ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐỖ XUÂN ĐANG
TIÕN TR×NH X¢Y DùNG CéNG §åNG ASEAN:
THêI C¥ Vµ TH¸CH THøC PH¸P Lý
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐỖ XUÂN ĐANG
TIÕN TR×NH X¢Y DùNG CéNG §åNG ASEAN:
THêI C¥ Vµ TH¸CH THøC PH¸P Lý
Chuyên ngành: Luật Quốc tế
Mã số: 60 38 01 08
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. LÊ VĂN BÍNH
HÀ NỘI - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các
môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
ĐỖ XUÂN ĐANG
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các từ viết tắt
Danh mục các bảng, sơ đồ
MỞ ĐẦU.................................................................................................................. 1
Chương 1: NHỮNG TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH CỘNG ĐỒNG ASEAN.............5
1.1.
Các điều kiện tự nhiên, chính trị, xã hội..................................................... 5
1.2.
Những kết quả của quá trình hợp tác ASEAN........................................... 7
1.2.1. Sự phát triển của ASEAN – tiền đề cần thiết của Cộng đồng ASEAN...........7
1.2.2. Quan hệ ASEAN với các đối tác đối thoại ngoài ASEAN.............................. 9
1.3.
Các tiền đề chính trị, pháp lý cho Cộng đồng ASEAN............................10
1.4.
Cơ sở về chính sách hợp tác ASEAN......................................................... 11
1.4.1. Sự tiến triển về nhận thức hình thành Cộng đồng ASEAN........................... 11
1.4.2. Tiến triển về mô hình và nội dung liên kết của ASEAN............................... 14
1.4.3. Sự tiến triển về thể chế liên kết ASEAN...................................................... 19
1.4.4. Tiến triển về lộ trình tiến tới cộng đồng....................................................... 22
Chương 2: NỘI DUNG, LỘ TRÌNH THỰC HIỆN XÂY DỰNG CỘNG
ĐỒNG ASEAN.................................................................................................................... 37
2.1.
Cộng đồng về Chính trị - An ninh ASEAN............................................... 37
2.1.1. Nội dung của APSC...................................................................................... 37
2.1.2. Biện pháp và lộ trình thực hiện của APSC................................................... 40
2.2.
Cộng đồng ASEAN về Văn hóa – Xã hội................................................... 44
2.2.1. Nội dung của ASCC..................................................................................... 44
2.2.2. Biện pháp và lộ trình thực hiện của ASCC................................................... 47
2.3.
Cộng đồng ASEAN về Kinh tế................................................................... 49
2.3.1. Nội dung của AEC........................................................................................ 49
2.3.2. Biện pháp và lộ trình thực hiện của AEC..................................................... 55
Chương 3: NHỮNG THÁCH THỨC VỀ PHÁP LÝ VÀ MỘT SỐ KIẾN
NGHỊ CHO VIỆT NAM............................................................................ 70
3.1.
Các vấn đề pháp lý khi xây dựng Cộng đồng ASEAN.............................70
3.1.1. Một số thách thức chung.............................................................................. 70
3.1.2. Những hạn chế trong thực hiện cam kết Cộng đồng AC..............................77
3.1.3. Tổ chức và cơ chế ra quyết định của ASEAN.............................................. 88
3.1.4. Cơ chế giải quyết tranh chấp ASEAN.......................................................... 94
3.2.
Một số kiến nghị cho ASEAN và các giải pháp cho Việt Nam.................97
3.2.1. Một số kiến nghị đối với ASEAN................................................................. 97
3.2.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao vị thế của Việt Nam trong AC................113
KẾT LUẬN.......................................................................................................... 116
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................... 118
KÝ HIỆU
ACIA
AEC
AFAS
AFTA
AIA
AICO
AIP
AIPA
AMM
APEC
ARF
ATIGA
APSC
ASCC
ASEAN
ASEM
CEPT
CLM
CLMV
CMIM
COP
CMP
EEC
EPG
EU
GDP
HLTF
HPA
IAI
MERCOSUR
NAFTA
PDSM
PTA
SEANWFZ
TAC
TIG
USD
VAP
ZOPFAN
DANH MỤC CÁC BẢNG, SƠ ĐỒ
Số hiệu bảng,
sơ đồ
Bảng 1.1:
Bảng 2.1:
Bảng 2.2:
Bảng 2.3:
Bảng 2.4:
Bảng 2.5:
Bảng 2.6:
Bảng 2.7:
Bảng 2.8:
Sơ đồ 2.1:
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết và tình hình nghiên cứu của đề tài
Sự ra đời của tổ chức ASEAN với mục đích phát triển bền vững, bảo đảm an
ninh, ổn định về các mặt đối nội và đối ngoại cho ASEAN nói chung, giữa các quốc
gia thành viên với nhau và ASEAN với bên ngoài nói riêng. Cùng với thời gian (gần
5 thập kỷ tồn tại và phát triển), ASEAN ngày càng lớn mạnh trở thành một thực thể
chính trị - kinh tế gắn kết, có vai trò quan trọng đóng góp cho hòa bình, ổn định và
hợp tác ở khu vực và trên thế giới, là đối tác không thể thiếu của các nước và các tổ
chức lớn trên thế giới. ASEAN đang hướng tới xây dựng một Cộng đồng ASEAN
vững mạnh dựa trên ba trụ cột là: Cộng đồng Chính trị-An ninh (APSC); Cộng đồng
Kinh tế (AEC); và Cộng đồng Văn hóa và Xã hội (ASCC).
