TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG
KHOA KHOA HỌC TỰ NHIÊN
NGUYỄN THỊ THÙY LINH
NGHIÊN CỨU THÀNH PHẦN HÓA HỌC CẶN CHIẾT
n-HEXANE QUẢ CÂY TRÂU CỔ (Ficus pumila L.)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Ngành: Sư phạm Hóa học
Phú Thọ, 2019
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG
KHOA KHOA HỌC TỰ NHIÊN
NGUYỄN THỊ THÙY LINH
NGHIÊN CỨU THÀNH PHẦN HÓA HỌC CẶN CHIẾT
n-HEXANE QUẢ CÂY TRÂU CỔ (Ficus pumila L.)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Ngành: Sư phạm Hóa học
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: ThS. Nguyễn Thị Bình Yên
TS. Triệu Quý Hùng
Trường Đại học Hùng Vương
Phú Thọ, 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận này là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi, do tôi đã nỗ lực nghiên cứu trong quá trình học tập và làm thí
nghiệm tại trường dưới sự hướng dẫn nhiệt tình của Ths. Nguyễn Thị Bình
Yên và TS. Triệu Quý Hùng. Trong quá trình viết, tôi đã tham khảo một số
tài liệu và đã được trích dẫn đầy đủ trong khóa luận.
Sinh viên
Nguyễn Thị Thùy Linh
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình viết, em đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ để hoàn
thành tốt khóa luận của mình.
Trước tiên em xin được gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới
ThS. Nguyễn Thị Bình Yên và TS Triệu Quý Hùng là người cô, người thầy
đã luôn nhiệt tình hướng dẫn, chỉ bảo, truyền đạt kinh nghiệm cho em trong
suốt quá trình thực hiện khóa luận này.
Em xin gửi lời cảm ơn tới Ban lãnh đạo Trường Đại học Hùng Vương,
các quý thầy cô Trường Đại học Hùng Vương đã tạo điều kiện giúp đỡ em
trong suốt thời gian qua.
Em xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè, các bạn sinh viên K13ĐHSP Hóa học Trường Đại học Hùng Vương đã luôn động viên, hỗ trợ em
trong suốt quá trình học tập và hoàn thành khóa luận.
Sinh viên
Nguyễn Thị Thùy Linh
-5-
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
• Các phương pháp sắc ký
TLC
CC
Thin Layer Chromatography: Sắc ký lớp mỏng
Column Chromatography: Sắc ký cột
• Các phương pháp phổ cộng hưởng từ hạt nhân
1
H-NMR
13
C-NMR
DEPT
Proton Nuclear Magnetic Resonance Spectroscopy:
Phổ cộng hưởng từ hạt nhân proton
Carbon-13 Nuclear Magnetic Resonance Spectroscopy:
Phổ cộng hưởng từ hạt nhân carbon 13
Distortionless Enhancement by Polarisation Transfer:
Phổ DEPT
s: singlet (vạch đơn)
t: triplet (vạch ba)
• Tên của các hợp chất được viết theo nguyên bản Tiếng Anh
-6-
DANH MỤC CÁC BẢNG
-7-
DANH MỤC CÁC HÌNH
MỤC LỤC
-8-
-9-
MỞ ĐẦU
1.Lí do lựa chọn đề tài
Trước đây, khi mà Tây y chưa xâm nhập và phát triển ở nước ta thì
những bài thuốc trong dân gian dường như đã gắn liền với đời sống của nhân
dân Việt Nam. Trong quá trình đất nước phát triển, nhân dân đã đúc kết được
nhiều bài thuốc vô cùng quý báu, phát hiện được nhiều cây thuốc ngay cạnh
nhà có giá trị cao trong y học. Đó là hệ thống y Dược học cố truyền lúc bấy
giờ. Đất nước càng phát triển thì yêu cầu về chất lượng càng cao. Vì vậy để
kế thừa và phát triển nguồn thực vật làm thuốc có sẵn nhằm nâng cao hiệu
quả trong y học, cần phải nghiên trên cơ sở khoa học một cách chính xác, đầy
đủ và toàn diện.
