Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Case 2 Phân tích tài chính theo tình huống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.6 MB, 18 trang )

Nhóm 18
1. Lê Phương Vy

K174040434

2. Trần Thị Thu

K174040402

3. Nguyễn Thị Huỳnh Như

K174040380

4. Văn Huỳnh Thảo Vy

K174040436

PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH THEO TÌNH HUỐNG
#Case 2:
A.

Các vấn đề cần giải quyết:

1. Đánh giá tình hình tài chính và hiệu quả hoạt động của công ty. Những điểm mạnh và những vấn đề đáng lưu
tâm của công ty là gì?
2. Lập báo cáo lưu chuyển tiền của công ty. Tính dòng tiền hoạt động, dòng tiền tự do. Đánh giá dòng tiền của
công ty? Những lí do nào làm suy giảm dòng tiền của công ty?
3. Tính chu kỳ kinh doanh và chu kỳ luân chuyển tiền của công ty, so sánh qua các năm.
4. Dự báo tài chính trong năm tới cho công ty (2006), giả sử tăng trưởng doanh thu của công ty trong năm tới là
30%
5. Với mức tăng trưởng mạnh dự kiến trong năm tới (2006), dòng tiền của công ty có được cải thiện?


6. Các bạn có đồng tình với chính sách quản lý khoản phải trả của Maggie Brown?
7. Các phương án để giải quyết vấn đề dòng tiền của doanh nghiệp?
8. Vấn đề của doanh nghiệp là gì?
B.
Tóm tắt các dữ liệu quan trọng:
- Vấn đề chính hiện tại của công ty là thiếu tiền mặt (thiếu hụt dòng tiền), rủi ro về hàng tồn kho của công ty khá
cao vì bị lệ thuộc nhiều vào thời tiết.
- Hoạt động kinh doanh của công ty đang phất lên: doanh thu, lợi nhuận hoạt động tăng.
- Những năm qua, HĐKD của công ty tăng đáng kể từ các vườn ươm nhỏ (chi phí vận chuyển hàng tồn kho là 1
gánh nặng tiêu biểu cho khách hàng, vì thế, những cải tiến nhẹ trong các điểu khoản về tín dụng cho họ có thể là
động lực thúc đẩy việc bán được hàng nhiều hơn).
- Doanh thu 2005 tăng 15% so với 2004 (lợi nhuận thì tăng trưởng nhanh hơn).
- Trong vòng 2 năm trước, Bob đã mở rộng số lượng loại cây trồng hơn 40%.
- Dòng tiền hiện tại đang giảm xuống dưới mức 10,000$.
- Mục tiêu về dòng tiền (tiền mặt) của công ty là 8% doanh thu năm.
- Maggie duy trì chính sách tài chính như sau: không vay mượn ngân hàng, trả tiền sớm cho nhà cung cấp để
được hưởng các khoản chiết khấu thanh toán (hầu hết các nhà cung cấp của công ty đều cho thời hạn thanh toán
là 30 ngày, với mức chiết khấu là 2% nếu trả trước trong vòng 10 ngày).
- Nhu cầu về những cây trồng trưởng thành nhiều hơn; ngoài ra, những vườn ươm khác sẵn sàng trả giá cao hơn
cho những cây cung cấp được “cảnh quan tức thời’ => công ty đang chuyển hướng sản phẩm của mình theo
những nhu cầu trên.
- Những thách thức của công ty: nhu cầu thị trường có thể chậm đáng kể nếu lãi suất tăng (biết lãi suất hiện
hành là 6.5%); biên lợi nhuận công ty phụ thuộc nhiều vào lương công nhân hàng giờ giá rẻ (hiện tại là 8.51$),
tuy nhiên có thể phải tăng trong thời gian tới;
- Năm 2006 dự đoán là năm đánh dấu mốc cho công ty, với doanh thu dự kiến mức tăng kỉ lục là 30%. Đồng
thời, sắp tới, công ty có những cơ hội tăng trưởng dài hạn từ việc công ty tính mua lại 1 mảnh đất nông nghiệp


rộng 12 mẫu lân cận, để phục vụ cho dự tính mở rộng sản xuất của công ty (dự tính chi phí vốn cho thương vụ
mua lại này trong năm 2006 là 75,000$.

- Biết: chi phí khấu hao dự kiến 2006 là 46,000$.
C.


Giải quyết các vấn đề:
VẤN ĐỀ 1:

1. PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH VÀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY
a. Đánh giá về tình hình biến động của tài sản

Biểu đồ 1. Biểu đồ thể hiện cơ cấu và tăng trưởng giá trị của tổng tài sản giai đoạn 2002 - 2005
Ta có thể thấy là tổng tài sản tăng đều qua các năm, đây là một dấu hiệu tốt , cho thấy công ty đang mở rộng
hoạt động kinh doanh và đang ngày càng phát triển.

Biểu đồ 2. Biểu đồ thể hiện cơ cấu và tăng trưởng giá trị của tài sản lưu động giai đoạn 2002 - 2005


Do đặc điểm của công ty là loại hình kinh doanh thương mại, đối tượng kinh doanh là hàng hóa cây trồng, nên
tỷ trọng hàng tồn kho chiếm tỷ trọng cao nhất trong tài sản lưu động, nhằm kịp thời cung cấp hàng hóa cho
khách hàng một cách nhanh chóng. Khoản phải thu tăng cùng với sự tăng trưởng của doanh thu, đi theo đó là sự
giảm dần của lượng tiền mặt qua các năm. Lượng tiền mặt từ $120100 năm 2002 giảm mạnh chỉ còn $9400 năm
2005, giảm 92.17% so với năm 2002. Bà Maggie kỳ vọng tiền mặt ở mức 8% doanh thu hằng năm, nhưng lại
không hoàn thành. Đây là một điều đáng lo ngại khi tính thanh khoản của công ty bị giảm mạnh.

b. Đánh giá khái quát về sự biến động của nguồn vốn

Biểu đồ 3. Biểu đồ thể hiện cơ cấu và tăng trưởng giá trị của tổng nguồn vốn giai đoạn 2002 - 2005

Giống như tổng tài sản, tổng nguồn vốn cũng tăng qua các năm, chủ yếu là do sự tăng của vốn chủ sở hữu, cho
thấy công ty hoàn toàn có thể độc lập về tài chính mà không bị lệ thuộc từ những nhà đầu tư trên thị trường.

