, giáo viên phải nắm được
những hoạt động văn hóa, thương mại, các trò chơi giải trí và con người xung quanh nhà
và trường. Vì chính môi trường xã hội gần gũi này trực tiếp ảnh hưởng và góp phần hình
thành và hoàn thiện nhân cách của học sinh. Nếu môi trường xung quanh phức tạp thì
chúng ta sẽ có những biện pháp phòng ngừa để ngăn chặn những hậu quả xấu xảy ra đối
với học sinh.
-

Thứ ba, những người giáo dục phải gương mẫu, hiểu tâm sinh lý của học sinh và
có tâm huyết với việc giáo dục trẻ thành công dân tốt.
Cha mẹ, giáo viên phải luôn là tấm gương sáng cho học sinh noi theo, có những

hình thức khen thưởng và xử phạt công bằng giữa các thành viên, không phân biệt đối xử
giữa các con và các học sinh; phải biết cách khen chê đúng lúc, nên khen nhiều hơn chê
để động viên và khích lệ trẻ. Cha mẹ và Thầy Cô phải đặt mình vào vị trí của học sinh,
phải hiểu được tâm sinh lý của học sinh để có những phương pháp giáo dục đúng đắn phù
hợp cho từng đối tượng họcsinh.
Chúng ta phải có sự hòa nhập và hợp tác với chúng, vừa là các bậc tiền bối, cũng vừa là
những người bạn và vừa là những nhà tư vấn tâm lý đáng tin cậy để chúng có thể chia sẽ
những vui buồn và những bế tắt trong cuộc sống, trong học tập và trong các mối quan hệ

bạn bè và xã hội khác.
-

Thứ tư, chúng ta phải giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh ngay từ nhỏ và giáo
dục phải thường xuyên, suốt đời; phải theo dõi các mối quan hệ của học sinh và
giáo dục giá trị sống, kỹ năng sống cho học sinh, lý tưởng sống và lòng yêu nước.
Việc giáo dục văn hóa ứng xử cho một học sinh thì nhà trường phải chú trọng ngay

từ khi trẻ mới hình thành nhận thức, đó là những lúc ở nhà và việc giáo dục văn hóa ứng
xử ở trẻ bắt đầu từ các cấp học. Quan trọng nhất là nền tảng giáo dục ở cấp Tiểu học vì
đây là những buổi học đầu tiên mà học sinh làm quen với môi trường giáo dục. Có lẽ ở


nhà các em được cưng chiều nhiều nên khi vào học quí Thầy Cô sẽ là những người dạy
cho các em lẽ sống công bằng, phân biệt đúng - sai và phải làm đúng theo lẽ phải, dạy
cho các em hiểu vai trò, trách nhiệm của một người con trong gia đình và cách giao tiếp
văn hóa trong xã hội,… Ở bậc Trung học cơ sở là thời điểm các em có sự chuyển biến về
tâm sinh lý và luôn hiếu kỳ, tò mò, muốn khám phá thế giới xung quanh. Vì vậy, chúng ta
phải dạy cho học sinh cách tiếp cận và thu nhận thông tin từ thực tiễn cuộc sống và vận
dụng nó một cách đúng đắn vào cuộc sống. Đối với học sinh Trung học phổ thông, đây là
giai đoạn các em phát triển khá hoàn thiện về mọi mặt, nhận thức đã sâu sắc và chín chắn
hơn, tuy nhiên các em vẫn còn những suy nghĩ bồng bột, nông cạn nên dễ bị lôi kéo kích
động dẫn tới việc hành xử thiếu văn hóa. Do vậy việc dạy chữ và dạy người cho học sinh
phải xuyên suốt từ cấp thấp đến cấp cao, không gián đoạn.
-

Mỗi giáo viên phải không ngừng trau dồi, tu dưỡng để trở thành tấm gương về trí
tuệ và nhân cách cho học sinh. Về tri thức, người thầy chỉ nên coi mình là người đi
trước trong quá trình dạy, không áp đặt mà cần đối thoại, gợi ý, hướng dẫn, tạo
cảm hứng, nhiệt tình, đam mê học tập sáng tạo của học sinh. Về nhân cách, phải

giáo dục học sinh bằng chính nhân cách đạo đức của mình, cụ thể nhất là phải đối
xử công bằng với mọi học sinh, quan tâm đúng mực, giải quyết vấn đề có tình có
lý.


KẾT LUẬN
Đối với nước ta, trong bối cảnh xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh, với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vấn đề
văn hóa ứng xử cá nhân được xác lập trên cơ sở tôn trọng giá trị tinh thần phải bình đẳng
với giá trị vật chất, có sự hài hòa giữa lợi ích cộng đồng và lợi ích cá nhân, giữa lý tưởng
và hiện thực. Ý thức tự giác cá nhân có khi quyết định vận mệnh con người. Không thể
một lúc cải tạo được toàn xã hội, nhưng có thể và cần phải tu dưỡng từng bước gập ghềnh
của mỗi cá nhân. Đòi hỏi cao của bản thân mình là dấu hiệu văn hóa. Xưa nay dân tộc ta
vẫn có câu “Tiên học lễ, hậu học văn”. Muốn trở thành một người công dân tốt, thành
công trong công việc cũng như trong cuộc sống, mỗi người chúng ta cần phải có một
hành vi ứng xử văn hóa vì vậy trường học cần là một cái nôi để hình thành và nuôi dưỡng
văn hóa ứng xử cho học sinh. Công tác giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh trong giai
đoạn hiện nay càng đặt ra yêu cầu, nhiệm vụ cao hơn, cần thiết hơn khi toàn Đảng, toàn
dân ta đang tích cực tham gia cuộc vận động " Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh ". Nó sẽ là nguồn lực tinh thần to lớn để thực hiện thành công sự nghiệp
công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Giáo dục văn hóa ứng xử cho học sinh là trách
nhiệm của toàn xã hội, trong đó giáo dục ở nhà trường có vai trò định hướng. Đó là sứ
mệnh lịch sử, là vinh dự và trách nhiệm mà xã hội giao cho nhà trường và mỗi chúng ta
nói riêng, ngành giáo dục và đào tạo nói chung.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 ."Giáo dục học đại cương" của Nguyễn Văn Lê, Nguyễn Sinh Huy- NXB Giáo
dục.
2. Giáo trình "Giáo dục hoc, tập 2" của Trần Thị Tuyết Oanh, Phạm Khắc


Chương, Phạm Viết Lượng, Nguyễn Văn Diện, Lê Tràng Định, NXB Đại
học Sư Phạm, 2007.
3. www vnies.edv.vn.
4. wwwtamly.com.
5. Viện khao học giáo dục Việt Nam.
6. Tài liệu tổng hợp.com.
7. Doc.edu.vn.
8. " Giáo dục học, tập 1" của Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt- NXB Giáo dục.
9. " Vấn đề con người trong công cuộc đổi mới " của Phạm Minh Hạc.
10. "Công nghệ giáo dục, tập 1" của Hồ Ngọc Đại - NXB Giáo dục 1994.
11. " Về vấn đề giáo dục " của Hồ Chí Minh- NXB Giáo dục



×