Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Biện pháp dạy học tác phẩm tự sự ở trường trung học phổ thông với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (88.65 KB, 10 trang )

JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE
Educational Sci., 2014, Vol. 59, No. 8, pp. 151-160
This paper is available online at

BIỆN PHÁP DẠY HỌC TÁC PHẨM TỰ SỰ Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG VỚI SỰ HỖ TRỢ CỦA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
Lê Thị Ngọc Anh
Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Huế
Tóm tắt. Tác phẩm tự sự có vị trí quan trọng trong chương trình Ngữ văn ở trung học phổ
thông. Do đó, nâng cao hiệu quả dạy học tác phẩm tự sự luôn là một vấn đề được sự quan
tâm của các nhà nghiên cứu cũng như giáo viên. Nghiên cứu và đề xuất các biện pháp dạy
học: Đọc sáng tạo với sự hỗ trợ của video và hình ảnh trực quan; Thuyết trình với sự hỗ trợ
của nguồn tư liệu điện tử phong phú và hình thức trình chiếu thuyết trình hấp dẫn; Vấn đáp
với nguồn giả thiết phong phú, có tính định hướng cao từ kho tài liệu điện tử và những hình
thức trực quan hỗ trợ kích thích tư duy; Làm việc với nguồn tài liệu mở và biện pháp đọc
tài liệu khoa học, hiệu quả từ sự hỗ trợ của CNTT; Seminar với nguồn tài liệu mở và hình
thức triển khai hoạt động thuyết trình trình chiếu thảo luận sinh động; Tăng cường luyện
tập, củng cố thông qua những hình thức vấn đáp sinh động và bài tập trắc nghiệm phong
phú được thiết kế bằng các phần mềm chuyên dụng; trên cơ sở phát huy thế mạnh và nhấn
mạnh đặc trưng đã được kiểm chứng là một hướng đi có tính hiệu quả và khả thi cao.
Từ khóa: Tác phẩm tự sự, Trung học phổ thông, Công nghệ thông tin.

1. Mở đầu
Đổi mới dạy học không phải là một vấn đề có tính thời điểm mà là vấn đề thường xuyên,
liên tục. Nó gắn liền với hoạt động dạy học và hoạt động nghiên cứu trong khoa học giáo dục như
một nhiệm vụ quan trọng luôn có tính cấp thiết. Dạy học tác phẩm tự sự (TPTS), ứng dụng công
nghệ thông tin (UDCNTT) vào dạy học, UDCNTT vào dạy học Ngữ văn, dạy học Tiếng Việt, Làm
văn. . . là những vẫn đề đã, đang và sẽ tiếp tục nhận được sự quan tâm nghiên cứu của các nhà
khoa học, các nhà giáo dục. Những công trình của Trần Thanh Đạm [3], Nguyễn Viết Chữ [1],
Nguyễn Thanh Hùng [6]. . . đã trực tiếp hoặc gián tiếp đề xuất những định hướng và biện pháp dạy
học TPTS theo đặc trưng thể loại. Đây là những thành tựu lớn của khoa học giáo dục nói chung và


phương pháp dạy học văn nói riêng. Chúng không chỉ có giá trị định hướng hoạt động dạy học ở
nhà trường phổ thông mà còn có giá trị định hướng các công trình nghiên cứu có liên quan.
Vấn đề khai thác những tính năng của công nghệ thông tin (CNTT) hỗ trợ dạy học cũng là
địa hạt thu hút nhiều sự quan tâm không chỉ các nhà khoa học trong nước mà cả ở nước ngoài. Ở
nước ngoài, nhìn chung các bài báo trên các diễn đàn như [9, 10, 11]. . . đều khẳng định sự cần
thiết và tính ưu trội khi UDCNTT vào dạy học như tạo ra các bài thuyết trình đa phương tiện, tạo
Ngày nhận bài: 13/04/2014. Ngày nhận đăng: 15/10/2014.
Liên hệ: Lê Thị Ngọc Anh, e-mail:

