BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI
********
ĐỖ TRẦN PHƯƠNG
BIỂU TƯỢNG TRONG NHÀ THỜ CÔNG GIÁO
TẠI HÀ NỘI
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
HÀ NỘI, 2020
BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI
********
ĐỖ TRẦN PHƯƠNG
BIỂU TƯỢNG TRONG NHÀ THỜ CÔNG GIÁO
TẠI HÀ NỘI
Chuyên ngành: Văn hóa học
Mã số: 9229040
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Đỗ Quang Hưng
HÀ NỘI, 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân dưới sự
hướng dẫn khoa học của GS.TS. Đỗ Quang Hưng. Các kết quả nghiên cứu và các
kết luận trong luận án là trung thực, không sao chép từ bất kỳ một nguồn nào và
dưới bất kỳ hình thức nào. Việc tham khảo các tài liệu đã được trích dẫn và ghi
nguồn theo đúng quy định.
Tác giả luận án
Đỗ Trần Phương
1
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC ................................................................................................................... 1
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT ........................................................................... 2
DANH SÁCH CÁC BẢNG, SƠ ĐỒ .......................................................................... 3
MỞ ĐẦU ..................................................................................................................... 4
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN ... 9
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ....................................................................... 9
1.2. Cơ sở lý luận ................................................................................................... 21
Tiểu kết .................................................................................................................. 37
Chương 2: NHÀ THỜ CÔNG GIÁO HÀ NỘI: PHÂN LOẠI VÀ Ý NGHĨA
BIỂU TƯỢNG ......................................................................................................... 38
2.1. Khái quát về lịch sử nhà thờ Công giáo tại Hà Nội ........................................ 38
2.2. Kết cấu kiến trúc của nhà thờ Công giáo tại Hà Nội ...................................... 45
2.3. Phân loại, đặc điểm và ý nghĩa của biểu tượng trong nhà thờ Công giáo tại
Hà Nội.................................................................................................................... 52
Tiểu kết .................................................................................................................. 73
Chương 3: PHÂN TÍCH BIỂU TƯỢNG TRONG NHÀ THỜ CÔNG GIÁO
TẠI HÀ NỘI ................................................................................................... 75
3.1. Góc tiếp cận chức năng .................................................................................. 75
3.2. Góc độ nghệ thuật và văn hóa ........................................................................ 85
3.3. Góc tiếp cận chủ thể văn hóa .......................................................................... 91
3.4. Người Công giáo Hà Nội và Biểu tượng trong đời sống văn hóa .................. 98
Tiểu kết ............................................................................................................... 107
Chương 4: BIỂU TƯỢNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA HIỆN NAY VỚI
NGƯỜI CÔNG GIÁO Ở HÀ NỘI........................................................................................ 109
4.1. Hội nhập văn hóa trong biểu tượng............................................................109
4.2. Nhận thức biểu tượng trong đời sống văn hóa Công giáo...........................118
4.3. Thống nhất và đa dạng của biểu tượng văn hóa Công giáo.........................127
Tiểu kết.............................................................................................................. 142
KẾT LUẬN...........................................................................................................144
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN...............................................................................................147
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................148
PHỤ LỤC........................................................................................................................................... 157
2
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
Chữ viết đầy đủ
1Cr
Thư thứ nhất của Thánh Phaolo Tông đồ gửi tín hữu tại
Côrintô
2Sm
Sách Samuen quyển 2
Ep
Thư của Thánh Phaolo gửi cho các tín hữu tại Êphêxô
Ga
Tin Mừng Gioan
Gs
Sách Giôsuê
GS
Giáo sư
Lc
Tin Mừng Luca
Lm
Linh mục
Mc
Tin Mừng Máccô
Mt
Tin Mừng Mátthêu
NCS
Nghiên cứu sinh
Nkm
Sách Nơkhemia
Nxb
Nhà xuất bản
tr
Trang
TS
Tiến sĩ
TV
Thánh vịnh
3
DANH SÁCH CÁC BẢNG, SƠ ĐỒ
Bảng 2.1: Số lượng giáo hạt, giáo xứ thuộc Tổng Giáo phận Hà Nội ......................52
Bảng 2.2: Các giáo xứ trên địa bàn Hà Nội ..............................................................
53
Bảng 2.3: Biểu tượng tiêu biểu trong các nhà thờ đã khảo sát .................................
54
Bảng 4.1: Số người và thành phần phỏng vấn .......................................................
119
Bảng 4.2: Kết quả khảo sát biểu tượng trong các nhà thờ Công giáo tại giáo phận
Bùi Chu .................................................................................................................. 129
4
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Khởi đầu từ “Nhà Tạm”, trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, nhà thờ Công giáo là
một thành tố quan trọng không thể tách rời trong đời sống tôn giáo của tín đồ Công
giáo trên thế giới. Nhà thờ Công giáo - Ngôi nhà của Chúa, nó không chỉ là không gian
thiêng quan trọng bậc nhất của Hội thánh Công giáo mà còn là nơi để giáo dân tụ họp,
bày tỏ đức tin của mình với Chúa. Song hành với sự phát triển của lịch sử, nhà thờ
Công giáo cũng có sự thay đổi liên tục để phù hợp với mục đích phụng vụ, cũng như sự
phát triển của kỹ thuật, nghệ thuật. Từ nhà Tạm, đến đền thờ Jesusalem, hang toại đạo,
nhà thờ theo phong cách Bazatine, Roman, Gothic, hiện đại, nhà thờ Công giáo đều đã
để lại dấu ấn của mình trong lịch sử kiến trúc và mỹ thuật thế giới đồng thời đáp ứng
tốt nhu cầu Phụng vụ Thiên Chúa. Nhà thờ, dù to hay nhỏ, dù theo phong cách kiến
trúc nào đi chăng nữa cũng đều hướng tới những mục đích chính: Khẳng định sự hiện
diện của Thiên Chúa; Nơi tập hợp giáo dân và cử hành Thánh lễ.
Đối với nhà thờ, mọi cấu kiện kiến trúc trong nhà thờ đều mang giá trị thần học
và biểu tượng rất cao. Tuy nhiên, nếu không có đức tin, tình cảm tôn giáo, tri thức về
Công giáo thì những hạng mục công trình kiến trúc, motif trang trí hay biểu tượng chỉ
đơn thuần là những vật trang trí như những công trình thế tục khác. Hơn thế nữa, biểu
tượng trong nhà thờ Công giáo không chỉ là đồ án trang trí nhà thờ mà cao hơn cả, mỗi
biểu tượng và những tổ hợp biểu tượng đều thể hiện giá trị thần học, đức tin, văn hóa và
nghệ thuật. Biểu tượng là sự hiện hữu hóa của cái vô hình, là điểm tựa của đức tin, cầu
nối giữa con chiên với Chúa và góp phần quan trọng củng cố, bồi đắp đức tin, đức cậy,
đức mến. Không thể phủ nhận rằng: “Công giáo là một tôn giáo của nghệ thuật”. Tất
cả nghệ thuật trong công giáo đều là nghệ thuật thánh tức là nghệ thuật hướng tới
phụng vụ, thờ phụng Thiên Chúa. Biểu tượng cũng chính là đối tượng thể hiện được
nghệ thuật Thánh rất cao trong nhà thờ.