Nguồn vốn được hình thành từ nợ và vốn chủ sở hữu, tuy nhiên ở doanh nghiệp này thì nợ chiếm tỉ lệ rất nhỏ và
thậm chí là không có nợ dài hạn. Nguyên nhân là vì bà Maggie theo đuổi chính sách cẩn trọng, hạn chế sử dụng
nợ bởi vì rủi ro hàng tồn kho là các loại cây trồng vườn ươm nếu gặp thời tiết xấu sẽ dễ bị hư hỏng, đây cũng là
lý do bà Maggie thanh toán cho nhà cung cấp sớm để nhận chiết khấu 2% chứ không vay mượn từ ngân hàng.
Vì bà sợ rằng nếu rủi ro xảy ra, cây hư hỏng thì doanh nghiệp không thể gánh được khoản lãi suất từ ngân hàng,
nên bà quyết định không vay nợ. Do đó, ở doanh nghiệp này chỉ có các khoản nợ ngắn hạn.


Biểu đồ 4. Biểu đồ thể hiện cơ cấu và tăng trưởng giá trị của nợ ngắn hạn giai đoạn 2002 - 2005
Ta có thể thấy nợ ngắn hạn chiếm một khoảng rất nhỏ trong tổng nguồn vốn, chủ yếu đến từ tiền lương phải trả
cho công nhân, nhưng mức tiền lương trả lại tương đối thấp, (mức lương trả theo giờ hiện tại chỉ 8,51$). Đây
cũng là một trong những lí do giải thích tại sao doanh thu tăng lên không ngừng qua các năm.
c. Phân tích doanh thu

Biểu đồ 4. Biểu đồ thể hiện tốc độc tăng trưởng doanh thu giai đoạn 2002 - 2005
Ta thấy có sự tăng trưởng trong vòng 4 năm qua, nhất là năm 2005 với số tiền là 1048,8 (nghìn dollar), tăng
trưởng hơn 15% so với năm trước, tăng trưởng 33,01% so với năm 2002 và dự đoán sẽ tăng kỉ lục trong năm
2006, với doanh thu sẽ tăng 30%. Doanh thu tăng một phần nhờ vào việc chi trả lương thấp, bán các cây ươm
cho các vườn ươm lẻ trên khắp khu vực ở trung Đại Tây Dương và linh động trong việc nắm bắt nhu cầu khách
hàng. Trong vòng 2 năm, Bob đã tăng số lượng các loài thực vật được trồng tại vườn ươm hơn 40%. Bob còn
chủ động trong việc thay đổi cây ươm phù hợp với nhu cầu thị trường, người bán sẵn sàng mua cây giá cao cho


những cây trồng có thể tạo ra cảnh quan tức thời, đã giúp cho doanh thu tăng trưởng không ngừng trong những
năm qua.
Ta thấy, doanh thu phải chịu từ tác động của nhiều nguyên nhân, được tạo nên từ nhiều nguồn thu khác nhau,
trong đó quan trọng nhất chính là nguồn thu từ hoạt động kinh doanh mà tình hình kinh doanh trong 4 năm qua
tương đối tốt cho thấy sự phát triển của doanh nghiệp cũng như định hướng chiến lược bán hàng đúng đắn.
d. Tình hình chi phí bán hàng và quản lí và giá vốn hàng bán
Chi phí bán hàng và quản lí và giá vốn hàng bán nói chung là tăng khá cao bởi vì doanh thu tăng làm cho chi phí

cũng tăng. Việc thay đổi loại cây trồng làm gia tăng chi phí qua các năm đồng thời nhờ vào việc thay đổi mà
một số người mua đã trả giá cao hơn với giống cây trồng phù hợp với thị trường, điều đó làm giá vốn tăng
trưởng không ngừng qua các năm.
e. Lợi nhuận
Hiệu quả kinh doanh thể hiện qua sức sinh lời của các yếu tố đầu vào hay đầu ra, lợi nhuận được ví như nguồn
máu nuôi sống công ty. Phân tích tình hình lợi nhuận sẽ cho chúng ta biết được khả năng tồn tại và phát triển
của công ty như thế nào.

- Lợi nhuận gộp:

Biểu đồ 5. Biểu đồ thể hiện tốc độc tăng trưởng lợi nhuận gộp giai đoạn 2002 – 2005
Ta thấy lợi nhuận gộp tăng qua các năm, tuy nhiên vào năm 2003 lại có sự giảm nhẹ. Như đã nói trong phần giá
vốn hàng bán, nguyên nhân tăng lợi nhuận là do công ty đã nâng được khoảng cách giá bán hàng hóa ra so với
giá mua vào, đều này làm cho giảm được phần chi phí trung gian với nhu cầu ngày càng tăng của thị trường.
Năm 2003 giảm một phần phải trả tiền vay nợ cho bố của Maggi được mượn khi mua lại trang trại từ bố, vì năm
2002 khi mới kinh doanh thì chưa phát triển nhiều nên phải đợi vào năm 2003 khi công ty phát triển ban đầu thì
trả những khoản vay đó.
- Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh: là lợi nhuận còn lại sau khi lấy lợi nhuận gộp trừ đi chi phí bán hàng và
quản lí, khấu hao. Ta thấy lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh của công ty tăng trưởng khá ổn, tuy nhiên năm
2003 thì lại giảm khá mạnh so với năm trước, giảm 11,8 tương đương giảm 23,5 % so với năm 2002. Tuy nhiên
sang năm 2004, ta thấy mức độ tăng trưởng có vẻ khả quan hơn , với mức tăng trưởng 103% so với năm 2003
và tăng 55,78% so với năm 2002. Và đến năm 2005 tình hình từ hoạt động kinh doanh khá tốt, từ 78,2 tăng lên
100, tỷ trọng tăng lên 9,8% so với doanh thu.


Biểu đồ 6. Biểu đồ thể hiện tốc độc tăng trưởng của EBIT giai đoạn 2002 – 2005
Lợi nhuần từ hoạt động kinh doanh qua các năm đều đang tăng trưởng khá tốt, cho thấy nguồn thu nhập chính
của công ty có xu hướng phát triển tích cực. Tuy nhiên, do công ty đang trong giai đoạn phát triển ban đầu nên
tỷ lệ này còn nhỏ so với doanh thu, công ty cần đẩy mạnh tỷ lệ này nữa hơn trong tương lai, bẳng cách quản lí
tốt các khoản mục chi phí bán hàng và quản lý doanh nghiệp.