151


Lê Thị Ngọc Anh

ra các sản phẩm học tập đa dạng, kích thích sự tương tác trong lớp học... Họ đặc biệt nhấn mạnh
đến vai trò chủ thể của người học trong quá trình học tập có sử dụng CNTT. Ở trong nước, vấn
đề UDCNTT vào dạy học là đề tài nghiên cứu của nhiều công trình nghiên cứu khoa học [8, 6].
Những công trình này chủ yếu xác lập các hình thức và biện pháp khai thác CNTT vào dạy học
như khai thác internet để xây dựng thư viện điện tử, soạn giáo án điện tử, trao đổi thông tin . . .
Môn Ngữ văn vốn là địa hạt của cảm xúc, của trí tưởng tượng và liên tưởng nên cũng khá
kén chọn khi UDCNTT để hỗ trợ dạy học. Nó đòi hỏi quá trình nghiên cứu, ứng dụng phải thận
trọng và bám sát đặc trưng môn học, bài học. Nói như thế không có nghĩa là môn học này không
thể UDCNTT để hỗ trợ cho việc dạy hoc. Điểm qua các công trình, bài viết của các nhà nghiên
cứu như [5, 7]. . . cho thấy càng khó càng có sự hấp dẫn lớn. Những bài viết này cũng đã khẳng
định tính “tất yếu” và tính hữu ích khi UDCNTT vào dạy học Ngữ văn nói chung và Tiếng Việt,
Làm văn, Đọc văn (chủ yếu là văn học sử và lí luận văn học). . . Tuy nhiên, vấn đề UDCNTT vào
dạy học TPTS chỉ mới được đề cập như một nội dung, một bộ phận cấu thành nên môn Ngữ văn
chứ chưa có công trình nghiên cứu độc lập, cụ thể, tập trung. Đặc biệt, các công trình này cũng chỉ
tập trung vào vấn đề UDCNTT như là một nội dung trọng tâm nghiên cứu nghĩa là chỉ mới dừng
lại những biện pháp, những hình thức khai thác, sử dụng CNTT vào dạy học Ngữ văn nói chung

chứ chưa tập trung, nhấn mạnh khả năng cũng như cách thức tích hợp CNTT vào hỗ trợ các hoạt
động, biện pháp dạy học cụ thể.
Chúng tôi nghiên cứu những biện pháp dạy học tác phẩm tự sự ở trường trung học phổ thông
với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin hướng đến một đối tượng quan trọng, vừa có tính ổn định
vừa có tính “không hoàn kết” - TPTS; đặt nền tảng khoa học trên những nguyên lí chung như tích
hợp, thể loại, phát triển năng lực, phát huy vai trò chủ thể học sinh (HS). . . ; khai thác CNTT như
một công cụ hữu ích cho hoạt động dạy học cũng là một ứng dụng không thể cũ bởi tự bản thân nó
luôn đổi mới; từ đó đề xuất hệ thống những biện pháp dạy học với sự hỗ trợ của CNTT một cách
cụ thể, chặt chẽ, đặc biệt nhấn mạnh đến sự phối kết hợp giữa các biện pháp dạy học TPTS với các
ứng dụng hỗ trợ của CNTT. Ở đây, CNTT chỉ đóng vai trò hỗ trợ tích cực, sự hỗ trợ này có khi trực
tiếp có khi gián tiếp tham gia vào các biện pháp dạy học. Do đó, đây là một vấn đề vừa có ý nghĩa
khoa học, ý nghĩa thực tiễn vừa có tính thời sự tương đối bền vững.