Kể từ khi Công giáo được truyền vào Việt Nam năm 1533 tại Quần Anh, Trà
Lũ, Nam Định, đạo Công giáo đã hình thành ở Việt Nam nhiều giá trị văn hoá mới.
Những giá trị nhân văn cao cả của đạo Công giáo, những tri thức khoa
5
học, hệ thống chữ viết, những lễ hội, những giá trị văn hoá vật thể mà tiêu biểu là hệ
thống nhà thờ đã trở thành một thành tố văn hoá không thể tách rời của văn hoá Việt
Nam. Những giá trị của văn hoá Công giáo đã tạo nên sự đa thanh, đa sắc của văn
hoá Việt Nam.
Hà Nội, mảnh đất “Ngàn năm văn hiến”, trung tâm văn hoá lớn của cả nước
cũng là mảnh đất được truyền bá Phúc Âm từ rất sớm. Ngay từ năm 1626, L.m.
Giuliano Baldinotti, người Ý và Thầy Piani người Nhật là hai thừa sai đầu tiên đã
tới Kẻ Chợ (Thăng Long) và được chúa Trịnh Tráng cho tự do truyền giáo. Trong
quá trình đạo Công giáo phát triển ở Hà Nội đã để lại cho thủ đô nhiều giá trị văn
hoá vật thể và phi vật thể phong phú và có giá trị nghệ thuật cao.
Với vị thế là trung tâm văn hoá, chính trị, kinh tế của cả nước, Hà Nội từ lâu
đã tiêu biểu cho giáo phận Đàng Ngoài, sau này tiêu biểu cho “Tổng giáo phận”
phía Bắc nên giá trị kiến trúc và nghệ thuật tạo hình, đồ họa trong nhà thờ Công
giáo tại Hà Nội đều ở trình độ cao và có tính cách chung cho các nhà thờ lớn của
Công giáo thế giới, nhất là những nhà thờ có phong cách kiến trúc Pháp. Những nhà
thờ Công giáo đã tô điểm thêm cho vẻ đẹp của thủ đô Hà Nội.
Hệ thống nhà thờ Công giáo tại Hà Nội đã là đối tượng nghiên cứu của rất
nhiều ngành như lịch sử, kiến trúc, mỹ thuật, nghệ thuật, hội hoạ... Kết quả nghiên
cứu thu được từ những ngành này đã góp phần làm sáng tỏ những giá trị của nhà
thờ Công giáo tại Hà Nội.
Tuy nhiên, mảng nghiên cứu hệ biểu tượng trong nhà thờ Công giáo tại Hà
Nội một cách hệ thống từ phân loại, chức năng, giá trị, nhận thức đến những vấn đề
đặt ra trong nghiên cứu biểu tượng thì chưa một có công trìnhh nào đề cập đến một
cách hệ thống.
Chính vì vậy, nghiên cứu sinh đã chọn đề tài: “Biểu tượng trong nhà thờ
Công giáo tại Hà Nội” làm đề tài luận án tiến sỹ Văn hoá học của mình để hiểu rõ
hơn “Một tiêu điểm” thần học đức tin của Công giáo, “Một kết tinh” của ngôn ngữ
tôn giáo và nghệ thuật thông qua biểu tượng cũng như biểu tượng và đời sống tôn
giáo, văn hóa của người Hà Nội.
6
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
- Mục đích
Luận án tập trung nghiên cứu phân loại hệ biểu tượng tiêu biểu trong nhà thờ
Công giáo tại Hà Nội, từ đó giải mã ý nghĩa của hệ biểu tượng này nhằm chỉ ra các
lớp nghĩa mang tính tôn giáo và văn hóa, cách tiếp nhận và biến đổi trong quá trình
tạo dựng biểu tượng ở các thờ Công giáo tại Hà Nội. Luận án cũng dành một phần
trọng tâm để phân tích chức năng của biểu tượng trong nhà thờ đối với đời sống đức
tin của người Công giáo, phân tích nhận thức của người Công giáo về biểu tượng
trong nhà thờ đồng thời đó là sự hội nhập văn hóa thông qua biểu tượng.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Tìm hiểu lý luận về biểu tượng, biểu tượng tôn giáo và biểu tượng Công giáo;
+
Khảo sát những biểu tượng đặc trưng trong nhà thờ Công giáo trên địa bàn Hà Nội; Phân
loại biểu tượng; Đặc điểm của biểu tượng trong nhà thờ Công giáo Hà Nội.
+
Phân tích chức năng, giá trị của biểu tượng trong đời sống đạo của người Công giáo;
nhận thức của người Công giáo với biểu tượng; Những vấn đề đặt ra đối với đời
sống tôn giáo và xã hội của người Công giáo Hà Nội liên quan đến nhà thờ và biểu
tượng của chúng.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng
Đề tài chỉ nghiên cứu những biểu tượng vật thể tiêu biểu trong nhà thờ Công
giáo (Đối với nhà thờ Chính toà, nhà thờ xứ và nhà thờ họ), còn những biểu tượng
nghi lễ không nằm trong đối tượng nghiên cứu của luận án.
- Phạm vi
+ Nội dung: Trong luận án này NCS chỉ nghiên cứu, phân loại, ý nghĩa, chức
năng và giá trị của hệ biểu tượng trong nhà thờ Công giáo.
+ Không gian: NCS chỉ tiến hành nghiên cứu một số nhà thờ tiêu biểu trên
địa bàn Hà Nội đã được mở rộng.
7
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Về cơ sở lý luận, luận án vận dụng phương pháp triết học duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử. Mục đích để xem xét nhìn nhận các sự việc, hiện tượng
diễn ra trong mối quan hệ biện chứng và sự phát triển của sự vật hiện tượng luôn
diễn ra theo quá trình lịch sử lâu dài. Đề tài cũng dựa trên những quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước
ta về văn hoá làm cơ sở lý luận.
4.2. Luận án sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành văn hóa học (Nhìn
biểu tượng dưới nhiều góc độ: Từ tôn giáo, tâm lý, nghệ thuật, văn hóa để biểu
tượng được hiển thị một cách đa chiều nhất). Bên cạnh đó, NCS chọn khung lý
thuyết kí hiệu học văn hóa để tiếp cận, giải mã biểu tượng. Đây là cơ sở để NCS tìm
hiểu được bản chất của biểu tượng và giải mã được hệ giá trị ý nghĩa của nó. Tuy
nhiên, nếu biểu tượng chỉ tiếp cận dưới dạng kí hiệu học của Văn hóa học thì biểu
tượng tương đối khô cứng và mới chỉ mang những ý nghĩa cơ bản. Chính vì vậy,
NCS lại tiếp tục áp dụng phương pháp nhân học biểu tượng, đặt biểu tượng trong
đời sống văn hóa tôn giáo sống động của người Công giáo để nghiên cứu tìm hiểu
biểu tượng đối với tình cảm tôn giáo, đức tin, nhận thức của người Công giáo.