Khí hậu nước ta nói chung rất độc đáo: khí hậu nóng nhưng không khô
hạn như Tây Nam Á, Bắc Phi. Nóng ẩm nhưng không nóng ẩm quanh năm
như các quần đảo ở Đông Nam Á. Đặc biệt hoạt động mạnh mẽ của gió mùa,
tác động của biển Đông đã mang đến cho nước ta lượng mưa và độ ẩm dồi
dào. Lượng mưa trung bình từ 1500-2000mm/năm, những nơi có sườn núi
đón gió biển hoặc núi cao-lượng mưa tới 3500-4000mm/năm. Độ ẩm không
khí tương đối cao trên 80%. Riêng Bắc Bộ quanh năm có nhiệt độ tương đối
cao và ẩm, nền khí hậu chịu ảnh hưởng từ lục địa Trung Hoa chuyển qua và
mang tính chất khí hậu lục địa. Trong khi một phần khu vực Duyên hải lại
chịu ảnh hưởng tính chất khí hậu cận nhiệt đới ấm và gió mùa ẩm từ đất liền,
tạo điều kiện vô cùng thuận lợi cho sự phát triển của nhiều loài sinh vật.
Theo các tài liệu thống kê, Việ Nam là một trong 25 nước có độ đa dạng
sinh học cao trên thế giới với dự tính có thể có tới 15.000 loài thực vật. Việt
Nam được xếp thứ 16 về mức độ đa dạng sinh học (chiếm 6,5% số loài có
trên thế giới. Hiện nay đã ghi nhận nước ta có 13.766 loài thực vật, trong đó
có trên 3.200 loài thực vật được sử dụng làm thuốc trong Y học dân gian. Đây
-10-
chính là cơ sở để nước ta phát triển tiềm năng về nghiên cứu các hợp chất
thiên nhiên có trong các loài tực vật [1]., [2]., [3]..
Trong vô số các loài thực vật ở Việt Nam, có nhiều loài cây thuộc chi F.
pumila L. và các loài này đã được sử dụng nhiều trong y học cổ truyền. Chi
Ficus ở Việt Nam có 99 loài và nhiều loài này đã được sử dụng như làm thuốc
giảm đau, thanh nhiệt, cầm máu, trị ghẻ lở; một số loài còn dùng quả để bồi
bổ sức khỏe,...[1].. Cây Trâu cổ cũng là một trong số các cây thuốc thuộc loài
này và đã được sử dụng ở nước ta. Một thí nghiệm gần đây trên chuột nhắt,
polysaccharid của quả trâu cổ vói liều 416,6 mg/kg, tiêm xoang bụng hoặc
tiêm dưới da liên tục 10 ngày có tác dụng ức chế nhiều loại tế bào ung thư đã
được cấy ghép trên chuột, mạnh nhất đối với sarcom lympho I và sarcom 180.
Thí nghiệm trên chuột nhắt trắng, polysaccharid có tác dụng tăng cường phản
ứng miễn dịch của chuột cả ở lô bình thường và lô đã được cấy ghép khối u
cũng như lô đã cấy ghép khối u đang dùng hóa trị liệu hoặc xạ trị liệu
(radiotherapy). Thuốc làm tăng số lượng tế bào sinh kháng thể ở lách, tăng
cường tác dụng thực bào của các macrophage ở xoang bụng, đồng thời làm
tăng số lượng bạch cầu máu ngoại vi [9]., [10]..
Quả trâu cổ còn là một vị thuốc bổ được nhân dân dùng từ lâu đời để
chữa dương ủy di tinh, liệt dương, đau lưng, lỵ lâu ngày thoát giang, tắc tia
sữa,....Nhưng đến nay vẫn chưa có tài liệu nào công bố về thành phần hóa học
của quả cây Trâu cố. Và đặc biệt, trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu đã
phát hiện loại cây này cũng có ở nhiều nơi tại Tỉnh nhà và xuất hiện nhiều
trong khuôn viên Trường Đại học Hùng Vương Cơ sở Phú Thọ, tạo điều kiện
thuận lợi trong việc thu hái và nghiên cứu.
Xuất phát từ các lý do trên, nhằm mục tiêu tìm kiếm các hợp chất thiên
nhiên từ các loài thực vật của Việt Nam, góp phần làm sáng tỏ thành phần hóa
học và tạo cơ sở khoa học cho việc sử dụng các loài thực vật, tôi lựa chọn
nghiên cứu khóa luận “Nghiên cứu thành phần hóa học cặn chiết n-hexane
quả cây Trâu cổ (Ficus pumila L.)”