- Lợi nhuận ròng:

Biểu đồ 7. Biểu đồ thể hiện tốc độc tăng trưởng của lợi nhuận ròng giai đoạn 2002 – 2005
Lợi nhuận ròng là lợi nhuận cuối cùng mà công ty có được, nó bằng lợi nhuận hoạt động trừ đi thuế thu nhập
doanh nghiệp. Khi doanh thu tăng, thì lợi nhuận ròng cũng sẽ tăng, năm 2002 có chỉ số là $32600 nhưng đến
năm 2005 con số đã tăng lên $60800, gần như gấp đôi, đó là một dấu hiệu tốt trong tình hình hoạt động của
doanh nghiệp. Khi xét đến tỷ trọng của nó so với doanh thu, tức 100 đồng doanh thu sẽ tạo ra bao nhiêu lợi
nhuận, ta xem bảng sau:

Revenue

2002

2003

2004

2005

788.5

807.6

908.2

1048.8


Net Profit


32.6

25.3

52.0

60.8

(%)

4.1

3.1

5.7

5.8

Dựa vào bảng trên , nếu ta có 100 đồng doanh thu thì sẽ tạo ra 4.1 đồng , 3.1 đồng , 5.7 đồng, 5.8 đồng lợi
nhuận lần lượt vào các năm 2002, 2003 , 2004, 2005 .
Ta thấy tỉ trọng lợi nhuận sau thuế so với doanh thu khá thấp, 100 đồng doanh thu chỉ thu được không quá 6
đồng. Như vậy, có thể nói lợi nhuận sau thuế vẫn chưa tương xứng với doanh thu, câu hỏi đặt ra ở đây là vậy
liệu doanh nghiệp có cần điều chỉnh cách hoạt động để tạo ra lợi nhuận nhiều hơn hay không?
f. Đánh giá tỷ số tài chính
Rõ ràng là công ty đang vận hành cực kỳ hiệu quả, khả năng tạo lợi nhuận và tăng trưởng tốt nên các chỉ số tăng
trưởng danh thu, biên lợi nhuận gộp, biên lợi nhuận hoạt động và biên lợi nhuận thuần đều tăng cao qua từng
năm và vượt xa trung bình ngành. Biên lợi nhuận thuần của doanh nghiệp năm 2005 đạt 5.4% cao gấp đôi trung
bình ngành chỉ có 2.8%.
Tỷ số lợi nhuận trên tài sản ROA và tỷ lệ thu nhập trên vốn ROC đều khá tốt, nhìn chung là tăng đều trong giai
đoạn 2002 – 2005. ROA của doanh nghiệp đạt 5.1% vào năm 2005, gấp 1.8 lần trung bình ngành là 2.9% ROC

của doanh nghiệp cũng đạt thành tích ấn tượng vào năm 2005 là 5.4%, cao hơn trung bình ngành là 4.0%.
Doanh nghiệp đang làm rất tốt trong việc quản lý, sử dụng tài sản và vốn, hoàn toàn không gặp khó khăn trong
việc biến tài sản cũng như là vốn để tạo thành lợi nhuận cho công ty.
So với những con số ấn tượng ở các chỉ số tạo ra lợi nhuận, doanh nghiệp lại có chỉ số ngày thu tiền khoản phải
thu quá cao. Ngày thu tiền của doanh nghiệp tăng qua từng năm và luôn cao hơn trung bình ngành, đến năm
2005 chỉ số này đạt 50.9 ngày, gấp 2.3 lần trung bình ngành là 21.8 ngày. Trong khi đó chỉ số ngày trả tiền cho
nhà cung cấp lại quá thấp. Ngày trả tiền của doanh nghiệp giảm dần qua các năm, đạt 9.9 ngày vào năm 2005 và
nhỏ hơn 2.7 lần so với trung bình ngành. Điều này là do chính sách cẩn trọng của bà Maggie trong việc sử dụng
tài trợ, cố gắng thanh toán khoản phải trả trong vòng 10 ngày để nhận chiết khấu. Liệu đây có phải là một chính
sách hiệu quả hay không khi doanh nghiệp đang trả tiền cho nhà cung cấp nhanh hơn gấp 5 lần so với thu tiền từ
khách hàng của mình?
Số ngày tồn kho của doanh nghiệp tăng dần theo từng năm vào luôn cao hơn trung bình ngành, năm 2005 chỉ số
này đạt 476.3 ngày, hơn trung bình ngành 90 ngày. Bên cạnh việc quản lý hàng tồn kho chưa hiệu quả thì một
trong những lý do chính là do doanh nghiệp đang thay đổi cơ cấu sản phẩm qua dòng cây trưởng thành có thời
gian tăng trưởng lên đến 2 - 5 năm.
Chỉ số vòng quay tài sản cố định thuần của doanh nghiệp khá ổn định, luôn ở mức 2.4 trong giai đoạn 2002 –
2004. Vào năm năm 2005, chỉ số này tăng lên thành 3.0, cao hơn trung bình ngành là 2.7. Doanh nghiệp đang
quản lý hiệu quả tài sản cố định của mình. 1 đồng tài sản cố định tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh
đang tạo ra 3 đồng doanh thu.

2. ĐIỂM MẠNH CỦA CÔNG TY:
- Công ty sỡ hữu những nhà lãnh đạo tiềm năng, uy tín. Niềm đam mê và kinh nghiệm làm việc của Bob, tính
cách ấm áp được nhân viên và khách hàng yêu quý, sự nhiệt huyết thay đổi sản phẩm phù hợp với thị trường.
Maggie, một người phụ nữ đầy tính cẩn thận và trách nhiệm, quản lí tốt các vấn đề về tài chính của công ty, giúp
công ty tránh các tình trạng vay nợ.


- Chính sách trả tiền cho nhà cung cấp sớm trong 10 ngày để nhận chiết khấu 2%, không vay nợ, không có nợ
xấu giúp giảm thiểu rủi ro tài chính => công ty hoàn toàn độc lâp về tài chính.
- Công ty cung cấp nhiều sản phẩm đa dạng, chỉ trong 3 năm làm việc ông Bob đã tăng số loài cây trồng lên đến

hơn 40% và đa số dịch vụ của công ty đều có nhu cầu cao. Ngoài ra ông còn linh hoạt trong việc thay đổi chiến
lược kinh doanh, chuyển qua cây trưởng thành hơn, thay đổi cơ cấu sản phẩm để đáp ứng nhu cầu khách hàng.
- Công ty có thời gian bán chịu dài và lượng tồn kho cao để có thể cung ứng hàng hóa tức thời giúp tạo mối
quan hệ tốt với khách hàng.
- Chi phí nhân công thấp giúp giảm chi phí đầu vào cho doanh nghiệp.
- Khả năng tạo ra lợi nhuận của doanh nghiệp cực kì tốt, với biên lợi nhuận và chỉ số ROA/ROC khá cao so với
trung bình ngành và tăng trưởng mạnh qua các năm, cho thấy công ty có tiềm năng phát triển cao và hiệu quả
trong việc sử dụng tài sản và vốn của mình.
- Quản lý tài sản cố định hiệu quả, mức khấu hao ổn định, chỉ tăng 20% từ năm 2002 – 2005.

3. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐÁNG LƯU TÂM:
- Lượng tiền mặt giảm sâu, không tương xứng với doanh thu cao của doanh nghiệp, rất thấp so với kì vọng 8%
doanh thu hàng năm, cần có những biện pháp khắc phục.
- Công ty có sự tăng trưởng mạnh về doanh thu nhưng vẫn chưa có chính sách tăng lương hoặc tạo ra cổ tức từ
hoạt động kinh doanh.
- Biên lợi nhuận bị ảnh hưởng lớn bởi mức lương tối thiểu theo giờ, trong khi đó Quốc hội Hoa Kỳ lại đang
tranh luận để tăng mức lương này lên cao hơn.
- Ngày thu tiền bình quân và số ngày tồn kho liên tục tăng qua từng năm và quá cao so với trung bình ngành.
Riêng về số ngày tồn kho sẽ còn tiếp tục tăng vì doanh nghiệp đang thay đổi qua phân khúc cây trồng trưởng
thành hơn phải mất từ 2-5 năm nuôi trồng để bán.
- Maggie theo đuổi chính sách bảo thủ không vay nợ, trả sớm để nhận chiết khấu, liệu chính sách này có tiếp tục
được trong vài năm tới hay không? Doanh nghiệp có cần vay nợ không? Đây cũng là những vấn đề cần được
giải quyết và đưa ra phương pháp thích hợp cho công ty.




VẤN ĐỀ 2: ĐÁNH GIÁ DÒNG TIỀN CỦA CÔNG TY:

Ta xem xét báo cáo lưu chuyển tiền tệ và bảng phân tích dòng tiền dưới đây:



Trong đó:
NOWC = Current Assets – (Current Liabilities – Notes payable)
OCF = EBIT(1-T) + Depreciation
FCF = OCF – [Capital Expenditures + ΔNOWC]
Ta thấy dòng tiền thuần lưu chuyển trong năm luôn âm và ngày càng giảm. Điều này xảy ra là vì những lý do
sau đây:
Sự sụt giảm mạnh về dòng tiền tạo ra từ hoạt động kinh doanh: Tuy lợi nhuận ròng ngày càng tăng
nhưng dòng tiền tạo ra từ hoạt động kinh doanh lại giảm mạnh trong năm 2005.
+ Doanh nghiệp hưởng chiết khấu từ việc trả tiền cho nhà cung cấp sớm khiến cho khoản phải trả của công ty
thấp, công ty hầu như không chiếm dụng vốn để tăng thêm dòng tiền.
+ Khách hàng đang chiếm dụng vốn của doanh nghiệp nhiều hơn: Ngày thu tiền bình quân tăng từ 41.9 vào năm
2002 đến 50.9 vào năm 2005 (EXHIBIT 2), cao hơn rất nhiều so với trung bình ngành là 21.8. Mặc dù sở hữu
doanh thu cao nhưng doanh nghiệp lại gặp khó khăn trong việc chuyển doanh thu này thành tiền do bán chịu
cho khách hàng quá nhiều.
+ Lượng hàng tồn kho của doanh nghiệp tăng mạnh, đồng thời số ngày tồn kho của doanh nghiệp vào năm 2005
vượt trung bình ngành lên đến 90 ngày. Hàng hóa được tồn kho lâu hơn mức cần thiết sẽ không thể tạo ra lợi
nhuận cũng như tốn kém chi phí bảo quản và làm giảm dòng tiền của doanh nghiệp.
-

Công ty không được cung tiền do không tham gia hoạt động tài chính ví dụ như vay nợ dài hạn.

Mặc dù dòng tiền hoạt động của doanh nghiệp là dương, các khoản đầu tư lại khá lớn khiến cho dòng tiền tự do
luôn xấp xỉ bằng 0, đặc biệt là khi doanh nghiệp có vẻ đang gặp rắc rối với sự tăng lên của vốn lưu động hoạt
động thuần. Năm 2003, vốn lưu động hoạt động thuần tăng thêm $24900, gấp 0.99 lần lãi ròng năm đó là
$25300. Năm 2004, tình hình vốn lưu động hoạt động thuần có được cải thiên nhưng chi phí đầu tư tài sản cố
định lại quá lớn làm giảm lượng tiền mặt trong năm. Đến năm 2005, sự tăng lên trong vốn lưu động hoạt động
thuần là $97200, gấp 1.6 lần lãi ròng, lại khiến cho dòng tiền một lần nữa sụt giảm.










VẤN ĐỀ 3: CHU KỲ KINH DOANH VÀ CHU KỲ LUÂN CHUYỂN TIỀN
Đây là một cách hiệu quả để đo lường tình hình hoạt động của công ty là thông qua cơ chế của chu kì kinh
doanh và chu kỳ lưu chuyển tiền mặt:
Chu kỳ kinh doanh = Số ngày tồn kho + Số ngày phải thu
Năm 2002 = 424 + 42 = 466 ngày
Năm 2003 = 432 + 45 = 477 ngày
Năm 2004 = 437 + 48 = 485 ngày
Năm 2005 = 476 + 51 = 527 ngày


Biểu đồ 8. Biểu đồ thể hiện chu kỳ kinh doanh giai đoạn 2002 – 2005






Chu kỳ luân chuyển tiền = Chu kỳ kinh doanh – Số ngày phải trả
Năm 2002 = 466 – 16 = 450 ngày
Năm 2003 = 477 – 13 = 464 ngày
Năm 2004 = 485 – 10 = 475 ngày
Năm 2005 = 527 – 10 = 517 ngày


Biểu đồ 9. Biểu đồ thể hiện chu kỳ luân chuyển tiền giai đoạn 2002 - 2005
Dựa vào biểu đồ trên có thể thấy chu kỳ kinh doanh và chu kỳ luân chuyển tiền tăng đều qua các năm,
đặc biệt tăng mạnh vào năm 2005 do số ngày phải thu và vòng quay hàng tồn kho tăng trong khi số ngày phải
trả giảm. Cụ thể, từ 2002 đến 2005, số ngày phải thu tăng đều khoảng 7% mỗi năm và vòng quay hàng tồn kho
tăng dao động trên dưới 1,5% theo từng năm, trong khi đó số ngày phải trả liên tục giảm theo từng năm (đến
năm 2005 giảm 36.5% so với năm 2002).
Chu kỳ kinh doanh/luân chuyển tiền của doanh nghiệp quá dài, năm 2005 doanh nghiệp có chu kỳ luân
chuyển tiền hơn đến 136 ngày so với trung bình ngành. Nguyên nhân cốt lõi là do: các khoản phải thu không


được thu một cách nhanh chóng và hiệu quả; hàng tồn kho không thể giải quyết nhanh vì chiến lược kinh doanh
mới; không tối ưu hóa chiếm dụng vốn từ các nhà cung cấp do quyết định thanh toán sớm của Maggie nhằm thu
được một khoản chiết khấu là 2%.


VẤN ĐỀ 4:

Dự báo tài chính trong năm tới cho công ty (2006), giả sử tăng trưởng doanh thu của công ty trong năm tới là
30%, các chỉ tiêu còn lại dựa vào % tăng trưởng doanh thu, các dự phóng công ty và các chính sách hoạt động
như năm 2005.