4.3. Luận án còn vận dụng phương pháp điền dã, phỏng vấn sâu đối. NCS đã
khảo gần 50 nhà thờ tại Hà Nội và giáo phận Bùi Chu để thu thập dữ liệu dùng cho
việc phân tích, so sánh khi thực hiện đề tài. Bên cạnh đó, NCS cũng thực hiện
phỏng vấn sâu 50 người Công giáo (Linh mục, thày dòng, nữ tu, giáo dân) để có
một cái nhìn tương đối toàn diện về biểu tượng trong đời sống tôn giáo của người
Công giáo.
4.4. Luận án cũng sử dụng phương pháp so sánh để làm rõ những đặc điểm
giống và khác nhau đối với biểu tượng tại nhà thờ Công giáo tại Hà Nội và giáo
phận Bùi Chu. Luận án cũng sử dụng phương pháp phân tích tài liệu để sử dụng
trong quá trình phân tích về biểu tượng, biểu tượng tôn giáo, biểu tượng Công giáo
và một số nội dung khác liên quan trong luận án.
8
5. Câu hỏi nghiên cứu
Với 4 chương, luận án tập trung làm sáng tỏ 3 câu hỏi nghiên cứu chính dưới đây:
- Phân loại, đặc điểm của biểu tượng trong nhà thờ Công giáo tại Hà Nội?
-
Chức năng, giá trị của biểu tượng trong nhà thờ Công giáo tại Hà Nội tác động đến
người Công giáo Hà Nội như thế nào trong đời sống văn hóa và tôn giáo?
-
Sự hội nhập văn hóa qua biểu tượng và nhận thức của người Công giáo Hà Nội về
biểu tượng?
6. Kết quả và đóng góp của luận án
+ Luận án cung cấp cái nhìn tổng thể về hệ biểu tượng tiêu biểu trong nhà
thờ và phân loại hệ thống biểu tượng trong nhà thờ Công giáo tại Hà Nội.
+
Phân tích chuyên sâu về giá trị và chức năng của hệ biểu tượng trong nhà thờ
Công giáo tại Hà Nội; Nhận thức của người Công giáo Hà Nội về biểu tượng.
+ Gợi mở những vấn đề đặt ra đối với nghiên cứu biểu tượng trong nhà thờ
Công giáo tại Hà Nội
7. Nội dung của luận án
Ngoài phần mở đầu, nội dung, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, kết cấu của luận án gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu và cơ sở lý luận
Chương 2: Nhà thờ Công giáo Hà Nội và phân loại, ý nghĩa biểu tượng
trong nhà thờ Công giáo tại Hà Nội
Chương 3: Phân tích biểu tượng trong nhà thờ Công giáo tại Hà Nội
Chương 4: Biểu tượng trong nhà thờ Công giáo ở Hà Nội và những vấn đề
đặt ra
9
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Khái quát về nghiên cứu lịch sử Công giáo ở Việt Nam và ở Hà Nội
Tài liệu về Công giáo tại Việt Nam tương đối phong phú và đa dạng. Tuy
nhiên, trong khuôn khổ luận án, NCS xin hệ thống và đánh giá một số tài liệu cơ
bản nhất phục vụ trực tiếp cho đề tài. Có thể kể đến những công trình sau: “Lược sử
Giáo hội Việt Nam” của linh mục Augustino Nguyễn Văn Trinh (1994) [110],
“Cuộc lữ hành Đức tin” của linh mục Đào Trung Hiệu (1997) [41], “Tản mạn lịch
sử Giáo hội Công giáo Việt Nam” của linh mục Đỗ Quang Chính chủ biên (2008)
[19], Giáo hội Công giáo ở Việt Nam của Linh mục Bùi Đức Sinh (2009) [91],
Công giáo Việt Nam. Tri thức cơ bản của tác giả Nguyễn Hồng Dương, Ngô Quốc
Đông (2012) [25], Giáo hội Công giáo Việt Nam. Niên giám 2016 của Hội đồng
giám mục Việt Nam (2017) [49]. Ngoài ra còn rất nhiều công trình về quá trình du
nhập và phát triển của Công giáo tại Việt Nam: “Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam”
của linh mục Nguyễn Hồng (2009), “Dấu ấn 350 năm Giáo hội Công giáo Việt
Nam” của Hội đồng Giám mục Việt Nam (2010) [45], “Lịch sử thành lập hàng
giáo phẩm Việt Nam” của linh mục Phêrô Nguyễn Thanh Tùng (2010) [106],
“Hành trình ân phúc” của linh mục Đào Trung Hiệu (2013) [42]. Có thể nói những
công trình nghiên cứu về lịch sử phát triển của đạo Công giáo tại Việt Nam, góp
phần làm rõ hơn tiến trình hình thành và phát triển cũng như sự đồng hành của Giáo
hội Công giáo Việt Nam với lịch sử dân tộc.
Tài liệu nghiên cứu về Công giáo Hà Nội có thể kể đến Hồng Nhuệ Nguyễn
Khắc Xuyên “Lược sử địa phận Hà Nội 1626 – 1954” của Hồng Nhuệ Nguyễn
Khắc Xuyên (1994) [120] “Kitô giáo ở Hà Nội” của Nguyễn Hồng Dương (2008)
[24], “Đời sống tôn giáo tín ngưỡng Thăng Long – Hà Nội” của Đỗ Quang Hưng
(2010), [58].
Cuốn sách “Cuộc lữ hành Đức tin” (1997) của linh mục Đào Trung Hiệu, có
thể tác giả đã trình bày một cách rất cụ thể về những vấn đề trong Giáo hội Roma
10
trong những năm cuối thế kỷ XV-XVI, những vấn đề của văn hóa phục hưng, sự
chuyển biến trong Tin Lành và Chính Thống, cùng việc cải tổ của Giáo hội. Qua đó,
tác giả đã dẫn giải đến công cuộc loan báo Tin mừng trên đất Việt của các giáo sĩ
Phương Tây. Từ đây Giáo hội Công giáo Việt Nam được hình thành và phát triển,
trải qua những thăng trầm của lịch sử đất nước, đạo Công giáo vẫn vươn mình phát
triển cho đến ngày nay.
Sự phát triển nhất của Giáo hội Công giáo Việt Nam dẫn đến sự thiết lập Hội
đồng Giám mục Việt Nam năm 1980. Đây là thời kì đánh dấu sự trưởng thành của
Giáo hội Việt Nam, tiếp tục con đường của các bậc tiền nhân để xây dựng Giáo hội
Công giáo Việt Nam như ngày hôm nay. Điều này được thể hiện qua các “Thư
chung” của các Giám mục Việt Nam. Cuốn “Hội đồng Giám mục Việt Nam (1980 2000)” (2001), của Hội đồng Giám mục Việt Nam đã đề cập chung đến tiến trình
phát triển của Giáo hội Công giáo Việt Nam, cùng với các thư chung năm 1980,
1997, 1998,1999, 2000. Trong những bức thư chung đó đề cập đến những vấn đề
trong đời sống của người giáo dân, những định hướng trong đời sống đạo cho các
Kitô hữu cũng như mối quan hệ giữa thần học Công giáo trong nền văn hóa dân tộc.