-11-
2. Mục tiêu đề tài
- Điều chế cặn dịch chết n-hexane của cây Trâu cổ
- Phân lập hợp chất thứ cấp từ 1 -2 phân đoạn nhỏ của dịch chiết nhexane của cây Trâu cổ.
- Xác định cấu trúc hợp chất thứ cấp phân lập được bằng các phương
pháp phổ cộng hưởng từ hạt nhân, phổ khối lượng.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Ý nghĩa khoa học: Các kết quả nghiên cứu được sẽ cung cấp phần lớn
thông tin cho việc nghiên cứu hóa học các hợp chất hữu cơ như: kĩ thuật
ngâm chất, tách chất, xử lí phân đoạn chất,... Đặc biệt là xác định được cấu
trúc hợp chất và các hoạt tính sinh học của chất có trong cây Trâu cổ.
- Ý nghĩa thực tiễn: Việc nghiên cứu trên thực nghiệm sẽ cung cấp cơ sở
khoa học định hướng cho việc nghiên cứu. Cung cấp tài liệu phục vụ cho
nghiên cứu hóa học các hợp chất thiên nhiên nói chung và việc nghiên cứu về
thành phần hóa học cây Trâu cổ nói riêng.
-12-
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1 Giới thiệu về chi F.pumila L.
Theo tác giả Võ Văn Chi [1]., chi Trâu cổ (F.pumila L) thuộc họ Dâu tằm
(Moraceae) [Tên Latin của cây, biến âm của chữ sakon: Tên Hy Lạp của cây
Sung ngọt] – Sung, Vả, Đa. Nhóm này ưa khí hậu nhiệt đới và nóng, phân bố
chủ yếu ở vùng Ấn Độ, Mã Lai .Tính đến nay có khoảng 800 loài. Riêng ở
Việt Nam có 99 loài và nhiều loài được biết đên từ lâu như một vị thuốc quý
báu.
Theo các nghiên cứu loài Ficus L ở dạng cây gỗ lớn, cây nhỡ hay dây
leo, có dịch như sữa. Cây Trâu cổ có lá mọc so le hay mọc đối, nguyên, chia
thùy hoặc có răng; lá kèm thường rụng sớm. Quả của cây trâu cổ hay còn gọi
là cây vẩy ốc hay cây xộp. Nguời Tày quen gọi là cây mác pốp.
Tên gọi Đông y của quả Trâu cổ là lương phấn quả, bị lệ thực hay
vương bất lưu hành. Quả non phơi khô còn gọi bị lệ lạc thạch đằng.Theo
nghiên cứu, trong vỏ quả Trâu cổ có chứa đến 13% chất gôm. Khi tiến
hành thuỷ phân sẽ cho ra các phân tử đường đơn gồm glucose, arabinose
và fructose. Bộ phận thân và lá có chứa amyrin, mesoinositol, taraxeryl
acetate, sitosterol. Phần hạt trong quả có chứa chất polysaccharid.
F.abelii Miq –Sung chè, Rù rì.
Loài sung chè, Rù rì phân bố ở Ấn Độ, Mianma, Trung Quốc, Việt Nam,
Lào. Ở nước ta có gặp từ Lạng Sơn, Hà Tây, Thanh Hóa vào Thừa Thiên –
Huế. Loài này thường ở dạng bụi cao 1-2m. Lá các loài sung chè mọc so le,
hình trứng ngược thuôn hay hình dải, dài 4-8cm, rộng 1-2cm, mặt trên bóng,
mặt dưới đầy lông xám, gốc nhọn hay tù tròn, cành và cuống lá có lông dày
xám. Cụm hoa hình trứng ngược tròn hay hình quả lê, hoa đực có 3-5 lá đài, 1
nhị; hoa cái có 4 lá đài.Có hoa quả vào tháng 11. Cây thường mọc dọc bờ suối
và trên các ngách đá ven suối khắp nước ta
-13-
F.carica L. – Sung ngọt, Vả tây.