2. Nội dung nghiên cứu
Có nhiều hình thức khai thác sự hỗ trợ của CNTT trong dạy học như: xây dựng thư viện
điện tử phục vụ hoạt động dạy và học; khai thác, mở rộng mạng lưới tri thức có liên quan đến nội
dung kiến thức môn học, bài học; trao đổi, thu nhận thông tin phản hồi giữa GV - HS, HS - HS;
tổ chức hoạt động dạy học ở lớp. . . Những hình thức này sẽ được chuyển hoá, cụ thể hóa trong
những biện pháp khai thác CNTT trong dạy học Ngữ văn sau: Tích hợp các file âm thanh, video hỗ
trợ hoạt động đọc, Trình chiếu các tư liệu ngoài sách giáo khoa (qua kênh hình, chữ và âm thanh)
nhằm mở rộng, liên hệ, so sánh; phục vụ cho hoạt động giảng - bình, phát vấn, thảo luận. . . , Xây
dựng các mô hình, biểu bảng, các sơ đồ tư duy khái quát kiến thức, xác lập các mối quan hệ trong
và ngoài tác phẩm nhằm phát hiện và phát triển kiến thức, Thiết kế đa dạng các hình thức bài tập,
trò chơi nhằm luyện tập - củng cố, kiểm tra - đánh giá, Thiết kế giáo án điện tử hay các trang trình
chiếu nội dung cơ bản của bài học có sự tích hợp các tính năng màu sắc, hiệu ứng, vẽ sơ đồ, bảng
biểu, Thiết kế CD, lập Web . . .
Trên cơ sở những hình thức khai thác CNTT phù hợp với hoạt động dạy học đã gợi ý, những
biện pháp khai thác CNTT trong dạy học Ngữ văn đã đưa ra, tác giả đề xuất những biện pháp dạy
học TPTS với sự hỗ trợ của CNTT. Thực chất đây là sự phối hợp giữa biện pháp dạy học và biện
152



Biện pháp dạy học tác phẩm tự sự ở trường Trung học phổ thông với sự hỗ trợ...

pháp khai thác CNTT hay chính xác hơn chính là sự tích hợp biện pháp khai thác CNTT vào biện
pháp dạy học nhằm thực hiện các hoạt động dạy - học TPTS một cách hiệu quả, khách thể hóa,
hiện thực hóa đặc trưng TPTS và sức mạnh của CNTT.
Đọc sáng tạo với sự hỗ trợ của video và hình ảnh trực quan: Đọc là một hoạt động tất
yếu, không thể thiếu khi dạy học văn. “Đọc sáng tạo” tự thân tên biện pháp đã khẳng định đây
không phải là hoạt động vật lí thông thường mà là một hoạt động cảm thụ nghệ thuật, nhấn mạnh
sự cảm nhận trực tiếp, đòi hỏi năng lực tiếp nhận, cảm thụ cũng như nghệ thuật giao tiếp, giãi bày,
thể hiện hình tượng nghệ thuật. . . Điều này có nghĩa là, để đọc sáng tạo trở thành một biện pháp
cảm thụ tác phẩm HS phải cảm và hiểu được tác phẩm, phải có ý tưởng trong việc thể hiện cách
cảm hiểu của mình và năng lực thể hiện trực tiếp bằng ngôn ngữ cũng như các yếu tố phi ngôn
ngữ. Qua đó, người đọc thể hiện sự cảm nhận mang tính cá nhân của mình theo một cách riêng.
Như vậy, với đọc sáng tạo, CNTT không tham gia trực tiếp, nó không thể thay thế hoạt động
đọc của GV và HS nhưng nó sẽ hỗ trợ, kích thích để thúc đẩy cá nhân mạnh dạn cũng như có thêm
ý tưởng để thể hiện hoạt động đọc một cách sáng tạo.
Trong dạy học TPTS, việc đọc tác phẩm nói chung, đọc sáng tạo nói riêng có vai trò hết sức
quan trọng và cũng là thử thách đối với cả GV và HS bởi chính độ dài về dung lượng và sự phức
tạp về cấu trúc. Thông thường ở lớp, HS chỉ tóm tắt lại tác phẩm, nhấn mạnh các sự kiện chính và
đọc một số đoạn văn hay. Do phụ thuộc vào hoạt động đọc ở nhà nên nhiều khi việc tổ chức đọc ở
lớp thiếu linh hoạt nên khó thể hiện được sự sáng tạo.
Với CNTT, đọc sáng tạo sẽ được thúc đẩy, phát huy với các hình thức hỗ trợ như sau:
- Nghe các nghệ sĩ đọc qua các phương tiện hiện đại, GV cũng có thể đọc mẫu, thu âm và
sử dụng nhiều lần. Hoạt động đọc mẫu chỉ cần triển khai ở những đoạn văn hay, giàu chất trữ tình
hay triết lí hoặc những đoạn văn tập trung giá trị sáng tạo để tạo dấu ấn và tính xúc cảm cho giờ
học.
- Xem các trích đoạn phim đã được chuyển thể từ tác phẩm, xem các hình ảnh chân dung
nhân vật. . . Với những trích đoạn này sẽ giúp HS khắc sâu ấn tượng về tình huống truyện độc đáo,