Sự dung hòa của thần học Công giáo với những phong tục, tập quán, văn hóa Việt
Nam vốn có truyền thống lâu đời.
Công trình tiêu biểu nghiên cứu về quá trình du nhập và phát triển của Công
giáo vào Việt Nam đó là cuốn “Giáo hội Công giáo ở Việt Nam” do Linh mục Bùi Đức
Sinh chủ biên. Công trình đã khái quát một cách rất cụ thể về tiến trình du nhập và phát
triển của đạo Công giáo tại Việt Nam, bao gồm bốn phần: Phần 1 nói về thời kỳ mở
đường và đặt nền móng của Công giáo tại Việt Nam bởi những bước chân mở đường
của các giáo sĩ dòng Đaminh và dòng Phanxico, với việc đặt nền móng của các giáo sĩ
dòng Tên Chúa Giêsu. Thời kì này từ trước thế kỉ XVI đến giữa thế kỉ XVII. Phần thứ
hai, thời kỳ xây dựng và tổ chức, công cuộc truyền giáo của thánh bộ Truyền bá Đức
tin, qua Hội Thừa sai Paris, dòng Đaminh, dòng Phanxico, dòng Tên, đồng thời có sự
góp phần của các giáo sĩ Việt Nam, thầy giảng, nữ tu, giáo dân. Thời kì này từ giữa thế
kỉ XVII đến sang đầu XIX. Phần thứ ba, thời kì vươn lên trong thử
11
thách đau thương. Đây là thời kì khó khăn nhất trong quá trình truyền giáo tại Việt
Nam, trước những chính sách cấm đạo của vua nhà Nguyễn, thời kì này trong thế kỉ
XIX. Phần thứ tư, thời kì kiến thiết và tiến tới trưởng thành. Trong phần thứ tư, tác
giả đã trình bày những bước chuyển mình lớn của Công giáo tại Việt Nam từ cuối
thế kỉ XIX và trong thế kỉ XX. Số lượng giáo dân, dòng tu cùng với hàng Giáo sĩ,
Giáo phẩm ngày càng gia tăng và sự thiết lập Hàng Giáo phẩm Việt Nam năm 1960.
Các hoạt động văn hóa như sự phát triển của các hội đoàn, các hoạt động văn
chương, báo chí, mỹ thuật… ngày càng được phát triển mạnh mẽ.
Cuốn “Giáo hội Công giáo Việt Nam. Niên giám 2016” (2017) của Hội đồng
Giám mục Việt Nam là một tài liệu cung cấp nhiều tri thức, thông tin quan trọng.
Trong đó, ở phần thứ nhất, cuốn sách giới thiệu một cách khái quát nhất về giáo hội
Công giáo, các vị Giáo hoàng trong giáo hội, các Công đồng trong giáo hội cũng
như phẩm trật và tổ chức trong giáo hội Công giáo. Tuy nhiên, điểm đặc biệt ở đây
là phần hai của cuốn sách đã đề cập một cách cụ thể giáo hội Công giáo Việt Nam
trong dòng lịch sử. Cuốn sách đã trình bày tiến trình phát triển của Công giáo khi du
nhập vào Việt Nam từ khi giáo sĩ Inikhu đến đất Việt vào năm 1533, đến những giai
đoạn tăng trưởng, phát triển và trưởng thành. Bên cạnh đó, cuốn sách còn đề cập
đến cơ cấu tổ chức cũng như các Giám mục của giáo hội Công giáo Việt Nam qua
các thời kì; phân tích và khái quát về từng giáo phận trong ba Giáo tỉnh: Giáo tỉnh
Hà Nội với mười giáo phận, Giáo tỉnh Huế với sáu giáo phận, Giáo tỉnh Thành Phố
Hồ Chí Minh với 10 giáo phận. Đây là cuốn sách thể hiện sự khái quát nhất về
những vấn đề của Giáo hội Công giáo cũng như Giáo hội Công giáo tại Việt Nam.
Tất cả những tài liệu kể trên đã cho NCS cái nhìn tổng quan về lịch sử Công
giáo Việt Nam. Những mốc lịch sử này có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình hình
thành và phát triển của nhà thờ Công giáo trên cả nước nói chung và nhà thờ Công
giáo tại Hà Nội nói riêng.
Về khái quát nghiên cứu lịch sử Công giáo ở Hà Nội phải kể đến một công
trình rất nghiên cứu rất quan trọng của tác giả Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên.
Tác giả đã nghiên cứu rất kĩ lưỡng lịch sử Công giáo Hà Nội theo 5 thời kì. Thời
12
các giáo sĩ Dòng Tên từ 1626 – 1663; Thời các Thừa sai ngoại quốc dưới thời chúa
Trịnh (1659 – 1789); Thời các Thừa sai dưới triều nhà Nguyễn (1789 – 1883); Phần
4: Thời các Thừa sai dưới thời bảo hộ Pháp (1883 – 1945); Thời các Giám mục Việt
Nam độc lập đất nước (1945 – 1954). Trong phần lịch sử của Công giáo Hà Nội, tác
giả cũng cung cấp một số thông tin về nhà thờ sơ khai trong thời kì giáo sĩ Dòng
Tên ở các khu như Cầu Giền (Dền), Quảng Bá, Đống Mác, phố Hàng Tre.
Cuốn “Kitô giáo ở Hà Nội” của tác giả Nguyễn Hồng Dương đã hệ thống
một cách toàn diện lịch sử phát triển của Công giáo Hà Nội. Xen kẽ với lịch sử của
Công giáo Hà Nội tác giả cũng trình bày thêm những thông tin cơ bản về nhà thờ
Công giáo tại Hà Nội. Bên cạnh đó, trong phần đóng góp trên lĩnh vực văn hóa vật
thể của Công giáo Hà Nội tác giả đã đi sâu phân tích về kiến trúc nhà thờ Công giáo
Hà Nội. Những thông tin này, giúp NCS có những thông tin định hướng ban đầu rất
quan trọng về lịch sử phát triển của Công giáo Hà Nội cũng như nhà thờ Công giáo
Hà Nội trong quá trình nghiên cứu của mình.
Trong cuốn “Đời sống tôn giáo tín ngưỡng Thăng Long – Hà Nội”, tác giả
Đỗ Quang Hưng đã trình bày về Công giáo ở Hà Nội trong tổng thể các tôn giáo
khác ở Hà Nội như Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo, Tin Lành, Cao Đài và Hà Nội.
Trong phần này, tác giả đã khái quát một số đặc điểm quan trọng của Công giáo Hà
Nội trên các bình diện lịch sử, không gian, sinh hoạt tôn giáo, biến động lịch sử, hội
nhập và toàn cầu hóa. Những khái quát này đã giúp nghiên cứu sinh có thêm những
điểm quy chiếu khi nghiên cứu về biểu tượng trong nhà thờ Công giáo Hà Nội.