Loài Vả tây có xuất xứ từ vùng khô hạn Trung Á,sinh trưởng tự hiên tại
những vùng núi lửa ở Iran nhất là vùng núi Kohestan của vùng Khorasan. Cây
thuộc nhóm cây gỗ nhỏ, thân cao từ 3-10cm, vỏ cây màu nâu xám, cuống là
cứng, thân hợp trục, cành nhán thẳng. Lá và búp màu đỏ, sớm rụng. Lá chất
liệu dai, có lông, mặt trên xanh thẫm, mặt dưới xanh nhạt và hơi ráp. Hệ gân
của lá có từ 2-4 cặp gân sơ cấp và 5-7 cặp gân thứ cấp từ mõi gân sơ cấp. Quả
có dạng hình trụ hay cầu, to, dạng như quả lê, màu sắc có thể thay đổi khi
chín. Có quả từ tháng 5 đến tháng 7 hàng năm.
F.altissima Blume – Đa tía, Đa.
Đây là một loài thực vật có hoa, Ficus altissima là loài bản địa ở Đông
Nam Á và nhiều hòn đảo ở Thái Bình Dương. Phạm vi của nó bao gồm các
quần đảo Andaman, Myanmar, Thái Lan, Việt Nam, Lào, Nam Trung Quốc và
khu vực Malesia. Lá cây mọc so le cứng hoặc hơi dai, hoàn toàn nhẵn, dài 416cm, rộng 4-8cm, có 3-5 gân gốc; cuống khá to, hơi hẹp, có rãnh, dài 2,53,5cm. Quả sung trên những nhánh có lá, hình trứng, không cuống, dài 2cm,
rộng 1,5cm, khi chín màu tím. Có hoa và quả vào khoảng tháng 2 đến tháng 5.
Loài này được Blume mô tả khoa học đầu tiên năm 1825, lần đầu tiên được
mô tả bởi nhà thực vật học người Hà Lan Carl Ludwig Blume năm 1826 từ
Java. Cây mọc khắp nơi ở nước ta, từ vùng thấp cho tới vùng cao, đến độ cao
1500m, và cũng thường được trồng lấy bóng mát ở các tỉnh Lạng Sơn, Vĩnh
Phú, Hà Nội, Hà Tây, Ninh Bình, Thanh Hoá, Gia Lai, Khánh Hoà, Ninh
Thuận,Đồng Nai,…
F.erecta Thunb.Var.BeecheyanaKinh - Sung thiên tiên.
Theo y học cổ truyền, dược liệu Sung thiên tiên Rễ khư phong, trừ thấp;
quả sung có tác dụng noãn hạ, nhuận tràng. Cây nhỡ hoặc cây gỗ, cao 1-8m,
cành to 5mm, lúc non có lông nằm. Lá dài từ 7-18cm, rộng 3,5-9cm, đầu nhọn
và có phiến bầu dục thon. Gốc hẹp hình tim, gân từ gốc chạy đến 1/2 phiến,
-14-
gân phụ khác 5 cặp; cuống dài 1,5cm. Quả sung tròn tròn, đường kính 11,8cm, trên cuống dài 2,3cm; bao chung có 3 lá bắc nhỏ; hoa đực rải rác, có 3
lá bắc, 2-3 nhị; hoa cái có 3 lá đài, vòi nhuỵ dài; quả bế 1-3mm. Ở Trung
Quốc, rễ cây được dùng chữa phong thấp đau nhức xương còn quả sung dùng
chữa chứng trĩ. Loài này thường thấy ở Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan và
Việt Nam.
F.hirta Vahl – Vú bò, Ngái lông.
Cây này còn có tên khác như: Ngái khỉ, Ngõa khỉ, Vú bò lông. Phân bố
chủ yếu ở Bắc Giang, Sơn La, Hòa Bình. Loài cây này mọc tự nhiên trong các
mảng thứ sinh và những nơi ẩm, lầy. Thường ra hoa và quat từ tháng 12 đến
tháng 2 hàng năm. Được biết đến với các công dụng như: trị thấp khớp, cam
trẻ em,… và cả cây có thể dùng làm thuốc, không chỉ riêng lá, quả hay rễ.
Đây là loài cây thân nhỡ hay cây nhỏ, có nhựa mủ, cao 2-8m; cành, lá, cuống
lá và hoa đều có lông hoe dày. Lá cây có dạng hình bầu dục, hay xoan ngược,
phiến đơn hay chia 3 thùy, dài 8-25cm, rộng 4-13cm. cuống 2,5-5cm, có lông
dày, cứng.
F.sumatrana Miq.var.sub sumatranaCorner – Đa cừa, Cừa.
Cây được phân bố từ Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế Gia Lai.