về sự kiện, chi tiết đắt giá hay chắp cánh cho những liên tưởng, tưởng tượng của HS
- Sơ đồ hóa cốt truyện, mối quan hệ giữa các nhân vật, sự kiện chính cũn. Mặt khác, với CNTT, GV dễ dàng đưa ra các dữ kiện ngắn gọn, phong phú, sáng rõ để
HS phân tích giải quyết các vấn đề được đặt ra trong câu hỏi.
Làm việc với tài liệu học tập với nguồn tài liệu mở và biện pháp đọc tài liệu khoa học,
liệu quả từ sự hỗ trợ của CNTT: Đây là hình thức tự học, tự nghiên cứu ở mức đơn giản, góp
phần quan trọng vào việc hình thành thói quen, kĩ năng đọc sách, nghiên cứu tài liệu (tài liệu giấy,
tài liệu đa truyền thông, đa phương tiện) cho HS - một kĩ năng không thiếu trước xu thế bùng nổ
thông tin và toàn cầu hóa.
Hoạt động này có thể được tiến hành ở nhà nhằm chuẩn bị bài trước khi đến lớp; tìm hiểu
nâng cao, mở rộng vấn đề liên quan đến bài học hoặc được tiến hành ngay tại lớp trước khi trao đổi,
thảo luận. Giáo viên giới thiệu tài liệu, HS tự đọc, tự nghiên cứu để giải quyết các nhiệm vụ học
tập được giao hoặc cũng có thể GV nêu nhiệm vụ học tập, HS tự tìm kiếm tài liệu và giải quyết.
156


Biện pháp dạy học tác phẩm tự sự ở trường Trung học phổ thông với sự hỗ trợ...

Kết quả học tập cần được kiểm tra, đánh giá trực tiếp qua các buổi thảo luận ở lớp hoặc thông qua
các sản phẩm đạt được.
Trước đây, biện pháp dạy học này thường ít được chú ý bởi việc tìm kiếm tài liệu đối với HS
không dễ, mất nhiều thời gian tìm kiếm cũng như thời gian đọc, GV khó định hướng và điều chỉnh
kịp thời quá trình tự học của HS. . . ; hoặc có thì chỉ dừng lại ở mức đơn giản là HS làm việc với
SGK, tóm tắt tiểu dẫn hoặc trả lời các câu hỏi hướng dẫn học bài (thông qua hoạt động soạn bài ở
nhà của HS); sản phẩm đạt được chủ yếu thể hiện dưới dạng văn bản viết như vở soạn bài hoặc các
bài viết ngắn nên chỉ hình thành được những kĩ năng và kiến thức cơ bản. Việc kiểm tra kết quả tự
làm việc của HS cũng hạn chế, kết hợp trong mấy phút kiểm tra bài cũ hoặc truy bài đầu giờ; thậm
chí GV giao nhiệm vụ nhưng không kiểm tra, đánh giá kết quả.
Với sự hỗ trợ của CNTT, việc giao nhiệm vụ học tập trở nên ấn tượng và dễ dàng với các
dạng sơ đồ tư duy hay bảng biểu khuyết. Nó đồng thời là những định hướng làm việc, định hướng
giải quyết các yêu cầu mà GV gợi mở cho HS.