Theo lộ trình đã được lãnh đạo ASEAN thống nhất, Cộng đồng ASEAN sẽ
hình thành vào ngày 31/12/2015. Đây là dấu mốc rất có ý nghĩa và trọng đại trong
lịch sử phát triển của ASEAN. Với 3 trụ cột là: chính trị-an ninh, kinh tế và văn hóaxã hội sẽ là nền móng, là cơ sở để ASEAN phát triển, hội nhập và thịnh vượng.
Hiện nay, lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN đã đạt được khoảng 93% khối
lượng. Tuy nhiên, gần 7% công việc còn lại đều là những vấn đề quan trọng, đòi hỏi
ASEAN phải nỗ lực để hoàn thành, ví dụ như: vấn đề về hải quan; về giao thương
dịch vụ; và về việc gỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan; đặc biệt là các vấn đề về nội
hóa thực hiện các cam kết khu vực, nguồn lực thực hiện, mức độ hiểu biết của
người dân ASEAN về Hiệp hội. Đây là các vấn đề cốt lõi cho hội nhập và phát triển.
Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) thực tế dự đoán cộng đồng kinh tế
(AEC) sẽ chỉ thật sự đi vào hoạt động vào năm 2025, tức mười năm sau mục tiêu
của ASEAN, vì những cản trở về phi thuế quan từ các nước thành viên và rất khó để
ASEAN có thể đạt được toàn bộ mục tiêu vào năm 2015. Hệ thống pháp lý đã hình
thành và ngày càng hoàn thiện của ASEAN là nền tảng cơ bản của quá trình hội
nhập và cần hiện thực hóa những quy định của ASEAN để tăng cường tính pháp lý,
hiệu quả hội nhập trên các lĩnh vực của ASEAN. Các thành viên ASEAN không
ngừng hợp tác với các đối tác, trên cơ sở hệ thống pháp luật ASEAN và đóng góp ý
kiến để hoàn thiện những quy định này. Tuy ASEAN có nhiều cơ hội để phát triển,
nhưng cũng nhiều thách thức đòi hỏi các thành viên nói chung và Việt Nam nói
1
riêng phải hợp tác, liên kết chặt chẽ hơn nữa, cùng nhau đưa ra những ý tưởng mới
và biện pháp thực hiện các ý tưởng đó để biến “Tầm nhìn 2020” thành hiện thực,
xây dựng thành công Cộng đồng ASEAN.
ASEAN và vấn đề hợp tác phát triển đã được nghiên cứu và giảng dạy trong
các trường Đại học. Có nhiều cuốn sách và bài viết về ASEAN như: Liên kết kinh tế
ASEAN, vấn đề và triển vọng của tác giả Trần Đình Thiên, NXB Thế giới, 2005;
Ngoài ra, đã có khá nhiều Luận văn viết về đề tài ASEAN, ví dụ như: Hiện thực hóa
cộng đồng ASEAN 2015: Thuận lợi và trở ngại của Hoàng Thị Thanh Nhàn và Võ
Xuân Vinh, tập 29, số 4, Chuyên san Kinh tế và kinh doanh, 2013; Tiến trình xây
dựng cộng đồng an ninh ASEAN của Trần Ánh Phương, Trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn Hà Nội, 2010; Hiện thực hóa Cộng đồng chính trị-an ninh
ASEAN của Nguyễn Thị Minh, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà
Nội, 2013... Bên cạnh đó các nhiều bài viết về vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế đăng
trên các tạp chí chuyên ngành, đáng chú ý là Tạp chí Cộng sản, Tạp chí Nghiên cứu
lý luận, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp... Như vậy,
hầu như các công trình, bài viết này chỉ nhìn nhận dưới góc độ kinh tế - chính trị
học chứ không phải là luật học, đồng thời, chưa khai thác được những cơ hội và
thách thức pháp lý cho xây dựng Cộng đồng ASEAN.