Ngoài dùng làm cảnh thì nhựa của cây còn được dùng để cầm máu. Cây ra
hoa vào khoảng tháng 7 đến tháng 10. Là loại cây gỗ cao 20m, nhánh non khá
mảnh, dây 3-5mm. Lá cây dài 5-10cm, rộng 3-5cm, rất nhẵn, dai, hình bầu
dục, tù hay tròn ở gốc, hơi thót lại ở đầu tù; cuống lá dài 15mm, dẹp; mép
nguyên; gân gốc 3, gân phụ 5 đôi, dính nhau với gân mép, không có rãnh,
rộng 2,5mm. Lá kèm của cây có hình ngọn giáo nhọn, dài 15-18mm.
F.elastica Roxb.Ex Horn– Đa búp đỏ.
Đa búp đỏ còn gọi là Đa cao su hay Đa dai. Có hoa quả vào tháng 1 đến
tháng 3. Là loại cây gỗ thường xanh cao rất cao (35cm). Đường kính thân lớn
tới 70cm. Lá to, hình trái xoan hoặc bầu dục, dày và dai. Lá kèm tạo ra một
búp đỏ bao lấy chồi ngọn. Cụm hoa hình cầu dẹt, thường mọc ở nách lá, cụm
-15-
quả chín rất dễ nát, khi chìn thường có màu vàng lục. Ở nước ta cây mọc dại ở
những nơi rừng núi hoặc được trồng làm bóng mát ở thôn làng. Quả cây còn
có thể dùng làm thức ăn cho cá vì vậy ta thường thấy cây được trồng quanh ao
hồ. Trên thế giới, loài cây này có ở Ấn Độ, Nepan, Mianma, Malaixia,
Inđônêxia.
F.pumila L– Trâu cổ, Sộp, Vẩy ốc.
Cây Trâu cổ còn gọi cây xộp, vẩy ốc, bị lệ, mác pốp (cách gọi của dân
tộc Tày và Nùng). Trâu cổ là loại dây leo, mọc bò với rễ phụ bám lên đá, bờ
tường hay cây cổ thụ. Toàn thân có nhựa mủ trắng. Lá mọc so le; ở các cành
có rễ bám thì lá nhỏ, không có cuống, gốc lá hình tim.
,
Quả trâu cổ có vị ngọt, mát, tính bình. Lá và cành vị chua chát, tính
mát có tác dụng thông tiện,lợi sữa . Dây leo bò với rễ bám, có mủ trắng lúc
cây còn non, có những nhánh bò mang lá không có cuống, gốc hình tim, nhỏ
như vẩy ốc, ở dạng trưởng thành, có những nhánh tự do mang lá lớn hơn và
có cuống dài. Cụm hoa có đế hoa bao kín dạng quả sung, khi chín có màu đỏ
vào mùa tháng 5-10.
Trong vỏ quả (đế của cụm hoa dạng Sung) có tới 13% chất gôm, khi
thuỷ phân cho glucose, fructose và arabinose. Trong thân và lá có một số chất
như: Mesoinositol, b- sitosterol, Taraxeryl aceatate, b- amyrin. Quả được
dùng trị lỵ lâu ngày, kinh nguyệt không đều, ít sữa, tắc tia sữa, viêm tinh
hoàn, phong thấp, ung thũng, cũng dùng cho người bệnh di tinh, liệt dương,
đái ra dưỡng trấp. Dây, rễ dùng trị phong thấp tê mỏi, sang độc, ung nhọt và
kinh nguyệt không đều. Lá được dùng trị viêm khớp xương, nhức mỏi chân
tay, đòn ngã tổn thương cũng dùng trị đinh sang, ngứa lở.
1.2 Đặc điểm thực vật của cây Trâu cổ
Loài Trâu cổ còn được gọi với cái tên khác như Vương bất lưu hành, cây
xộp, cây vẩy ốc,…. Vừa là một loại cây cảnh lại vừa là một loại cây có nhiều
công dụng qúy.
-16-
Trâu cổ là một loài dây leo bò với rễ bám. Rễ cây mọc xung quanh các
đốt, bám trên các tảng đá, tường gạch lâu ngày hay sống bám trên các thân
cây khác. Đường kính của thân trung bình vào khoảng 3-5mm. lõi cây hóa gỗ,
vỏ thân xù xì, kích thước từng đốt khác nhau [1]..