1.1.2. Nghiên cứu biểu tượng và biểu tượng Công giáo
1.1.2.1. Nghiên cứu về biểu tượng
Biểu tượng là một vấn đề nghiên cứu rất phức tạp, do đó để nghiên cứu biểu
tượng, tác giả đã tiếp cận biểu tượng theo nhiều nguồn từ hệ thống từ điển đến những
công trình nghiên cứu chuyên ngành về biểu tượng. Đầu tiên, có thể kể đến những cuốn
từ điển sau: Từ điển dành cho người có tín ngưỡng và người không có tín ngưỡng của
tác giả Nguyễn Minh Tiến (2000) [104], Tri thức tôn giáo qua các vấn nạn và giải đáp
của John Renard (2005) [66], Từ điển tiếng Việt của Cung Kim Tiến
13
(2006) [103], Từ điển vô thần luận của Học viện Đa Minh (2014) [43], Từ điển biểu
tượng văn hóa thế giới của Jean Chevaliver, Alain Gheebrant (1997) [62] Với những
tài liệu chuyên ngành là những công trình nghiên cứu: Những vấn đề nhân học tôn
giáo của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam (2006) [51], Thế giới biểu tượng trong di
sản văn hóa Thăng Long – Hà Nội của tác giả Trần Lâm Biền – Trịnh Sinh (2011)
[11], Nghiên cứu biểu tượng: Một số hướng tiếp cận lý thuyết của nhà nghiên cứu
Đinh Hồng Hải (2014) [34], Giải mã văn học từ mã văn hóa của tác giả Trần Lê
Bảo (2011) [9].
Từ những cuốn từ điển, những công trình nghiên cứu đã giúp cho NCS có
những cơ sở tiếp cận đa chiều khi nghiên cứu biểu tượng. Tiếp cận bước đầu qua từ
điển, giúp NCS có cái nhìn gợi mở ban đầu còn những công trình nghiên cứu
chuyên ngành giúp NCS sẽ có những cái nhìn mang tính chuyên sâu.
Cuốn Nhân học tôn giáo (2006) cho chúng ta một hệ thống kiến thức sâu
rộng về nghiên cứu tôn giáo, đặc biệt là bài viết của của Clifford Geertz: “Tôn giáo
như một hệ thống văn hóa”. Văn hóa được hiểu theo khuôn mẫu của biểu tượng”
[51, tr.310].
Nghiên cứu biểu tượng: Một số hướng tiếp cận lý thuyết của nhà nghiên cứu
Đinh Hồng Hải là một công trình mang tính tổng hợp tương đối đầy đủ về lý thuyết
biểu tượng. Trong phần tổng quan về nghiên cứu biểu tượng, tác giả đã tiếp cận
nghiên cứu biểu tượng dưới rất nhiều góc độ: Cấu trúc luận, ngôn ngữ học, kí hiệu
học, nhân học và cả hướng tiếp cận mới trong nghiên cứu biểu tượng. Phần vai trò
của các biểu tượng; Văn hóa và biểu tượng tác giả đã dịch rất nhiều công trình liên
quan đến lý thuyết biểu tượng của các học giả nổi tiếng thế giới như: Franz Boas,
Mary Douglas, Raymond Firth, Bronislaw Malinowski… Những nội dung này đã
góp thêm những cơ sở lý luận cho NCS khi tiếp cận biểu tượng dưới góc độ kí hiệu
học văn hóa và nhân học biểu tượng.
Nghiên cứu biểu tượng văn hóa truyền thống có tác phẩm rất đáng chú ý của
Trần Lâm Biền - Trịnh Sinh (2011), Thế giới biểu tượng trong di sản văn hóa
Thăng Long - Hà Nội. Đây là một trong trình nghiên cứu được tác giả Trần Lâm
14
Biền và Trình Sinh nghiên cứu rất cụ thể về lịch sử phát triển của hệ thống biểu
tượng văn hóa truyền thống Việt Nam qua từng giai đoạn của lịch sử, từ thời tiền sử
và sơ sử đến thời quân chủ dân tộc. Những biểu tượng đó được biểu hiện trên những
công trình kiến trúc, điêu khắc…và mang trong mình những giá trị văn hóa trong hệ
thống di sản văn hóa của dân tộc.
Những biểu tượng văn hóa truyền thống được thể hiện trên các công trình
kiến trúc, không gian văn hóa và chứa đựng những giá trị văn hóa truyền thống của
dân tộc. Theo hai tác giả: “Biểu tượng thể hiện trong truyền thống Việt là sự kết tụ
tinh hoa từ bàn tay khối óc của tổ tiên, chúng được hình thành bởi tư duy nông
nghiệp, để phản ánh về một ý niệm truyền đời là cầu no đủ và mọi điều hạnh phúc.
Biểu tượng là chứng cớ cụ thể để nói lên quá trình phát triển của nghệ thuật tạo hình
Việt vốn bắt nguồn từ thời đại xa xưa hàng vạn năm cách đây.” [11, tr.216].
Tuy nhiên, công trình chủ yếu nói về biểu tượng trong trang trí ở đình, chùa,
miếu mà thiếu hẳn một thành tố không thể thiếu trong di sản văn hóa Thăng Long
đó là nhà thờ Công giáo.
Giải mã văn học từ mã văn hóa của tác giả Trần Lê Bảo (2011) đã đề cập đến
3 bước quan trọng để giải mã biểu tượng: “Phân biệt và xác lập cho được mối quan
hệ giữa hai yếu tố “Biểu hiện” và “Ý nghĩa biểu hiện” [9, tr.40]; “Khi xem xét biểu
tượng văn hóa cần thấy những điều kiện để hình thành nó” [9, tr.41]; “Cuối cùng
cần quan tâm tới phương thức tư duy.” [9, tr.41]. Ba bước này giúp NCS có một quy
trình khoa học để giải mã biểu tượng.
1.1.2.2. Nghiên cứu về biểu tượng Công giáo
a. Nghiên cứu liên quan trực tiếp đến biểu tượng Công giáo
Những công trình liên quan đến biểu tượng Công giáo, biểu tượng trong nhà thờ
Công giáo, chúng ta có thể kể đến những công trình tiêu biểu sau: Mỹ thuật Công giáo
Việt Nam theo dòng thời gian của tác giả Lê Hiếu (2014) [40], Văn hóa Công giáo nhìn
từ biểu tượng nhà thờ điểm đến của những cuộc hành hương (2013) [72], Kiến trúc
nhà thờ Công giáo của tác giả Steven J. Schloeder (2015) [93], “Biểu
15
tượng và ý nghĩa của các loài thú trong Thánh Kinh” do tác giả Jean - Francois
Froger, Jean - Pierre Durand chủ biên [2016] [63], 25 Câu hỏi về dấu chỉ và biểu
tượng của niềm tin Công giáo của tác giả Les Miller chủ biên và được sơ Maria Vũ
Thị Thu Thủy dịch sang tiếng Việt (2016) [102]. Về tài liệu nước ngoài (Tiếng Anh),
NCS đã tiếp cận với những tài liệu sau: The symbol of the church của Dilasser,
Maurice (1999) [121], Symbol and theirhidden meaning của Kenner T.A (2006)
[122], Catholic Church architecture and the spirit of the liturgy của Mc Namara
Denis (2009) [123], The secret language of churches & Cathederals – Decoding the
srared symbolism of Christianity’s Holy building của Stemp Richard (2010) [124],
How to read a church của Taylor Richard (2003) [125].