Ngày 31/12/2015, Cộng đồng ASEAN sẽ chính thức ra đời. Đây là dấu mốc
quan trọng trong lịch sử của ASEAN. Dưới mái nhà chung ASEAN, các dân tộc ở
Đông Nam Á sẽ chung sống, gắn kết, chia sẻ lợi ích và phát triển trên chặng đường
mới của mình. Mặc dù chưa là hiện thực, nhưng ngay từ lúc này, sự kiện đó đang
thu hút mối quan tâm không chỉ của ASEAN mà của cả cộng đồng quốc tế.
Vì các lý do nói trên, tác giả chọn đề tài “Tiến trình xây dựng Cộng đồng
ASEAN: thời cơ và thách thức pháp lý” để làm Luận văn thạc sỹ là có tính cấp
thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Khái quát quá trình hình thành và phát triển của ASEAN trong xu thế toàn
cầu hóa - khu vực hóa, cũng như những điều kiện địa – kinh tế - xã hội của khu vực
ASEAN, Luận văn phân tích cơ sở hình thành Cộng đồng ASEAN.
Trên cơ sở hình thành Cộng đồng ASEAN, Luận văn sẽ nghiên cứu nội
2
dung, lộ trình thực hiện Cộng đồng ASEAN trong các lĩnh vực an ninh – chính trị,
kinh tế và văn hóa, xã hội.
Luận văn chỉ ra những thách thức trong quá xây dựng Cộng đồng ASEAN. Từ
đó, Luận văn đưa ra những kiến nghị phục vụ cho việc xây dựng Cộng đồng ASEAN.
3. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Luận văn sẽ tổng hợp, phân tích một cách có hệ thống những vấn đề lý luận
cũng như thực trạng của việc xây dựng Cộng đồng ASEAN trên tất cả các lĩnh vực
an ninh – chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội;
Luận văn sẽ nhấn mạnh tính cấp thiết của việc hợp tác trong nội khối
ASEAN nhằm thực hiện thành công việc xây dựng Cộng đồng ASEAN;
Luận văn sẽ đưa ra những kiến nghị có giá trị thực tiễn, có thể làm cơ sở
pháp lý tham khảo có giá trị trong việc xây dựng Cộng đồng ASEAN, cũng như là
nguồn tài liệu tham khảo cho việc đào tạo và nghiên cứu khoa học về ASEAN tại
các cơ sở đào tạo luật nói chung và pháp luật về ASEAN nói riêng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu vấn đề pháp lý của quá trình
xây dựng cộng đồng ASEAN, nghiên cứu về ASEAN nói chung, đặc biệt tập trung
nghiên cứu trên cơ sở của ba trụ cột: Cộng đồng An ninh – Chính trị; Cộng đồng
Kinh tế; và Cộng đồng Văn hóa – Xã hội.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài có nội hàm rất rộng, có thể được nghiên cứu dưới
nhiều góc độ khác nhau, nhưng vì giới hạn của một luận văn, tác giả chủ yếu đề cập
đến cơ sở pháp lý để hình thành Cộng đồng ASEAN, cơ hội và thách thức pháp lý của
tiến trình xây dựng cộng đồng ASEAN. Trên cơ sở nghiên cứu các văn kiện pháp lý của
ASEAN, có xem xét đến kinh nghiệm của Liên minh châu Âu (EU), tác giả đưa ra ý
kiến và đóng góp cho việc xây dựng và thực hiện Cộng đồng ASEAN.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở các phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác - Lê Nin, kết hợp với các phương pháp nghiên cứu của khoa học pháp lý truyền
thống như: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, nghiên cứu lịch sử, thống kê,
logic.... Các phương pháp này sẽ giúp học viên nghiên cứu thành công đề tài.
3
6. Bố cục của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận, và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu làm 03 chương:
Chương 1. Những tiền đề hình thành Cộng đồng ASEAN.
Chương 2. Nội dung, lộ trình thực hiện xây dựng Cộng đồng ASEAN.
Chương 3. Những thách thức pháp lý và một số kiến nghị cho Việt Nam.
4
Chương 1
NHỮNG TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH CỘNG ĐỒNG ASEAN
1.1. Các điều kiện tự nhiên, chính trị, xã hội
Là một khu vực của châu Á, Đông Nam Á nằm ở phía Nam Trung Quốc,
phía Đông Ấn Độ, phía Bắc của Australia, Đông Nam Á chiếm một vị trí địa lý
quan trọng trong trục lộ giao thông hàng hải quốc tế, là cửa ngõ nối liền Ấn Độ
Dương và Thái Bình Dương, nối liền các quốc giá Tây Âu và Đông Á. Hiện nay,
ASEAN bao gồm 10 quốc gia ở Đông Nam Á: Indonesia, Malaysia, Philippines,
Singapore, Thái Lan, Brunei, Việt Nam, Lào, Myanmar, Campuchia. Các quốc gia
ASEAN (ngoại trừ Thái Lan), đều trải qua giai đoạn lịch sử là thuộc địa của các
quốc gia phương Tây và giành được độc lập vào các thời điểm khác nhau.