Lúc còn non cây có mủ trắng, có những nhánh bò mang lá không có
cuống, gốc hình tim, nhở như vẩy ốc. Cụm hoa có đế bao kín dạng quả sung,
khi chín thường có màu đỏ.Loài này thường có hoa quả vào khoảng tháng 5
đến tháng 10. Ở vùng Ấn Độ - Malaixia nơi mà cây Trâu cổ phân bố chủ yếu,
người ta thường dùng quả thu hái vào mùa thu, thái nhỏ. Còn cành non, thân
non có thể thu hái quanh năm, dung tươi sẽ có công dung hơn so với phơi
khô. Lá thân được gọi là Bị lệ lạc thạc đằng, còn quả thường gọi là Vương bất
lưu hành đều là những dược liệu quý. Ngoài ra, ở một số nơi họ còn dùng cả
nhựa cây [3]..
Quả Trâu cổ thường đơn độc ở nách lá, dạng phức lớn, hình chóp
ngược, màu đỏ sẫm khi chín, mềm, nạc thơm, thường có vị ngọt, chát, tính
bình. Cây rất dễ sinh trưởng và phát triển mà không cần chăm sóc, ưa ẩm,
mát, đủ ánh sáng, dễ sống. Qủa Trâu cổ thường được thu hoạch vào mùa thu,
dài khoảng 30-40 mm, đường kính khoảng 25-30mm [1]., [3]..
1.3 Các nghiên cứu về hóa thực vật chi Ficus
Dựa trên các tài liệu tham khảo cho thấy đến nay vẫn chưa có công trình
khoa học nào công bố chi tiết về thành phần hóa học của cây Trâu cổ.
Theo Từ điển thực vật thông dụng của tác giả Võ Văn Chi chỉ ra cho
thấy cây Trâu cổ có chứa steroid như β – sitosterol (1) [1]..
-17-
Công trình công bố trên thế giới năm 2012, cho thấy nhóm các hợp chất
terpenoid lupeol (2), guaiazulene (3), cadalene (4); flavonoid như quercitin
(5), alkaloid như dopamine (6), adrenaline (7), serotonin (8); các hợp chất
coumarin như umbeliferone (9) đã được phân lập từ một số loài thuộc chi
Ficus [12]..
Năm 2014, nhóm tác giả Đài Loan đã phân lập được một số hợp chất
thiên nhiên 4-(2-hydroxyethyl)-2-methoxyphenol (10), meso-2,3-butanediol
(11), (2R,3R)-2,3-butanediol (12), (2S,3S)-2,3-butanediol (13) từ quả xanh
loài Ficus nota [15]..
-18-
Năm 2016 nhóm tác giả Malaysia Shukranul Mawa đã phân lập được
hợp chất triterpenoid 28,28,30-trihydroxylupeol (14) từ thân cây Ficus
aurantiaca Griff [14]..
Ở Việt Nam, năm 2017, tác giả Phạm Thị Nhật Trinh và cộng sự đã tách
được hợp chất isoquercitrin (15) cùng nhiều hợp chất khác từ lá cây Ficus
pumila L. Kết quả này đã được nhóm nghiên cứu công bố trên tạp chí Natural
Products Research [16]..
Cũng trong năm 2017, tác giả Đào Thị Hải Yến trong nhóm nghiên cứu
của Trường Đại học Hùng Vương khi nghiên cứu về cây Trâu cổ đã phân lập
được hợp chất β-Sitosterol (16) từ cặn chiết n-hexane của lá cây Trâu cổ [11]..
-19-
Gần đây nhất vào năm 2018, trong nhóm nghiên cứu của Trường Đại học
Hùng Vương về cây Trâu cổ, tác giả Hoàng Hương Ly đã phân lập được hợp
chất Taraxerol (17) từ cặn chiết n-hexane lá cây Trâu cổ. Đây là hợp chất
triterpenoid khung taraxerane lần đầu tiên được phân lập từ chi Ficus [4].
(17)
-20-
CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1 Đối tượng nghiên cứu
Mẫu cây Trâu cổ được thu hái tại khuôn viên Trường Đại học Hùng
Vương, cơ sở Thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ. Mẫu tiêu bản cây kí hiệu
QHT_01 được lưu giữ tại Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật-Viện Hàn lâm
Khoa học và Công nghệ Việt Nam và tại Bộ môn Hóa học - Khoa Khoa học
Tự nhiên - Trường Đại học Hùng Vương.