Chú thích:
(*) Giả định công ty duy trì các chính sách hoạt động như năm 2005
(**) Trong case này, vì các chính sách tài chính của công ty tránh những món nợ từ ngân hàng hay tránh tài trợ
cho các hoạt động từ việc vay nợ, nên công ty không có tài khoản “Long-term Debts” (Nợ dài hạn). Vì thế, Total
Liabilities = Current Liabilities (Tổng nợ = Nợ ngắn hạn), dẫn tới Net Worth = Total Assets – Total Liabilities =
Total Assets – Current Liabilities.
(***) Như kết quả FCFF của năm 2006 đã tính như hình bên dưới, ta có FCFF (2006) =0, mà như ta đã biết
dòng tiền tự do FCFF là dòng tiền có sẵn dùng để chi trả cho các nhà đầu tư (ở đây là gia đình Browns: Bob và



Maggie) và chủ nợ (trong case này không có vì công ty không có vay nợ) sau khi công ty đã đầu tư vào tài sản
cố định, các sản phẩm mới và vốn lưu động cần thiết cho hoạt động của công ty. Ở đây FCFF=0 (hầu hết mọi
năm đang xét), chứng tỏ không có khoản tiền mặt chi trả cho nhà đầu tư mà đã tái đầu tư cho hoạt động kinh
doanh của công ty, thông qua Capex hay NWC. Chứng tỏ ở công ty này, tỷ lệ chi trả cổ tức (payout ratio) = 0.
Thật vậy, vì khoản “lương” hưởng cho nhà Browns được rút ra từ doanh thu hằng năm của công ty nhưng được
ghi nhận vào Chi phí quản lý và bán hàng (SG&A costs) của công ty rồi, nên thực tế nhà Browns đã nhận “công
sức” của mình rồi, không thể hiện thẳng qua FCFF mà đã được ẩn trong OCF. Vì thế, Lợi nhuần ròng (Net
Profit) của công ty sẽ được chuyển thẳng vào Vốn chủ sở hữu (Net Worth) của năm trước - có thể là vào mục
Lợi nhuận giữ lại như ở các công ty cổ phần, để từ đó tính được Vốn chủ sở hữu (Net Worth) của năm hiện tại
(như hình).

PRO FORMA CASH FLOWS
FOR 2006 (in thousands of dollar)
2006F
I. Operating Activities
Net income
Depreciation
Increase in account receivable
Increase in inventories
Increase in other current assets
Increase in account payable
Increase in wages payable
Increase in other payables
Net cash provided used in operating activities
II. Long-term Investing Activities
Capital Expenditure
Net cash used in investing activities
III. Financing Activities

Net cash provided by financing activities
IV. Summary
Net decrease in cash
Cash at the beginning of the year
Cash at the end of the year

PROJECTED 2016 OCF AND FCF
(in thousands of dollar)

83.4
46.0
-43.9
-197.1
-6.3
1.5
7.3
5.4
-103.7

-75.0
-75.0

0.0

-178.7
9.4
-169.3


Tax

EBIT
Depreciation
OCF
Capital Expenditure
NOWC at the beginning of the year
NOWC at the end of the year
ΔNOWC

FCF

2006
F
39%
137.2
46
129.4
75
786.3
840.7
54.4
0.0

=> Nhận thấy tốc độ tăng trưởng doanh thu năm 2006 tăng rất mạnh so với 2005, từ 15.5% lên 30%. Tuy nhiên
lại xuất hiện ra một vấn đề nan giải là sự thiếu hụt tiền trầm trọng (như dự báo là Tiền mặt = - 169.3), giảm sâu
hơn rất nhiều so với con số 9.4 của năm 2005. Mặc dù lượng Tiền mặt tồn cuối năm 2005 không đạt mục tiêu
công ty đề ra nhưng nó vẫn đáp ứng được các chi tiêu trong năm, còn con số ở năm 2006 lại không thể đáp ứng
được nhu cầu chi tiêu trong năm. Điều này có lẽ là do năm 2006 công ty phải đối mặt với sự tăng lên nhiều của
Capex (từ việc dự kiến mua mảnh đất ruộng) và của vốn hoạt động để duy trì tình hình kinh doanh của mình. Vì
thế, công ty nên xem xét việc tận dụng đòn bẩy tài chính để nhanh chóng giải quyết vấn đề này.




VẤN ĐỀ 5: DÒNG TIỀN CÓ ĐƯỢC CẢI THIỆN VỚI DỰ KIẾN G=30% NĂM 2006?

- Giai đoạn 2002-2005, với chiến lược kinh doanh của mình công ty dang dần đốt tiền mặt dù doanh thu vẫn
tăng đều hằng năm. Dòng tiền xấu sẽ kìm hãm sự phát triển, vấn đề tiền mặt sẽ làm giảm sự tăng trưởng của
công ty, qua đó mới thấy rõ tầm quan trọng của nhu cầu tiền mặt. Có thể nói, tiền mặt tiêu thụ trong năm tới dự
kiến sẽ nằm ở ngưỡng đáng báo động. Làm cho mục tiêu hoạt động và phát triển bền vững của công ty dần trở
nên mong manh. Trong trường hợp này, “kinh doanh như bình thường” vốn không phải là một lựa chọn tốt. Để
ước tính nhu cầu tiền mặt mục tiêu, ta có thể dựa theo giả định rằng nó bằng 8% doanh thu, tốc độ tăng trưởng
dự tính là 30%, doanh thu ước tính là 1,36 triệu đô; song, số dư tiền mặt mục tiêu cuối năm 2006 lúc này sẽ là
109,1 nghìn đô. Tuy nhiên, công ty không thể đáp ứng được vì dòng tiền ngày một âm và âm rất lớn (âm 169.3
nghìn đô) như đã dự báo ở vấn đề 4. Điều này tạo ra một vấn đề nan giải trong việc thu hẹp khoảng cách tài
chính giữa mục tiêu đề ra và thực tiễn. Vậy cho nên, trong năm dự báo 2006 mặc cho sự tăng trưởng mạnh
nhưng dòng tiền của công ty chẳng những không được cải thiện mà còn phải đối mặt với dòng tiền âm và nếu
còn tiếp tục tình trạng này những năm về sau thì doanh nghiệp có thể dẫn đến phá sản.
- Mặt khác, nhìn dưới góc độ một nhà điều hành của công ty đang tìm hướng giải quyết, nhận thấy, nếu các
chính sách hoạt động vẫn giữ nguyên như năm 2005 thì việc thay đổi chính sách tài chính của công ty là vô
cùng cần thiết và cấp bách để có thể cải thiện được dòng tiền, cụ thể thông qua việc vay nợ từ bên ngoài. Dựa
trên những giả định như vấn đề 4 khi dự phóng báo cáo tài chính năm 2006 (tuy nhiên có sự thay đổi về số liệu
ở mục Tiền mặt rằng: nó được ước định sẵn theo lượng Tiền mặt mục tiêu (8% Doanh thu năm 2006)) thì số tiền
công ty cần phải vay nợ thêm từ bên ngoài để mua tài sản cần thiết cho sự tăng trưởng sẽ được tính dựa theo chỉ
tiêu AFN. Nhận thấy ở cột 4 (khi không có AFN) thì Tổng tài sản (1557.4) không bằng Tổng nợ và vốn
(1279.1), khoản chênh lệch này (278.3) là sự thiếu hụt nguốn vốn, không đủ để đáp ứng lượng tài sản đòi hỏi
tăng thêm trong năm 2006, và cũng chính là AFN cần kiếm. Lượng vốn cần huy động bên ngoài này (AFN) sẽ