ASEAN có sự thống nhất xuất phát từ một cơ sở chung rất gần gũi nhau về
điều kiện tự nhiên và con người [66, tr.30]. Với tổng diện tích vào khoảng 4,43 triệu
km2 và dân số gần 600 triệu người, tổng thu nhập quốc dân của các quốc gia
ASEAN năm 2009 đạt 1.492 tỉ USD [67, tr.7]. Sau gần 5 thập kỷ tồn tại và phát
triển, ASEAN đã lớn mạnh, trở thành thực thể chính trị - kinh tế gắn kết, có vai trò
quan trọng, đóng góp cho hòa bình, ổn định và hợp tác ở khu vực. Hợp tác ASEAN
ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu, bao gồm nhiều lĩnh vực từ chính trị - an
ninh đến kinh tế thương mại, đầu tư, văn hóa, giáo dục, y tế, môi trường và khoa
học – công nghệ … ASEAN cũng đã thiết lập được quan hệ nhiều mặt với đối tác
trong và ngoài khu vực thông qua các tiến trình như: ASEAN + 1 (hợp tác ASEAN
với từng đối tác); ASEAN + 3 (Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc); Cấp cao Đông
Á; Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF).
Trên nền tảng đó, ASEAN đã nhất trí đẩy mạnh hợp tác và tăng cường liên
kết nhằm hướng tới xây dựng cộng đồng ASEAN vững mạnh dựa trên ba trụ cột:
Cộng đồng APSC; Cộng đồng AEC và Cộng đồng ASCC vào cuối năm 2015. Với
mục tiêu là đưa ASEAN ngày càng liên kết sâu rộng và vững mạnh hơn, hướng tới
phục vụ và nâng cao cuộc sống của người dân, khu vực hòa bình, ổn định và thịnh
vượng, liên kết khu vực bền vững và hiệu quả nhằm góp phần thúc đẩy sức mạnh
của các quốc gia Đông Nam Á.
5
Trước thời điểm ASEAN được thành lập, tại Đông Nam Á đã xuất hiện một
số tổ chức quốc tế như Hiệp hội Đông Nam Á (ASA) thành lập 1961 với thành viên
là Thái Lan, Malaysia, Philippines và MAPHILINDO với thành viên là Malaysia,
Philippines và Indonesia thành lập vào năm 1963. Vì nhiều lí do khác nhau nên
những tổ chức này chỉ tồn tại trong thời gian ngắn.
ASEAN ra đời vào ngày 08/08/1967 trên cơ sở Tuyên bố Bangkok được
thông qua tại Hội nghị bộ trưởng ngoại giao 5 quốc gia là Thái Lan, Singapore,
Malaysia, Indonesia và Philippines. Có thể nói, đây là sự kiện tất yếu trong bối cảnh
lịch sử của khu vực lúc đó cũng như bối cảnh của từng quốc gia ASEAN 5. Nhằm
trực tiếp đảm bảo an ninh và các lợi ích chính trị cho các quốc gia ASEAN khi đó,
trong các yếu tố về chính trị, kinh tế, địa lý, văn hóa – xã hội tác động đến sự ra đời
của ASEAN thì yếu tố cơ bản là yếu tố chính trị.
Do vị trí địa – chính trị quan trọng của khu vực Đông Nam Á nên hai siêu
cường Liên Xô (cũ) và Mỹ đều muốn tranh thủ các quốc gia ASEAN, khiến cho khu
vực này trở nên hết sức nhạy cảm, trở thành “bàn cờ chính trị” [67, tr.10] để các
quốc gia lớn thi thố quyền lực và ảnh hưởng của mình. Do đó, hòa bình, an ninh của
các quốc gia Đông Nam Á rất dễ bị tác động.
Các quốc gia Đông Nam Á khi đó đã bị phân thành hai nhóm đối lập, chịu
ảnh hưởng khác nhau của các cường quốc (các quốc gia Đông Dương và các quốc
gia thân phương Tây). Đặc biệt, các quốc gia ASEAN 5 lo ngại về việc bị lôi kéo
vào cuộc chiến tranh xâm lược mà Mỹ đang bị sa lầy tại Việt Nam.
Để có thể thực thi được chính sách “cân bằng lợi ích” [67, tr.11], giảm sự
chi phối của các quốc gia lớn, cách duy nhất là các quốc gia Đông Nam Á cần thiết
phải liên kết với nhau và dựa vào nhau trong một tổ chức khu vực và đây cũng
chính là nhân tố cơ bản quyết định tới sự hình thành xu hướng trung lập trong chính
sách của ASEAN sau này.