Hình 2.1: Cây Trâu cổ
-21-
Phạm vi nghiên cứu: Các phân đoạn nhỏ dịch chiết n-hexane của quả cây
Trâu cổ.
2.2 Hóa chất và thiết bị
2.2.1 Các hóa chất sử dụng
Sử dụng các loại dung môi như n-hexane, CH2Cl2, EtOAc, MeOH,
acetone các dung môi này đều là các hóa chất kỹ thuật của Việt Nam, Hàn
Quốc được chưng cất lại và tồn trữ trong những bình thủy tinh khi sử dụng
chắt các loại dung môi ra các bình thủy tinh nhỏ tối màu có dán nhãn phân
biệt các bình đựng các loại dung môi khác nhau tránh nhầm lẫn dung môi.
Hình 2.2: Các dung môi thông dụng được dùng để phân lập các hợp chất
thiên nhiên
2.2.2 Các thiết bị nghiên cứu
Các quá trình ngâm chiết được thực hiện trong các bình thủy tinh có
dung tích 5 lít. Sau khi ngâm chiết dung môi được thu hồi lại bằng các thiết
bị: Máy cất quay chân không IKA®RV 10 của Anh: là thiết bị được sử dụng
-22-
với mục đích loại bỏ dung môi bằng phương pháp bay hơi, cô cạn các dịch
chiết mẫu chất sau khi quá trình ngâm chiết được thực hiện.
Hình 2.3: Máy cất quay dung môi IKA-RV10 của Anh
Hỗn hợp các sản phẩm được tinh chế bằng hai phương pháp: sắc ký cột
silica gel và là sắc ký lớp mỏng. Kích cỡ cột phụ thuộc vào lượng chất ít hay
nhiều: φ1; φ2; φ2,5; φ4; φ10. Chất nhồi cột sắc ký là silica gel 60 (0,063 –
0,200 mm) (70 – 230 mesh astm) đều là của Merck còn sắc ký lớp mỏng sử
dụng bình sắc ký lớp mỏng Camag của Đức và bản mỏng sắc ký tráng
silicagel 60 F254 trên tấm nhôm 20 × 20 cm của Đức.
- Các bản mỏng đế nhôm tráng sẵn Silica gel 60 F254 của hãng Merck
có độ dày 0,25 mm, bình triển khai sắc kí bản mỏng Camag.
-23-
Hình2.4 : Bình triển khai sắc kí bản mỏng
Còn dung môi được chưng cất trước khi sử dụng bằng bộ chưng cất dung
môi của hãng IKA.
Hình 2.5: Bộ chưng cất dung môi
-24-
Sau khi soi xong UV, đem bản mỏng đi thử với dung dịch thuốc thử
Ceri sunfate và thực hiện trên bếp điện đôi Gali.
Hình 2.6: Bếp điện đôi Gali
Các bước sóng UV 254, 366 nm được thực hiện trên hệ thống đèn UV
CAMAG sẽ giúp soi rõ các vệt chất trên bản mỏng.
Hình 2.7: Máy soi UV
2.3 Các phương pháp nghiên cứu
2.3.1 Phương pháp ngâm chiết
Kỹ thuật ngâm chiết không đòi hỏi thiết bị phức tạp, vì thế có thể dễ
dàng thao tác với một lượng lớn mẫu cây.
-25-
Mẫu cây sau khi phơi khô cần được say nghiền thành bột. Quá trình
nghiền làm phá vỡ màng tế bào thực vật, giúp dung môi dễ tẩm thấu vào bột
cây để dễ dàng chiết tách hết các hợp chất ra khỏi cây.
Hình 2.8 : Máy nghiền
Sau khi nghiền nhỏ, mẫu được ngâm lần lượt với các dung môi: nhexane;CH2Cl2 EtOAc; MeOH. Mỗi dung môi ngâm 5 lần, mỗi lần ngâm 5L
trong 24h, sau đó ta đem lọc. Lọc qua hai lần, lần thứ nhất là lọc vải lần thứ
hai đem phần mẫu đã qua lọc vải để lọc giấy. Phần bã cây hoặc sinh khối còn
lại được lọc bỏ.
Hình 2.9: Ngâm mẫu và mẫu chất sau khi đã lọc