được huy động thông qua vay nợ từ ngân hàng hoặc các nguồn khác, và được thể hiện thông qua tài khoản Nợ
dài hạn (Total Liabilities) như cột 5 hình bên dưới. Việc tồn tại AFN – hay tận dụng đòn bẩy tài chính sẽ giúp
công ty có khả năng đáp ứng được mục tiêu về tốc độ tăng trưởng lẫn lượng tiền mặt đã đề ra mà không bị ảnh

hưởng đến các chính sách hoạt động của mình từ đó giờ.



VẤN ĐỀ 6: (các số liệu về tiền dưới đây hiểu là nghìn $)

Nhóm chúng tôi không đồng tình với chính sách quản lý khoản phải trả của Maggie Brown, vì 2 lý do chính sau
đây:
Thứ nhất, hiện tại, để có được khoản chiết khấu thanh toán 2% từ nhà cung ứng, công ty phải trả tiền
cho họ trong vòng 10 ngày (trung bình hiện tại của công ty là 9.9 ngày, so với số liệu năm 2005) – nhanh hơn
gần 3 lần so với số liệu của trung bình ngành (26.9 ngày). Điều này sẽ không tương thích hiệu quả với các điều
khoản tín dụng hiện tại của họ dành cho khách hàng, vì số ngày phải thu của họ trung bình là 51 ngày, gấp đôi
mức trung bình của ngành (21.8 ngày). Nếu vẫn duy trì chính sách khoản phải thu và khoản phải trả như vậy
(thời gian khoản phải trả nhanh gấp 5 lần thời gian khoản phải thu) thì công ty sẽ bị thiếu tiền mặt trầm trọng.
Cụ thể, khi xét chu kỳ dòng tiền năm 2005 (Cash Conversion Cycle) = Thời gian tồn kho (Inventory days) + Kỳ
thu tiền bình quân (Receivable days) – Kỳ trả tiền bình quân (Payable days) = 476.3 + 50.9 – 9.9 = 517.4 ngày,
tức công ty phải chịu tình cảnh thiếu hụt tiền trong vòng 517.4 ngày trước khi nhận đươc thanh toán đầy đủ. Các
công ty có Chu kỳ dòng tiền dương, đặc biệt lớn như thế này thường sẽ kiếm nguồn tài chính từ việc vay ngân
hàng/tổ chức tài chính, hay các khoản nợ khác để trang trải khoảng thời gian thiếu hụt tiền mặt trước khi họ
nhận được thanh toán từ khách hàng. Điều này đặc biệt đúng đối với các công ty đang phát triền nhanh chóng,
điển hình như công ty Horniman Horticulture trong case này: Cụ thể, với một giả định mức tăng trưởng doanh
thu mà Bob dự phóng cho năm 2006 là 30%, doanh thu ước tính sẽ là $1363.4. Với mức doanh thu này, theo kỳ
vọng mức tiền mặt sẽ đạt 8% doanh thu thường niên của bà Maggie, số dư tiền mặt của họ vào cuối năm 2006
sẽ bằng $109.1. Tuy nhiên, khi lập Bảng cân đối kế toán dự phóng cho năm 2006 với các chính sách hoạt động
giữ nguyên như năm 2005, số liệu dự phóng cho một vài chỉ tiêu và theo những mục tiêu đề ra cho năm 2006 thì


Tiền mặt của công ty lại âm tới 169.3. Nếu doanh nghiệp vẫn theo đuổi chính sách không vay nợ cũng như trả
tiền sớm cho nhà cung ứng, lượng tiền mặt thấp và ngày càng giảm như vậy sẽ ảnh hưởng đến sự đầu tư phát
triển – đặc biệt là khi công ty đang cần chuyển đổi cơ cấu sản phẩm sang dòng cây trồng trưởng thành hơn cần

phải nuôi trồng từ 2 đến 5 năm để đáp ứng cho như cầu đặt hàng của khách, bên cạnh đó phải chi một khoản lớn
để đầu tư cho tài sản cố định – không đáp ứng được mức doanh thu dự kiến cho những năm về sau dẫn đến
doanh nghiệp phải giảm mục tiêu về tốc độ tăng trưởng, cuối cùng dẫn đến nguy cơ phá sản.
Thứ hai, với tỷ suất lợi nhuận ròng (5.8%), cao hơn 3% so với trung bình ngành (2.8%), nên công ty
không cần thiết phải cố gắng lấy được khoản chiết khấu 2% bằng cách liên tục trả tiền cho các nhà cung cấp
sớm, điều này sẽ giúp công ty dự trữ được nhiều tiền mặt hơn. Chính sách quản lý khoản phải trả mà Maggie
Brown đã áp dụng sẽ không thể duy trì trong những năm tới vì chúng có vấn đề về thanh khoản lớn. Các nhà
cung ứng có các điều khoản tín dụng cho phép công ty của Maggie hoàn trả trong vòng 30 ngày cho hàng hóa
đã mua và Maggie nên tận dụng khoản tín dụng thương mại này, thay vì phải đánh đổi để lấy được khoản lợi
không đáng kể từ phần chiết khấu 2% từ nhà cung ứng.
Mặt khác, nhóm chúng tôi cũng xét đến khía cạnh chi phí của khoản tín dụng thương mại để cân nhắc coi nó có
đáng để đạt được hay không. Nhận thấy, khoản tiết kiệm 2% này áp dụng cho 20 ngày tài chính, chứ không phải
cả năm. Thông qua việc ước tính khoản tiết kiệm vốn từ việc không nhận chiết khấu mà trả đúng hạn thanh toán
vào ngày 30; và so sánh khoản này với khoản lỗ 2% khi trả tiền sớm để lấy chiết khấu. Dựa trên các ước tính
cho năm 2006 đã bàn trong "Vấn đề 4" ở trên, nhóm chúng tôi sẽ phân tích như sau:

Nếu công ty bỏ qua chiết khấu và thanh toán vào ngày 30, không bị phạt: mua thuần hàng ngày dự
phóng cho năm 2006: 240.6/365 = 0.66$

Khoản phải trả người bán nếu công ty không nhận chiết khấu = 0.66 x 30 = 19.8$

Khoản phải trả người bán nếu công ty nhận chiết khấu = 0.66 x 10 = 6.6$

Phân tích tính dụng thương mại:

Tổng tín dụng thương mại: 19.8$

Tín dụng TM miễn phí: -6,6$

Tín dụng TM tốn phí: 19.8 – 6.6 = 13.2$


Công ty mất 2% x 240.6 = 4.81$ chiết khấu để nhận thêm 13.2$ tín dụng thương mại, với mức chi phí
danh nghĩa (nominal cost) của tín dụng thương mại là r(NOM)= 4.81/13.2 = 36.5%.