Tài liệu học tập trong điều kiện có sự hỗ trợ của CNTT cũng được mở rộng từ rất nhiều
nguồn khác nhau và có thể tìm kiếm dễ dàng hơn, phong phú hơn, tiết kiệm thời gian hơn.
Học sinh thao tác với tài liệu để chọn lọc những kiến thức cần tìm hiểu cũng dễ dàng hơn
với các chức năng tìm kiếm nâng cao của công nghệ.
Kết quả của quá trình làm việc với tài liệu đa phương tiện được thể hiện dưới nhiều hình
thức khác nhau như file trình bày, đĩa CD hoặc đơn giản là những file văn bản word cũng dễ dàng
xử lí và sử dụng. . .
Những sản phẩm này dễ dàng được tập thể hóa qua trình bày ở lớp hoặc gửi qua email, đăng
diễn đàn... Sự trao đổi, phản hồi giữa GV - HS, HS - HS trong quá trình thực hiện biện pháp này
là hết sức cần thiết để có thể hướng dẫn, định hướng, chia sẻ tài nguyên, tạo nên những tài liệu học
tập bổ ích.
Việc đánh giá và tự đánh kết quả tự nghiên cứu tài liệu với sự hỗ trợ của công nghệ cũng
diễn ra nhanh chóng, cụ thể và hiệu quả hơn. Ở đây, không chỉ GV là người có quyền đánh giá mà
HS có thể đánh giá lẫn nhau và tự đánh giá kết quả làm việc của bản thân. Do đó, điểm mạnh của
biện pháp này còn là tạo niềm vui, hứng thú học tập cho HS, người học được tạo điều kiện để tự
khẳng định mình.
Dạy học TPTS, GV có thể hướng dẫn HS làm việc với tài liệu về những vấn đề sau:
- Tìm đọc và tóm tắt những nét chính về cuộc đời, sự nghiệp của tác giả.
- Tìm tài liệu để tự đọc - hiểu các bài đọc thêm.
- Tìm đọc các tài liệu về lí luận, lịch sử, văn hóa. . . để tự trang bị tri thức đọc - hiểu TPTS.
- Tìm đọc thêm các truyện ngắn, tiểu thuyết để hiểu hơn nghệ thuật tự sự hoặc một vấn đề
nội dung được phản ánh trong TPTS chính khoá, những tác phẩm khác cùng tác giả hoặc cùng đề
tài, chủ đề.
- Viết những bài tiểu luận ngắn theo những chủ đề tự chọn hoặc do GV thống nhất cả lớp
liên quan đến nghệ thuật tự sự.
Để biện pháp này được thực hiện hiệu quả, GV đặc biệt chú ý một số vấn đề sau:
- Giao nhiệm vụ cụ thể, vừa sức và sát hợp với nội dung bài học ở lớp và yêu cầu của chương
trình.
- Theo dõi sát quá trình làm việc của HS để có những định hướng, điều chỉnh, giúp đỡ kịp
thời, đặc biệt trong khâu chọn lọc, xử lí tài liệu và xác định quan điểm đánh giá các hiện tượng