Trong cuốn “Biểu tượng và ý nghĩa của các loài thú trong Thánh Kinh” do
tác giả Jean - Francois Froger, Jean - Pierre Durand chủ biên, do Nxb Hồng Đức,
xuất bản 2016, đã giới thiệu khái quát về những biểu tượng và ý nghĩa của các loài
thú được đề cập đến trong Kinh Thánh như: Rắn, Báo, báo đốm, mèo rừng, sư tử,
gấu…Đây là một trong những cuốn sách được đánh giá rất cao về việc nghiên cứu
những biểu tượng trong Kinh Thánh.
Cuốn “Kiến trúc nhà thờ Công giáo” của tác giả Steven J. Schloeder đã nghiên
cứu những đặc điểm trong kiến trúc nhà thờ Công giáo đặc biệt kiến trúc theo tinh thần
Công đồng Vaticano II đó là sự hòa hợp giữa: nghệ thuật, kiến trúc và thần học. Điều
này thể hiện những tư tưởng về thần học của Công giáo với những đặc điểm trong việc
thiết kế cung thánh, thiết kế cho các Bí tích và các nghi thức khác, thể hiện sự thiêng
thánh nơi các nhà thờ Công giáo, nơi mà con người gặp gỡ Thiên Chúa trong mối
tương quan về đức tin. Đáng chú ý ở chương 7 và chương 8, tác giả đã nêu lên những
ảnh tượng thánh trong nhà thờ và thánh đường là ảnh tượng thánh, một trong những
điều không thể thiếu trong những ngôi thánh đường của Công giáo đó là những ảnh,
tượng về Thiên Chúa, Đức Mẹ, các Thánh…chính những biểu tượng này đã điểm tô
cho những ngôi thánh đường, khoác lên mình một màu thiêng liêng, huyền bí. Nhìn
tổng thể đây là một công trình cung cấp những kiến thức cơ bản về kiến trúc nhà thờ
Công giáo với sự kết hợp giữa kiến trúc và
16
thần học, cũng như những biểu tượng được thể hiện trong các nhà thờ, nơi được coi
là trung tâm của đức tin Kitô giáo.
Cuốn “Văn hóa Công giáo nhìn từ biểu tượng nhà thờ điểm đến của những
cuộc hành hương” của tác giả Quý Long – Kim Thư đã đề cập đến những vật dụng
phụng vụ trong Thánh lễ. Đây chính là những biểu tượng vật chất được sử dụng
trong phụng vụ. Tác giả đã giải mã một số biểu tượng như: Thánh giá, bàn thờ, chén
thánh, đĩa thánh, nến, hương trầm, mâm quả, dầu thánh, hào quang, mặt nhật, áo…
Những phần phân tích và giải mã này là những gợi ý rất hữu ích cho NCS khi tiếp
cận giải mã biểu tượng.
Bên cạnh những tài liệu tiếng Việt, những tài liệu về biểu tượng Công giáo viết
bằng tiếng Anh cũng gợi mở cho NCS những cái nhìn sâu sắc hơn về vấn đề này. Cuốn
“Biểu tượng nhà thờ Công giáo” (The symbols of the church) đã phân tích sâu sắc quá
trình phát triển của nhà thờ từ thời kì sơ khởi, Bassilica, Romanesque, Gothic, Phục
Hưng, Baroque, Cổ điển, Tân cổ điển và hiện nay. Cùng với sự phát triển của nhà thờ là
sự phát triển của biểu tượng trang trí trong nhà thờ đó.
Trong cuốn sách này, tác giả Maurice Dilasser khẳng định:
Khoa học có ngôn ngữ riêng của nó, những ngành nghệ thuật cũng vậy. Tôn
giáo, đặc biệt sử dụng ngôn ngữ của nghệ thuật, nó sử dụng kí hiệu và biểu
tượng, giống như là những cầu nối từ cái hữu hình đến cái vô hình, từ chiều
sâu đến chiều cao, từ thế giới trần tục đến thế giới của Chúa. Biểu tượng
không chỉ là đối tượng để tôn thờ và nó còn mời gọi giáo dân thông qua đó
để tôn thờ. Nó dẫn tới việc giao tiếp với đấng tối cao” [121, tr.3]. Tác giả
cũng khẳng định: “Hầu hết các biểu tượng đến từ Kinh Thánh, từ lịch sử
cứu độ, từ các nhà tiên tri và mầu nhiệm của chúa Giêsu [121, tr.3].
Cuốn “Làm thế nào để đọc (hiểu) một nhà thờ” (How to read a church) đã khái
quát được mặt bằng của một nhà thờ Công giáo, ý nghĩa trong các hướng khi xây dựng
nhà thờ. Tác giả phân chia biểu tượng nhà thờ Công giáo theo những biểu tượng như
sau: Biểu tượng Chúa Cha, Chúa Giêsu, Đức Mẹ, các Thánh, biểu tượng
17
trong Kinh thánh Cựu Ước, biểu tượng về các Tiến Sĩ hội thánh, biểu tượng thiên
thần, biểu tượng động vật, thực vật và những biểu tượng liên quan đến linh mục.
Ẩn sâu trong những phần trình bày của tác giả nổi lên thông điệp: Nếu không
hàm chứa sức mạnh tâm linh, đức tin thì giá trị kiến trúc, nghệ thuật, biểu tượng của
nhà thờ cũng là những công trình kiến trúc như bao công trình kiến trúc thông
thường khác. Giá trị làm nên sức sống lâu bền của nhà thờ đó chính là mỗi hạng
mục, mỗi biểu tượng trong nhà thờ đều mang giá trị tâm linh và đức tin của tín đồ.
Cuốn “Sổ tay biểu tượng trong nghệ thuật Ki tô giáo” (A handbook of symbols
in Christian Art) cung cấp một cách ngắn gọn ý nghĩa của các biểu tượng. Vì là cuốn sổ
tay, để tiện tra cứu, cuốn sách cung cấp ý nghĩa của biểu tượng theo thứ tự chữ cái từ A
- Z theo những nhóm vấn đề chính Thiên thần (Angels), Nhà thờ (Church), Chúa (God),
Bí tích (Sacraments)…). Đây là một cuốn sách hữu ích cung cấp cho người làm nghiên
cứu những ý nghĩa cơ bản nhất của hệ biểu tượng trong nhà thờ. Từ những đầu mối này,
có thể phát triển, nâng cao lên những tầng nghĩa khác.
b. Những tài liệu liên quan đến giải mã biểu tượng trong nhà thờ
- Những tài liệu liên quan đến Kinh thánh
Kinh Thánh trọn bộ Cựu Ước và Tân Ước của Toà Tổng Giám mục Thành
phố Hồ Chí Minh (1999) [107], Nhập môn kinh thánh của Johnh. Hayes (2008)
[65], Tiếp cận Thánh kinh theo chủ nghĩa cơ yếu của Ronaldd. Witherup, S.S.