Ngoài ra, hoạt động kém hiệu quả của các tổ chức tiền thân của ASEAN như
ASA và MAPHILINDO cũng dẫn đến việc cần phải thay thế bằng hình thức hợp tác
khác có hiệu quả hơn
Tóm lại, dù giữa các quốc gia vẫn còn tồn tại nhiều mâu thuẫn nhưng trong
bối cảnh quốc tế và ở mối quốc gia, nhất là sau khi chiến tranh ở Đông Dương đang
vào giai đoạn quyết liệt thì cả năm quốc gia là thành viên sáng lập ASEAN đều
6
đứng trước nhu cầu phải liên kết chặt chẽ với nhau, đặc biệt là trong lĩnh vực chính
trị để củng cố hòa bình và đảm bảo an toàn trong khu vực cũng như mỗi quốc gia.
Bên cạnh yếu tố về chính trị là nguyên nhân có tính quyết định, các yếu tố về
kinh tế, văn hóa – xã hội cũng là những yếu tố quan trọng thúc đẩy sự ra đời của
ASEAN, là cơ sở hình thành nên Cộng đồng ASEAN.
Theo đó, về kinh tế, sự phục hồi và phát triển kinh tế sau thế chiến lần thứ 2
và sau đó là toàn cầu hóa đã dẫn đến nhiều tổ chức hợp tác kinh tế khu vực được
thành lập như: thị trường chung Trung Mỹ (CACM); khu vực mậu dịch tự do Bắc
Mỹ (NAFTA); cộng đồng Caribe. Trào lưu khu vực hóa này đã tác động mạnh mẽ
tới ý tưởng xây dựng sự hợp tác khu vực ở Đông Nam Á. Bên cạnh đó, vai trò của
các tổ chức quốc tế như: Liên Hợp Quốc và Ngân hàng phát triển châu Á (ADB).
LHQ thành lập Ủy ban kinh tế châu Á và Viễn Đông (Economic Commission for
Asia and Far Est – ECAFE, 1947) nhằm thúc đẩy nền sản xuất ở các nước châu Á;
ADB được thành lập gồm 31 quốc gia, trong đó có 19 quốc gia châu Á để cung cấp
nguồn vốn cho sự phục hồi và phát triển kinh tế ở Châu Á (1966).
Sau khi giành được độc lập, năm quốc gia sáng lập ASEAN đều gặp phải vấn đề
khó khăn chung về kinh tế như sự lạc hậu của các cơ cấu kinh tế, tình trạng độc canh và
xuất khẩu nguyên liệu thô. Vì vậy, để phát triển, các quốc gia phải hợp tác và trước hết
là hợp tác trong khu vực. Văn hóa xã hội, các quốc gia ASEAN đều có nhiều nét tương
đồng về đời sống văn hóa – xã hội như tổ chức đời sống dân cư được dựa trên cộng
đồng làng xã và “nền văn minh lúa nước” [67, tr13]. Trừ Thái Lan, các quốc gia
ASEAN đều bị phương Tây đô hộ nên vừa có ý thức về nền độc lập dân tộc, vừa có
nhu cầu về đảm bảo an ninh chung của khu vực và hợp tác để phát triển.
ASEAN ra đời đánh dấu sự trưởng thành về chính trị của các quốc gia Đông
Nam Á, thể hiện quyết tâm tự gánh vác trách nhiệm đối với sự phát triển của đất
nước cũng như khu vực, đặc biệt trong vấn đề an ninh mà không dựa vào ngoại lực
bên ngoài. Sự hình thành ASEAN đã đặt nền móng cho sự hợp tác và phát triển
trong mọi lĩnh vực của các quốc gia Đông Nam Á trong hiện tại và tương lai.
1.2. Những kết quả của quá trình hợp tác ASEAN
1.2.1. Sự phát triển của ASEAN – tiền đề cần thiết của Cộng đồng ASEAN
Trong Tuyên bố thành lập ASEAN được ký tại Bangkok ngày 08/8/1967 đã
7
ghi nhận rằng Hiệp hội ASEAN mở rộng cho tất cả các quốc gia ở khu vực Đông
Nam Á tán thành tôn chỉ, nguyên tắc và mục đích nói trên tham gia [4] và tiếp tục
được khẳng định lại trong Hiệp ước thân thiện và hợp tác Đông Nam Á [6]. Tuy
nhiên, phải đợi đến năm 1984, tức là 17 năm sau ngày thành lập, ASEAN mới bắt
đầu tiếp nhận thêm Brunei, quốc gia có dân số ít nhất ở Đông Nam Á. Tuy nhiên,
ngay sau khi Chiến tranh lạnh chấm dứt, cả ASEAN và Đông Dương đều nhận thấy
sự cần thiết phải hợp tác với nhau trong một tổ chức chung. Sau nhiều cân nhắc về
cách thức và thời điểm mở rộng ASEAN, ngày 28/7/1995, ASEAN đã kết nạp Việt
Nam, sau đó là Lào, Myanmar (1998) và Campuchia (1999). Như vậy, ASEAN là
một tổ chức hợp tác khu vực đã hình thành. ASEAN-10 đã thật sự là một khối chính
trị và kinh tế lớn trên thế giới. Vì vậy, sự phát triển của ASEAN trong hơn bốn thập
kỷ qua chính là tiền đề cần thiết cho sự phát triển thành cộng đồng ASEAN.