157


Lê Thị Ngọc Anh

văn học. Sự trao đổi, định hướng, giúp đỡ này đều có thể thực hiện thông qua các diễn đàn, tài
khoản,. . . trên mạng internet.
- Phải có sự kiểm tra, đánh giá kết quả đạt được để động viên, khuyến khích, định hướng và
thống nhất kết quả; giúp HS đa dạng hóa và xã hội hóa kết quả đạt được. . .
Seminar với nguồn tài liệu mở và hình thức triển khai hoạt động thuyết trình trình
chiếu thảo luận sinh động: Biện pháp này có phần giao thoa với biện pháp Làm việc với tài liệu
học tập là HS phải tự làm việc với tài liệu nhưng điểm quan trọng của nó là HS phải trình bày, trao
đổi, thảo luận và đi đến nội dung học tập ngay tại lớp, do đó có sự hỗ trợ của GV nhiều hơn và
đòi hỏi năng lực sử dụng công nghệ phức tạp hơn. Đây là một biện pháp dạy học hiện đại, có tác
dụng hình thành kiến thức vừa phong phú vừa sâu sắc; nhưng đặc biệt hơn đây là một biện pháp
hướng tới mục tiêu tích cực hóa hoạt động học cũng như hình thành nhiều kĩ năng quan trọng cho
HS. Nó tạo điều kiện cho người học được làm việc, khẳng định bản thân và hướng đến tích hợp cả
kiến thức và kĩ năng ở mức cao. GV giao vấn đề, HS chuẩn bị bài ở nhà theo nhóm hoặc cá nhân
để đến lớp trình bày, lớp tham gia thảo luận và đi đến những kết luận cần thiết dưới sự giúp đỡ,
định hướng của GV. Đối với TPTS, dung lượng thường lớn, quá tải so với thời gian hữu hạn của
tiết học cũng như chứa đựng nhiều tiềm năng giá trị nên Seminar là một trong những lựa chọn hữu
ích. GV có thể cho HS tìm hiểu trước, thực hiện các đề tài nhỏ như những vấn đề chung về tác giả,
tác phẩm cũng như ảnh hưởng của chúng đối với sáng tác của nhà văn, hoặc người học có thể trình
bày cách cảm nhận riêng của mình về một chi tiết, nhân vật trong tác phẩm, về tình huống truyện.
CNTT lúc này trở thành phương tiện hỗ trợ đắc lực cho hoạt động học của HS. Để giải quyết được
nhiệm vụ học tập, HS phải huy động, phải tự tìm kiếm nhiều kiến thức ở những lĩnh vực khác nhau
cũng như nhiều kĩ năng khác nhau. Sử dụng CNTT để tìm kiếm các tài liệu, chuẩn bị bài trình bày
ở lớp là những hoạt động mà GV cần khuyến khích và hướng dẫn HS thực hiện. Ở biện pháp này,
CNTT vừa trực tiếp hỗ trợ cho HS tự học ở nhà và phục vụ cho hoạt động thảo luận ở lớp thêm sôi
nổi và hiệu quả. Người học do đó có cơ hội lĩnh hội nhiều kiến thức phong phú, sâu sắc và hình