(2009) [89], Đức Giêsu Kitô qua Kinh thánh Cựu ước của tác giả Lý Minh Tuấn
(2013) [112], Biện giải Công giáo theo Thánh kinh của tác giả Robert J.Schihl &
Paul Flanagan (2013) [88], Để đọc Cựu ước của Gérard Billon & Philippe Gruson
(2017) [28], Để đọc Tân ước của Étienne Charpentier & Règis Burnet (2017) [27],
Kinh thánh bằng hình Tân Ước của Sweet Publising (2018) [95], Kinh thánh bằng
hình Cựu Ước của Sweet Publising (2018) [94].
Một trong những yếu tố quan trọng nhất của Công giáo là hai bộ Kinh thánh
Cựu ước và Tân ước, nói về lịch sử cứu độ và sự hiện diện của Thiên Chúa trong lịch
sử của nhân loại. Thật khó tìm hiểu Công giáo khi không biết Kinh thánh. Kính thánh
18
được ví như lời của Thiên Chúa, như ngọn đèn dẫn con chiên đến với Chúa. Trong
tất cả những biểu tượng trong nhà thờ từ các nhân vật về Chúa Ba ngôi, các thánh,
các đồ tế lễ, các con vật…đều được xuất phát từ Kinh thánh. Những biểu tượng đó
nhằm mục đích phản ánh Kinh thánh một cách rõ hơn.
- Những tài liệu liên quan đến Giáo lý, Giáo luật:
Sách giáo lý của Giáo hội Công giáo của Hội đồng Giám mục Việt Nam
(2010) [47], Giáo lý Công giáo căn bản của tác giả Phạm Minh Thiện (2010) [98].
Bộ giáo luật năm 1983 của Hội đồng Giám mục Việt Nam (2016) [49].
Giáo lý là những căn cứ cơ bản, là cơ sở quan trọng để chúng ta tiếp cận và
nghiên cứu biểu tượng. Những căn cứ ấy chính là những điều kiện kiên quyết, dựa
trên những luận giải nhất định về đức tin trong Giáo hội công giáo. Chúng tôi có thể
nói rằng, khi nghiên cứu biểu tượng chúng ta phải căn cứ vào giáo lý, những điều
căn bản nhất về đức tin. Cuốn “Sách giáo lý của Hội thánh Công giáo” (2010) của
Hội đồng Giám mục Việt Nam dịch, với 2865 câu đã trình bày những kiến thức căn
bản nhất, những vấn đề đức tin Công giáo, khẳng định sự thống nhất trong cùng một
đức tin vẹn toàn không đi sai với những vấn đề giáo lý đã được Giáo hội công nhận
và thừa nhận.
Giáo lý và Giáo luật là hai yếu tố căn bản điều chỉnh những hành vi trong đời
sống đức tin của các tín đồ Công giáo. Những gì phải thực hiện, những gì không
được thực hiện đều được quy định hết sức cụ thể trong Giáo luật do Giáo hội ban
hành và được dịch sang tiếng Việt với tên gọi “Bộ giáo luật năm 1983” của Hội
đồng Giám mục Việt Nam (2016). Bộ giáo luật này quy định rất cụ thể những vấn
đề trong đời sống đức tin trong đó có việc sử dụng hệ thống những biểu tượng như
thế nào và tôn kính những biểu tượng đó ra sao. Vì vậy, đây là những căn cứ quan
trọng để khi nghiên cứu những biểu tượng trong nhà thờ có thể hiểu được bản chất
cốt yếu của những biểu tượng đó.
- Những tài liệu liên quan đến biểu tượng truyền thống văn hóa Việt Nam:
Hệ thống biểu tượng trong các nhà thờ Công giáo có sự xuất hiện của một số
biểu tượng văn hóa truyền thống. Nó được hội nhập vào như một yếu tố khách
19
quan thể hiện tiến trình lịch sử phát triển của Giáo hội Công giáo. Đó là sự kết hợp
một cách hài hòa giữa những yếu tố văn hóa bản địa với những tư tưởng, chủ thuyết
thần học của Giáo hội công giáo. Điều này tạo nên những nét riêng biệt của Giáo
hội Việt Nam trong Công giáo thế giới. Vì vậy, để giải thích những biểu tượng đó
phải căn cứ vào những ý nghĩa ban đầu của những biểu tượng văn hóa truyền thống.
Dưới đây là những công trình nghiên cứu về biểu tượng văn hóa truyền thống Việt
Nam.
Trong công trình nghiên cứu “Những biểu tượng đặc trưng trong văn hóa
truyền thống Việt Nam (tập 1: Các bộ trang trí điển hình)” (2012), tác giả Đinh
Hồng Hải đã trình bày các bộ trang trí điển hình trong văn hóa truyền thống Việt
Nam, giải thích ý nghĩa những biểu tượng trên những bộ trang trí trong kiến trúc,
điêu khắc… Tuy nhiên, khi nghiên cứu những biểu tượng trong nhà thờ Công giáo,
có sự xuất hiện của những biểu tượng văn hóa truyền thống được trang trí trên kiến
trúc, điêu khắc của nhà thờ, công trình nghiên cứu này giúp người đọc có những căn
cứ ban đầu giải thích những biểu tượng và đưa ra những đối sánh về những biểu
tượng văn hóa truyền thống đó.
Trong đời sống văn hóa của người Việt, hệ thống những biểu tượng con vật linh
đã xuất hiện khá sớm, được thể hiện trên các sản phẩm văn hóa mang đặc trưng văn
hóa Việt Nam và có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tôn giáo, tín ngưỡng của người
Việt. Chúng xuất hiện khá phổ biến trên những công trình kiến trúc như đình, đền,
chùa. Tuy nhiên, những biểu tượng vật linh này còn xuất hiện trong những ngôi nhà thờ
Công giáo trên kiến trúc và các đồ trang trí trong nhà thờ, nhất là những biểu tượng tứ
linh. Mặc dù vậy, để tiếp cận những biểu tượng vật linh này người đọc phải xuất phát
từ những cơ sở nghiên cứu, do những nhà nghiên cứu biểu tượng văn hóa truyền thống
Việt Nam thực hiện. Về vấn đề này, cuốn “Những biểu tượng đặc trưng trong văn hóa
truyền thống Việt Nam (tập 3: Các con vật linh)” (2016) của Đinh Hồng Hải đã lý giải
những biểu tượng vật linh trong văn hóa truyền thống Việt Nam. Năm 2018, tác giả
Đinh Hồng Hải lại tiếp tục cho ra mắt công trình nghiên cứu trong chuỗi các công trình
nghiên cứu về biểu tượng văn hóa
20
truyền thống Việt Nam “Những biểu tượng đặc trưng trong văn hóa Việt Nam –
Các vị tổ”. Cuốn sách gợi mở cho NCS nhiều cách thức tiếp cận khi nghiên cứu các
vị thánh quan thày của các giáo xứ giáo họ.