ASEAN đã xây dựng được những nguyên tắc ứng xử giữa các nước thành
viên làm cơ sở cho các hoạt động của Hiệp hội. ASEAN đã thống nhất đưa ra một
số quy tắc ứng xử trong Điều 2 của Hiệp ước thân thiện và hợp tác Đông Nam Á
(TAC) và đề ra các nguyên tắc giải quyết tranh chấp giữa các nước thành viên theo
các Điều 13, 14, 15, chương IV Hiệp ước Bali 1976. Trong đó chỉ rõ các bên tham
gia sẽ thành lập một Hội đồng cấp cao bao gồm một đại diện cấp Bộ trưởng của mỗi
bên tham gia hiệp ước, để ghi nhận sự tồn tại của các tranh chấp hoặc tình hình có
thể phá rối hòa bình và hòa hợp trong khu vực. Trong trường hợp không đạt được
các giải pháp thông qua thương lượng trực tiếp, Hội đồng cấp cao sẽ ghi nhận tranh
chấp hoặc có những khuyến nghị về những giải pháp thích đáng đối với các bên
tranh chấp. Như vậy, với việc đưa ra sáu nguyên tắc ứng xử trong Hiệp ước Bali,
các nhà lãnh đạo ASEAN đã bước đầu thành công trong việc đặt ra những cơ chế
hợp tác khu vực để tạo cơ sở cho việc duy trì hòa bình, ổn định và loại trừ nguy cơ
xung đột nội bộ giữa các nước thành viên của mình.
ASEAN đã xây dựng được các cơ chế hợp tác khu vực. ASEAN cũng đã
nhận thấy sự cần thiết phải tạo ra một cơ chế hợp tác khu vực nhằm thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và phát triển văn hóa trong khu vực [4]. Ngay từ Hội
nghị AMM lần ba (1969) các nhà lãnh đạo ASEAN đã thành lập một nhóm chuyên
gia tìm hiểu và nghiên cứu về các khả năng hợp tác của ASEAN (từ năm 1969 đến
8
năm 1972). Báo cáo về kết quả nghiên cứu trong ba năm này đã được trình bày tại
Hội nghị AMM lần năm (1972). Tại Hội nghị lần đầu tiên Bộ trưởng kinh tế
ASEAN với sự tham gia của năm nước thành viên đã đưa ra thảo luận những đề
xuất, sáng kiến về hợp tác kinh tế. Những khuyến nghị của họ đã được Hội nghị
Thượng đỉnh ASEAN lần thứ nhất chấp nhận và được phản ánh trong Tuyên bố hòa
hợp ASEAN với các nội dung về các hàng hóa cơ bản, về công nghiệp, thương mại
[7]. Ngoài ra, ASEAN còn có kế hoạch tìm kiếm và mở rộng thị trường cho hàng
hóa của ASEAN ở ngoài khu vực và hợp tác khoa học công nghệ.
ASEAN đã đưa ra nhiều chương trình hợp tác kinh tế trong nội bộ khu vực
như Thỏa thuận ưu đãi mậu dịch (PTA), Chương trình công nghiệp ASEAN,
Chương trình bổ sung công nghiệp (AIC) và Bổ sung nhãn hiệu công nghiệp (BBC),
Liên doanh công nghiệp (AIJV) và Chương trình xây dựng Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN (AFTA).
1.2.2. Quan hệ ASEAN với các đối tác đối thoại ngoài ASEAN
Hiện nay, ASEAN đã có 10 nước lớn (ví dụ như, Hoa Kỳ, Nhật Bản và EU...)
ngoài khu vực là đối tác đối thoại. Quan hệ này đã mang lại cho ASEAN những sự
bảo đảm về an ninh, chính trị cũng như những lợi ích về kinh tế. ASEAN đã lập ra
nhiều cơ chế hợp tác đa phương và song phương, như: Diễn đàn khu vực ASEAN
(ARF); ASEAN + 3; ASEAN + 1; và Thượng đỉnh Đông Á (EAS). Trong các cơ chế
hợp tác này, ASEAN luôn đóng vai trò là trung tâm nhằm giải quyết các vấn đề liên
quan tới hòa bình, an ninh và phát triển của Đông Nam Á, cũng như nâng cao vị thế
chính trị và kinh tế của ASEAN trên thế giới. Cụ thể như:
Thứ nhất, ASEAN tạo môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài
đầu tư vào các nền kinh tế ASEAN.