Mặt khác, nếu tính chi phí thực tế (effective cost) của tín dụng thương mại:

Tỷ suất của kỳ tín dụng: 0.02/(1-0.02) = 2.041%

Số kỳ/năm: N = 365/(30-10) = 18.25

Chi phí thực tế EAR= (1+0.02041)^( 18.25) -1 = 44.5%

Rõ ràng là chi phí tín dụng thực tế là khá cao. Nếu công ty có thể vay ngân hàng hoặc từ nguồn khác ít
hơn thì công ty nên nhận chiết khấu. Ở đây, lãi suất vay thế chấp hiện hành là 6.5% nên nếu công ty có thể trả
trong vòng 10 ngày thì họ nên nhận chiết khấu 2% từ nhà cung cấp. Tuy nhiên, ta nhận thấy tình hình thanh
khoản của công ty gần đây có vấn đề nặng, thông qua số liệu về Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh
năm 2005 là âm 52.9, giảm đáng kể so với năm 2004 là dương 49.7; đồng thời, tỷ số thanh toán hiện hành
(Current Ratio) có xu hướng giảm qua các năm, và Tiền mặt cũng ngày càng giảm mạnh, thấp hơn nhiều so với
chỉ tiêu mà công ty đặt ra. Vì thế, tuy là ứng dụng của việc nhận chiết khấu từ nhà cung ứng là tốt, nhưng vào
thời điểm này thì Maggie nên tận dụng hết cả thời hạn tín dụng mà nhà cung ứng cho phép để cải thiện thanh
khoản cho công ty.


VẤN ĐỀ 7: CÁC PHƯƠNG ÁN GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ DÒNG TIỀN CỦA CÔNG TY


Mặc dù Maggie vẫn quyết tâm duy trì chính sách không tài trợ bằng nợ và trả tiền cho nhà cung ứng sớm để lấy
khoản chiết khấu thanh toán. Nếu không thay đổi bất cứ điều gì, sự khan hiếm lượng tiền mặt của doanh nghiệp
trong một thời gian dài sẽ ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng của công ty. Vì lẽ đó, sau đây nhóm chúng tôi sẽ
đưa ra một vài phương án để cải thiện vấn đề thiếu hụt dòng tiền của công ty bấy lâu nay:

 Tăng lợi nhuận: thông qua 2 cách sau
- Tăng doanh thu: gần đây công ty đang tích cực trong việc tăng trưởng doanh thu của mình, có thể xem xét từ
việc nâng giá bán đối với các cây cảnh tạo được cảnh quan hay cây trưởng thành, để biên lợi nhuận cao hơn.
Tuy nhiên điều này có thể sẽ làm công ty tốn thêm chi phí đầu tư vào hàng tồn kho.
- Giảm chi phí hoạt động: công ty đang thực hiện tốt trong việc điều chỉnh chi phí, bằng chứng là chi phí tăng
lên không nhiều qua các năm.
 Điều chỉnh lại các chỉ tiêu hoạt động
- Rút ngắn thời hạn tín dụng dành cho khách hàng: nhận thấy kỳ thu tiền bình quân của công ty gấp đôi so với
của trung bình ngành. Công ty phải cân bằng được việc tăng kì hạn nợ để khuyến khích khách hàng và mức tăng
trưởng doanh thu mục tiêu hợp lý. Công ty có thể hy sinh một chút tốc độ tăng trưởng doanh thu để giảm thời
hạn tín dụng của khách hàng, giúp cải thiện được tình hình thanh khoản của công ty hơn. Bởi nếu thời hạn nợ
dài hơn thì chu kỳ luân chuyển tiền cũng tăng; do vậy, nó làm tăng vốn đầu tư vào khoản phải thu, việc này tốn
kém (chi phí vốn). Khoản phải thu tồn tại càng dài, xác suất khách hàng vỡ nợ và nguy cơ trở thành nợ xấu cũng
tăng lên. Công ty có thể đưa ra mức chiết khấu thanh toán phù hợp cho khách hàng để thúc đẩy tình hình thu hồi
tiền của công ty nhanh hơn.
- Tận dụng hết thời hạn tín dụng mà nhà cung ứng cho phép: công ty đang trả tiền quá nhanh so với trung bình
ngành. Mặc dù như đã phân tích ở vấn đề 6 thì công ty nên nhận chiết khấu do chi phí tín dụng thương mại là
quá cao, công ty có thể nhận tài trợ từ các nguồn vốn khác. Tuy nhiên, vào thời điểm này thì bà Maggie nên tận
dụng hết cả thời hạn tín dụng mà nhà cung ứng cho phép cho đến khi thanh khoản của công ty được cải thiện.
- Cải thiện tình hình hàng tồn kho: Do tính chất hàng tồn kho chủ đạo của công ty hiện tại là sản phẩm trưởng
thành – cần 2-5 năm để trồng, bị phụ thuộc nhiều vào thời tiết, điều này không thể thay đổi đuợc, nên có thể cải
thiện bằng cách đa dạng sản phẩm của công ty hơn, chuyển thêm hướng sang bán những dòng cây trồng ngắn
hạn dễ trồng hơn để tạo ra dòng tiền nhanh hơn. Ngoài ra, xu hướng về nông trại hữu cơ Organic cũng nên được
cân nhắc do khi đời sống phát triển, con người cũng có yêu cầu cao hơn về sản phẩm sạch để có được một sức
khỏe tốt. Mặt khác, công ty có thể dành nhiều phần lợi nhuận tăng thêm đưa vào vốn đầu tư cho hàng tồn kho để
hạn chế tình trạng không đủ tiền mặt để tái đầu tư hoạt động kinh doanh. Đồng thời, theo dõi tỷ suất lợi nhuận
trên vốn đầu tư này có hợp lý chưa để điều chỉnh lại lượng hàng tồn kho phù hợp với sức khỏe tài chính của
công ty tại thời điểm đó.
- Giảm đầu tư vào những tài sản cố định: nhận thấy vòng quay Tài sản cố định ròng của công ty khá tốt thông
qua chỉ tiêu về Khấu hao và Capex và không quá khác biệt so với trung bình ngành. Tuy nhiên, nếu tình trạng

thiếu hụt tiền mặt xấu đi, công ty cần cân nhắc hơn những tài sản cố định có dự tính mua có tương xứng với lợi
ích nó mang lại cũng như chi phí bỏ ra hay không. Hoặc, công ty thay vì tự trả hết số tiền mua đất bằng số tiền
mặt hiện có của mình trong 1 lần thì có thể dùng công cụ vay thế chấp một phần để tài trợ cho khoản chi này.
 Tăng các khoản tài trợ:
- Tài trợ từ nợ: Công ty cần xem xét tận dụng đòn bẩy từ nợ, nhất là trong thời kỳ thịnh vượng của công ty,
nhằm bù đắp sự thiếu hụt vốn kinh doanh, một mặt nhằm hy vọng gia tăng tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu
(ROE). Chưa kể, khoản tiền lãi vay phải trả được coi là khoản chi phí hợp lý và được tính trừ vào thu nhập chịu
thuế của doanh nghiệp. Giúp số tiền thuế TNDN phải nộp ít đi, làm gia tăng lợi nhuận. Đây được xem như là