Ngoài ra còn có một số công trình nghiên cứu của những nhà nghiên cứu về
những vấn đề của biểu tượng văn hóa truyền thống như: “Về biểu tượng trong lễ
hội dân gian truyền thống (Qua khảo sát lễ hội dân gian truyền thống vùng Châu
thổ Bắc Bộ nước ta)” của Nguyễn Văn Hậu [39].
- Những tài liệu liên quan đến thần học Công giáo
Từ điển Công giáo phổ thông của tác giả John a. Hardon, S.j. Image Books
(1985) [64], Đức Kitô của Rabindraanth Tagore (2004) [86], Dẫn nhập vào Kitô học
của tác giả Nguyễn Văn Trinh (2009) [111], Các nhà tư tưởng lớn của Kitô giáo của
Hans Kung (2010) [38], Nguyên lý của thần học Công giáo của tác giả Joseph
Ratzinger (2010), Một Chúa Ba ngôi khảo luận thần học của tác giả Tân Yên (2013)
[119], Thuật ngữ Thần học của Học viện Đa Minh (2014) [43], Từ điển thần học
Công giáo của Joseph Doré (2015) [67], Từ điển thần học giản yếu của Gerald Ó
Collins, S.J. & Edward G.Farrugia, S.j. (2015) [29], Tham quan xứ sở thần học của
Marcel Neusch & Bruno Chenu (2015) [75], Dẫn vào thần học Công giáo của
Thomas P. Rausch, S.J (2017) [99].
Khi nghiên cứu về Công giáo, người đọc phải tiếp cận từ những vấn đề cốt
yếu của thần học Công giáo để có thể lý giải được những vấn đề về đức tin Công
giáo. Như vậy, thần học có thể được gọi là khoa học của đức tin. Hiểu một cách đơn
giản thần học là cách diễn tả đức tin của chính nhà thần học và của cộng đồng mà
họ là phần tử. Sự diễn tả này giúp cho con người nhận biết một đấng vô hình là
Thiên Chúa toàn năng, mà trong con mắt trực quan họ khó có thể nhận biết được.
Trong các nhà thờ, biểu tượng và thần học luôn có sự gắn kết với nhau trong cùng
một chỉnh thể thống nhất. Biểu tượng phản ánh một cách chân thực thần học và làm
cho biểu tượng trở nên thiêng liêng, không giống những biểu tượng đơn thuần trong
cuộc sống.
21
Qua nghiên cứu hệ thống tài liệu trên đây, NCS rút ra một số kết luận như sau:
Những công trình nghiên cứu về Công giáo nói chung ở Việt Nam là tương
đối phong phú cung cấp cho NCS những hiểu biết chung về Công giáo Việt Nam
trong lịch sử;
Sách chuyên về biểu tượng, biểu tượng văn hóa, biểu tượng tôn giáo nói
chung cũng khá phong phú cung cấp cho NCS nhiều chỉ dẫn thiết thực khi nghiên
cứu về biểu tượng. Tuy nhiên, những công trình này phần lớn mới chỉ dừng lại ở
việc nghiên cứu về ý nghĩa biểu tượng và giải mã biểu tượng văn hóa truyền thống;
Những công trình chuyên sâu về biểu tượng nhà thờ Công giáo Việt Nam và
biểu tượng nhà thờ Công giáo tại Hà Nội gần như chưa có hoặc có nhưng chưa đề
cập đến một cách hệ thống.
Như vậy, còn khoảng trống rất lớn cho NCS khi nghiên cứu về biểu tượng
nhà thờ Công giáo Hà Nội một cách hệ thống: Từ phân loại biểu tượng, giải mã lớp
ý
nghĩa của biểu tượng, phân tích chức năng, giá trị văn hóa của biểu tượng, nhận
thức biểu tượng của người Công giáo dưới góc độ kí hiệu học văn hóa và Nhân học
biểu tượng.
1.2. Cơ sở lý luận
1.2.1. Lý luận về biểu tượng
1.2.1.1. Khái niệm
a. Theo hệ thống từ điển
Để nắm bắt được những ý nghĩa cơ bản và bản chất của biểu tượng NCS bắt
đầu nghiên cứu nó thông qua các định nghĩa trong một số từ điển, sau đó mới tiếp
tục tìm hiểu về biểu tượng ở những tài liệu chuyên ngành Văn hóa học.
Theo Từ điển vô thần luận, biểu tượng là:
Hình ảnh trực quan – cảm tính, khái quát về các sự vật và hiện tượng của
hiện thực, được giữ lại và tái tạo lại trong ý thức và không có sự tác động
trực tiếp của bản thân các sự vật và các hiện tượng đến giác quan.
22
Cái trở thành tài sản của các cá nhân một cách khách quan nhờ thực tiễn
của họ được ghi nhận và duy trì trong biểu tượng của con người. Mặc
dầu biểu tượng là hình thức phản ánh cảm tính của cá nhân, nhưng ở con
người, nó có mối liên hệ mật thiết với những nghĩa do xã hội tạo ra, đã
được nêu ra một cách gián tiếp qua ngôn ngữ, mang đầy nội dung xã hội
và bao giờ cũng lĩnh hội được và nhận thức được [103, tr.89].
Cách tiếp cận biểu tượng của từ điển Từ điển vô thần luận thiên về cách tiếp
cận của nhận thức theo khoa học tâm lý, chưa phải là nhận thức biểu tượng dưới
góc nhìn chuyên sâu.
Theo Từ điển dành cho người có tín ngưỡng và người không có tín ngưỡng,
biểu tượng:
Nó bao gồm các biểu trưng đại diện cho các hệ thống tôn giáo hiện đại
với sự hỗ trợ của những khái niệm và tư tưởng trừu tượng. Những vật thể
và kí hiệu miêu tả khác nhau có thể dùng làm biểu tượng tôn giáo, đó là
các kí hiệu nghi lễ tạo ra tính chất tương đương hay có thể thay thế các
bản kinh, các vị thần linh… Trong các hình thức sơ khai của tôn giáo
không có ranh giới giữa vật tôn thờ và kí hiệu thay thế nó. Bất kể vật thể
không có hình thù bình thường nào đều cũng có thể được coi là một linh
hồn, có linh hồn ẩn trong đó. Khi xã hội phát triển và các hệ thống tôn
giáo trở nên hoàn thiện hơn thì tính tượng trưng của tôn giáo cũng trở
nên phức tạp hơn… [104, tr.795].
Với định nghĩa này, mức độ tiếp cận nghiên cứu biểu tượng đã được nâng
cao hơn, được hỗ trợ bởi những khái niệm trừu tượng. Và nhấn mạnh tính phát triển
của biểu tượng, biểu tượng luôn thay đổi cùng xã hội.
b. Theo cách nhìn của kí hiệu học Văn hóa
Iu. Lotman định nghĩa: “Kí hiệu là vật thay thế được biểu hiện một cách cụ
thể cho những đối tượng, hiện tượng, khái niệm trong quá trình trao đổi thông tin ở
một tập thể” [26, tr.9]