Thứ hai, ASEAN đã ký kết các Hiệp định thương mại tự do với các đối tác
bên ngoài như: Trung Quốc (2002); Nhật Bản (2008); Ấn Độ, Australia, New
Zealand (2009) nhằm mở rộng thị trường cho hàng hóa của ASEAN ra ngoài khu
vực (Trung Quốc, Mỹ, EU, Nhật Bản...) ngày càng tăng.
Thứ ba, các sáng kiến hội nhập kinh tế khu vực như AFTA, AICO, AIA…
của ASEAN đã tạo điều kiện quan trọng để ASEAN gia tăng trao đổi hàng hóa và
đầu tư.
9
Thứ tư, sáng kiến hội nhập ASEAN và ủng hộ các nỗ lực hợp tác tiểu vùng
đã giúp các nước thành viên thu hẹp khoảng cách phát triển.
Hiện nay, ASEAN đã có các tam giác tăng trưởng, như: Indonesia, Malaysia
và Singapore (ISM-GT); Indonesia, Malaysia và Thái Lan (IMT-GT); khu vực tăng
trưởng phía Đông ASEAN (BIMP-EAGA); tam giác phát triển CLV… Để tạo thuận
lợi cho hợp tác quốc tế của các tam giác tăng trưởng trên, tại Hội nghị Thượng đỉnh
ASEAN lần thứ 6 (Hà Nội tháng 12/1998), ASEAN đã chính thức công nhận hợp
tác tiểu vùng là một hình thức hội nhập khu vực của ASEAN. Chính sự thừa nhận
này đã khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn vào các khu vực nói trên.
Như vậy, với những kết quả hợp tác nêu trên, đã từng bước tạo đà vững chắc
cho hình thành Cộng đồng ASEAN trong tương lai.
1.3. Các tiền đề chính trị, pháp lý cho Cộng đồng ASEAN
Lãnh đạo các nước ASEAN đã thông qua văn kiện quan trọng Tầm nhìn
ASEAN 2020, với mục tiêu tổng quát là đưa Hiệp hội trở thành một nhóm hài hòa
các dân tộc Đông Nam Á, gắn bó trong một cộng đồng các xã hội đùm bọc lẫn
nhau. Để triển khai Tầm nhìn 2020, Hội nghị Cấp cao ASEAN 6 (Hà Nội, tháng
12/1998) đã thông qua Chương trình Hành động Hà Nội (HPA) cho giai đoạn 19992004, trong đó đề ra các phương thức hoạt động cụ thể để thúc đẩy hợp tác ASEAN
trên các lĩnh vực chính trị-an ninh, kinh tế, văn hóa-xã hội và quan hệ đối ngoại.
Tháng 10/2003, Lãnh đạo các nước ASEAN đã ký Tuyên bố Hòa hợp
ASEAN II (hay còn gọi là Tuyên bố Ba-li II), đề ra mục tiêu hình thành Cộng đồng
ASEAN vào năm 2020 với ba trụ cột chính: APSC, AEC và ASCC; đồng thời khẳng
định ASEAN sẽ tiếp tục đẩy mạnh và mở rộng quan hệ với các đối tác bên ngoài, vì
mục tiêu chung là hòa bình, ổn định và hợp tác cùng có lợi ở khu vực. Để triển khai
và kế tục Chương trình Hành động Hà Nội, ASEAN đã đề ra Chương trình Hành
động Viên Chăn (VAP) cho giai đoạn 2004-2010 và các Kế hoạch hành động để xây
dựng ba trụ cột nói trên, trong đó có hợp phần quan trọng là thực hiện Sáng kiến
Liên kết ASEAN (IAI) nhằm giúp thu hẹp khoảng cách phát triển trong ASEAN với
các kế hoạch hành động và các dự án cụ thể.
Để kịp thích ứng với những chuyển biến tình hình quốc tế và khu vực cũng
như trên cơ sở những thành tựu của ASEAN trong gần 50 năm qua, nhất là kết quả
10
thực hiện Chương trình Hành động Viên Chăn (VAP), Lãnh đạo các nước ASEAN
(tháng 1/2007) đã quyết tâm đẩy nhanh tiến trình liên kết nội khối dựa trên cơ sở
pháp lý là Hiến chương ASEAN, nhất trí vì mục tiêu hình thành Cộng động ASEAN
vào năm 2015 (thay vì vào năm 2020 như thỏa thuận trước đây).
ASEAN đã khẩn trương xúc tiến xây dựng các Kế hoạch tổng thể
(Blueprints) để xây dựng các Cộng đồng: APSC, AEC và ASCC, trong đó đề ra mục
tiêu và thời hạn hoàn thành đối với từng biện pháp/hoạt động cụ thể. Tại Hội nghị
Cấp cao ASEAN-13 (tháng 11/2007), Hiến chương ASEAN đã được ký kết nhằm
tạo cơ sở pháp lý và khuôn khổ thể chế cho gia tăng liên kết khu vực, trước mắt là
hỗ trợ mục tiêu hình thành Cộng đồng ASEAN vào năm 2015. Hiến chương
ASEAN đã chính thức có hiệu lực ngày 15/12/2008.