thành được nhiều kĩ năng, họ trở nên năng động hơn và đặc biệt có những kĩ năng sống quan trọng.
Tăng cường luyện tập, củng cố thông qua những hình thức vấn đáp sinh động và bài
tập trắc nghiệm phong phú được thiết kế bằng các phần mềm chuyên dụng: Luyện tập, củng
cố là một khâu quan trọng trong giờ học, đặc biệt với mục tiêu dạy học hướng tới hình thành kĩ
năng như hiện nay. Do đó, tăng cường thời gian cũng như dung lượng các bài tập, câu hỏi luyện
tập củng cố là một việc làm không thế thiếu. Tuy nhiên, thực tế dạy học vốn hoạt động này chưa
được chú ý. Nguyên nhân một phần từ nhận thức chủ quan của người dạy chưa thấm nhuần mục
tiêu, nhiệm vụ dạy học mới; một phần từ thực tế thời gian tiết học giới hạn mà yêu cầu kiến thức
lớn, đặc biệt khó khăn hơn trong giờ dạy học TPTS.
Với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin sẽ tiết kiệm được thời gian trên lớp và GV có thể dành
khoảng thời gian thích ứng cho hoạt động luyện tập, củng cố. Ngoài ra, GV có thể dễ dàng thiết kế
các biểu bảng, sơ đồ tư duy hoặc đơn giản là những điểm nhấn màu sắc nhằm tiểu kết, tổng kết,
xác lập các mối quan hệ cơ bản, trọng tâm trong tác phẩm để khắc sâu, nhấn mạnh.
Đặc biệt, GV thiết kế các dạng bài tập trắc nghiệm hay các bài tập, câu hỏi luyện tập củng
cố dưới dạng học mà chơi như đuổi hình bắt chữ, giải ô chữ; hoặc mô phỏng các trò chơi trí tuệ
trên truyền hình như Đường lên đỉnh Olympia. . . bằng phần mềm powerpoint hoặc violet. . . Bên
cạnh đó, GV cũng khai thác các tính năng của CNTT để có những hình thức động viên, HS kịp
thời, làm tăng niềm vui, hứng thú học tập như kèm âm thanh tiếng vỗ tay và hình ảnh “khuôn mặt
cười” khi HS trả lời đúng; “khuôn mặt mếu – hài hước” khi trả lời chưa đúng.
Để tăng sự hấp dẫn, kích thích trí tò mò và hứng thú học tập cũng như tăng mức tập trung
158


Biện pháp dạy học tác phẩm tự sự ở trường Trung học phổ thông với sự hỗ trợ...

chú ý của HS, GV có thể thiết kế các câu hỏi ngắn gắn với những hình ảnh có liên quan. HS sẽ
được lựa chọn câu hỏi tùy thuộc vào sở trường hay ý thích của bản thân để trả lời. Hình ảnh có thể
theo đề tài, chủ đề mà câu hỏi hướng tới như theo tác phẩm, theo tác giả. . . Qua các hình thức này,
GV cũng dễ dàng hơn trong đánh giá, phân hóa HS.
Hoạt động luyện tập, củng cố hay kiểm tra đánh giá trong giờ học được thực hiện bằng hình

thức bài tập như trên sẽ diễn ra thuận lợi hơn mà không kém phần hấp dẫn, lí thú. Học sinh không
cảm thấy áp lực “bị kiểm tra” khi tham gia các hoạt động học tập này nhưng GV lại đánh giá được
mức độ tiếp nhận bài học của các em. Qua đó, GV không chỉ củng cố kiến thức cho HS mà có thể
kiểm tra, đánh giá kết quả giờ học để có thể điều chỉnh hoạt động dạy học phù hợp. Hơn nữa, bằng
cách thiết kế các dạng bài tập này, GV cũng có thể hướng dẫn HS tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau.
Thực hiện biện pháp này GV cần chú ý dung lượng thời gian cho phép và những nội dung
cần luyện tập, củng cố cho HS để có sự chọn lọc cũng như thiết kế, tổ chức phù hợp. Cần nhấn
mạnh rằng, luyện tập, củng cố không phải là khâu cuối cùng, kết thúc giờ học mà có thể linh hoạt
sử dụng kết hợp trong suốt giờ học để thay đổi không khí, khắc sâu nhận thức, thu nhận thông tin
phản hồi và điều chỉnh hoạt động dạy.
Những biện pháp trên đã được cụ thể hóa, hiện thực hóa qua việc thiết kế và tổ chức dạy
học thực nghiệm 3 văn bản tự sự: truyện cổ tích Tấm Cám (Ngữ văn 10), đoạn trích Hồi trống
Cổ thành - trích tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa (Ngữ văn 10), truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài
xa (Ngữ văn 12) trên 402 HS đối chứng và 397 HS thực nghiệm tại 3 trường THPT thuộc 3 tỉnh
Quảng Bình, Thừa Thiên Huế, Thanh Hóa. Kết quả thực nghiệm được đánh giá định tính, định
lượng bằng bài kiểm tra và quan sát dự giờ, phỏng vấn. Về định tính, cơ bản người nghiên cứu thu
được những phản hồi tích cực từ phía GV và HS. Về định lượng, có sự chênh lệch về điểm số giữa
nhóm đối chứng và nhóm thực nghiệm (Điểm trung bình thực nghiệm 6,37 > điểm trung bình đối
chứng 5,88; độ lệch chuẩn thực nghiệm 1,015 < độ lệch chuẩn đối chứng 1,155. . . ) Sự khác nhau
này cũng đã được kiểm định mức ý nghĩa bằng cách tính hệ số p < 0,05; nghĩa là sự khác nhau rất
có ý nghĩa về mặt thống kê.