“Lá chắn thuế”. Tuy nhiên, công ty cần định ra cấu trúc vốn tối ưu cho công ty mình, phải hoàn thành nghĩa vụ
hoàn trả vốn gốc cho các chủ nợ đúng hạn, cân bằng với rủi ro kình doanh từ việc hàng tồn kho bị ảnh hưởng
bởi thời tiết và cân nhắc rằng nếu công ty đang gặp khó khăn và lợi nhuận hoạt động không đủ để trang trải chi
phí lãi vay thì công ty hạn chế sử dụng nợ vay, có thể sẽ phá sản. Ở đây, do công ty Horniman có tiềm năng mở
rộng sản phẩm cao, tình hình kinh doanh của công ty đang phát lên và dòng tiền hoạt động tăng trưởng ổn định
nên sẽ được lợi từ việc sử dụng nhiều nợ hơn. Ví dụ, công ty có thể tài trợ cho việc mua mảnh đất nông nghiệp
lân cận dự kiến từ nguồn vay thế chấp từ ngân hàng với lãi suất hiện hành là 6.5%, điều này có thể chấp nhận
được do tốc độ tăng trưởng doanh thu dự kiến (30%), và tốc độ lợi nhuận dự kiến (37.2%) năm 2006 của công
ty cao hơn rất nhiều.
- Tài trợ từ vốn chủ sở hữu: công ty có thể chuyển mô hình hoạt động của công ty sang loại hình nhiều chủ sở
hữu hơn hiện giờ, hoặc có thể cân nhắc đến các thương vụ mua bán sáp nhập với công ty khác lớn mạnh hơn
(nếu có thể và xem xét kỹ lưỡng), việc này không chỉ gia tăng lượng tiền mặt của công ty mà còn gia tăng nhiều
giá trị khác như của cải, danh tiếng, hiệu quả hoạt động, hiệu suất hay sức mạnh thị trường.
VẤN ĐỀ 8: VẤN ĐỀ CỦA CÔNG TY



Công ty Horniman cũng giống như nhiều công ty khác trên thị trường, gặp những khó khăn trong việc kinh
doanh lẫn cạnh tranh trên thị trường . Đặc biệt sự thiếu hụt về tiền mặt là một trong những vấn đề quan trọng mà
công ty đang đối mặt.

-

-

Hiện tại, năm 2005, mức tiền mặt của công ty là 0.9% doanh thu năm, thấp hơn mục tiêu 8% của họ rất
nhiều. Đồng thời, với mức tăng trưởng doanh thu dự kiến là 30%, nếu giữ nguyên các chính sách hoạt
động, tài chính và các dự phóng ở một vài chỉ tiêu, thì lượng tiền mặt ước tính tương ứng ở năm 2006 là
một con số âm, thời gian thiếu hụt tiền mặt ngày càng kéo dài, song, công ty vẫn chưa áp dụng được
nguồn tài trợ hợp lý để bù đắp. Do đó, công ty Horniman có một vấn đề thanh khoản lớn, vì công ty
đang gặp vấn đề với việc chuyển đổi doanh thu thành tiền mặt – tốc độ tăng trưởng nhanh mà tiền mặt
thì khan hiếm – thường xảy ra ở các công ty nhỏ mới phát triển. Công ty đã đánh giá thấp vai trò của
dòng tiền đối với nhu cầu tăng trưởng mạnh. Bởi tăng trưởng thường đòi hỏi đầu tư tài sản nhiều.Việc
đầu tư tài sản cần phải có nhiều tiền để bù đắp cho các chi phí mua sắm, tu sửa. Tuy nhiên, với những
giả định đã cho, nếu số dư tiền mặt không thay đổi thì tăng trưởng doanh thu giảm xuống còn 4.2%.. Vì
thế, Bob và Maggie cần giải quyết vấn đề này trước khi tình hình tồi tệ hơn, có thể là dẫn đến phá sản.
Bên cạnh đó, đứng dưới góc độ của nhà điều hành công ty, ta cần đánh giá thành quả hoạt động của
doanh nghiệp mình sau một khoảng thời gian hoạt động để biết xem có cần cải tiến các chính sách công
ty không. Thực tế ở Horniman, tỷ lệ hoàn vốn (ROC) hiện tại thấp hơn chi phí vốn. Điều này cho thấy
lợi nhuận thấp hơn chi phí cơ hội của vốn. Để nhấn mạnh điều này, nhóm chúng tôi sẽ ước tính lợi nhuận
kinh tế (EVA) doanh nghiệp tạo ra:
EVA= (ROC – Chi phí vốn).Tổng vốn
Dựa vào số liệu năm 2005, ta có ROC= 5.4%, ước đoán chi phí vốn là 9% (tính luôn cả chi phí rủi ro về
các yếu tố ngoại cảnh và chi phí cơ hội của vốn chủ sở hữu) và tổng vốn năm 2005 là 1,1 triệu đô, thì
doanh nghiệp tạo ra lợi nhuận kinh tế cao hơn chi phí cơ hội là -40000$. Lợi nhuận kinh tế là thước đo
hoạt động của doanh nghiệp, ước lượng lợi nhuận thực của công ty, nhưng con số -40000$ nhỏ hơn 0
cho thấy tình hình công ty đang bất ổn, doanh thu chưa đủ để bù đắp được toàn bộ các chi phí kinh tế.
Chắc chắn cần có phương án thay thế cho phép doanh nghiệp sử dụng các nguồn lực một cách hiệu quả
để tăng giá trị kinh tế. Nếu họ không tăng lợi nhuận kinh tế để bù đắp cho chi phí cơ hội được, thì tốt
hơn nên đầu tư vào công ty khác. Nhưng liệu việc đầu tư có thể mang đến lợi nhuận biên bù đắp cho chi
phí bỏ ra hay không. Do đó, công ty cần những biện pháp hiệu quả để cải thiện lợi nhuận kinh tế thì mới



có thể phát triển lâu dài mà không xuất hiện nợ xấu trong tương lai, cũng như giữ vững vị thế của mình
trên thị trường.



×