2.1. Kết luận
Đọc sáng tạo, thuyết trình, phát vấn, làm việc với tài liệu, seminar, tăng cường luyện tập,
củng cố và kiểm tra, đánh giá là những biện pháp vốn thực tế dạy học Ngữ văn nói chung và dạy
học TPTS nói riêng đã được sử dụng. Tuy nhiên, những biện pháp này được thực hiện với sự hỗ
trợ của CNTT sẽ có những đặc trưng và thế mạnh riêng biệt, được tiến hành một cách dễ dàng
hơn, hiệu quả hơn. Có thể dạy học TPTS đã quen, CNTT không có gì mới nhưng kết hợp trên cơ
sở phát huy thế mạnh của CNTT, của biện pháp dạy học và khai thác đặc trưng TPTS, hướng tới
mục tiêu phát triển toàn diện người học là vấn đề mà chúng tôi quan tâm trong các biện pháp đã

đề xuất ở trên.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Nguyễn Viết Chữ, 2010. Biện pháp dạy học tác phẩm văn chương trong nhà trường. NXB
Giáo dục Việt Nam.
[2] Trần Thanh Đạm, 1978. Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể. NXB Giáo dục.
[3] Trần Bá Hoành, 2007. Đổi mới biện pháp dạy học, chương trình và sách giáo khoa. NXB Đại
học Sư phạm, Hà Nội.
159


Lê Thị Ngọc Anh

[4] Nguyễn Thanh Hùng, 2008. Đọc - hiểu tác phẩm văn chương trong nhà trường. NXB Giáo
dục.
[5] Phan Trọng Luận, 2008. Văn học nhà trường: nhận diện, tiếp cận, đổi mới. NXB Đại học Sư
phạm.
[6] Đỗ Hồng Thái (2006), Ứng dụng công nghệ thông tin trong đổi mới công tác bồi dưỡng giáo
viên Lịch sử ở trường phổ thông, Kỉ yếu hội thảo khoa học Đổi mới phương pháp dạy học, Đại
học Sư phạm Huế, tr. 149-154.
[7] Đỗ Ngọc Thống. Tìm hiểu Chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn THPT. NXB Giáo dục.
[8] Lê Công Triêm (Chủ biên), 2012. Giáo trình ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học.
NXB Đại học Huế.
[9] Simon Hooper and Lloyd P. Rieber. Teaching with Technology.
/>[10] Use of technology in Teaching and learning
( />[11] How Technology Enhances Teaching and Learning,
ABSTRACT
Methods for teaching the narrative works in high school
using information technology

Narrative works are an important curriculum in high school literature. Consequently,
improving the teaching of narrative works is always of concern to researchers and teachers.
Methods to teach and learn are proposed such as: Reading creatively with the support of
videos and visuals; Making presentations with the support of electronic devices and attractive
presentations; Seeking and answering questions using electronic devices, orientated hypotheses
and other intuitive supports; Working with open sources and measures reading scientifically with
the support of IT; Seminars with open resources, an attractive presentation and a lively discussion;
Strengthening and [not understandable], reinforcing learning activities with lively question and
answer forums and the use of multiple-choice questions designed by dedicated software.

160



×