Hội nghị Cấp cao ASEAN-14 (tháng 2/2009) đã thông qua Tuyên bố về Lộ
trình xây dựng Cộng đồng ASEAN kèm theo 3 Kế hoạch tổng thể xây dựng 3 trụ
cột Cộng đồng ASEAN và Kế hoạch công tác về IAI giai đoạn 2 (2008-2015). Đây
là một văn kiện quan trọng như một chương trình hành động tổng thể cho giai đoạn
tiếp theo để tiếp tục thực hiện mục tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm
2015, kế tục Chương trình Hành động Viên Chăn.
Qua các văn kiện pháp lý của ASEAN nêu trên đã cho thấy nền tảng pháp lý
của ASEAN đã được hình thành, đặc biệt Hiến chương ASEAN đã thiết lập được
khuôn khổ thể chế gia tăng liên kết trong ASEAN là những điều kiện pháp lý cho
xây dựng Cộng đồng ASEAN thành công vào cuối năm 2015.
1.4. Cơ sở về chính sách hợp tác ASEAN
1.4.1. Sự tiến triển về nhận thức hình thành Cộng đồng ASEAN
Ý tưởng thành lập một tổ chức khu vực ở Đông Nam Á đã được hình thành
từ năm 1947 qua sáng kiến của lãnh tụ Miến Điện (Myanmar) Aung San. Theo đó sẽ
thành lập một liên bang gồm các nước Miến Điện, Thái Lan, các nước Đông
Dương, Indonesia, Philippines và Malaysia, nhằm mục đích hợp tác kinh tế. Sau đó
còn nhiều sáng kiến khác, ví dụ như sáng kiến của Indonesia năm 1954 về Khối
đoàn kết liên Á (Pan-Asian Unity); của Philippines và Liên mình Đông Nam Á
(Southeast Asian Unity); và của Thái Lan về Liên minh các nước theo Phật giáo
gồm Thái Lan, Miến Điện và Campuchia.
11
Năm 1961, Hiệp hội Đông Nam Á – ASA (bao gồm Thái Lan, Malaysia và
Philippines) được thành lập. Mục đích chính của việc thành lập ASA là: i) thiết lập
một bộ máy hiệu quả để tham khảo, cộng tác một cách hữu hiệu và tương trợ lẫn
nhau trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, khoa học và hành chính; ii) cung cấp đào tạo
giáo dục, nghề nghiệp, kỹ thuật và hành chính, phương tiện nghiên cứu cho người
dân và quan chức các nước tham gia; iii) trao đổi thông tin về các vấn đề thuộc lợi
ích chung hoặc các mối quan tâm trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, giáo dục và
khoa học; và iv) hợp tác trong việc thúc đẩy nghiên cứu Đông Nam Á [56, tr.25].
Tuy nhiên, do nhiều lý do khác nhau, trong đó có vấn đề về lợi ích quốc gia,
dân tộc (tranh chấp lãnh thổ giữa Malaysia và Philippines) dẫn đến việc ASA đã
hoàn toàn tê liệt vào năm 1964. Ý tưởng xây dựng một tổ chức hợp tác khu vực vẫn
được các nhà lãnh đạo ở Đông Nam Á theo đuổi. Ví dụ như, ý tưởng thành lập một
tổ chức Đại Malay của Tổng thống Philippines Diosdado Macapagal. Ý tưởng này
đã được Malaysia và Indonesia ủng hộ, chính vì vậy MAPHILINDO đã được thành
lập vào năm 1963, và sau một thời gian ngắn MAPHILINDO đã tan rã vì lý do
tranh chấp lãnh thổ giữa các quốc gia thành viên.
Năm 1967 ASEAN ra đời là kết quả của sự hợp tác giữa các quốc gia Đông
Nam Á, gác lại những tranh chấp bất đồng, xây dựng lòng tin cậy lẫn nhau vì lợi ích
chung của toàn khu vực. Tuyên bố Bangkok thành lập ASEAN năm 1967 đã nêu rõ
hai mục đích cơ bản của ASEAN là: i) thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội
và phát triển văn hóa ở khu vực; và ii) thúc đẩy hòa bình và ổn định thông qua
Thượng tôn luật pháp quan hệ giữa các quốc gia trong khu vực và tuân thủ các
nguyên tắc của Hiến chương LHQ.
ASEAN đã chú trọng phát triển hợp tác theo các “lĩnh vực chức năng” [48, tr.24]
vốn ít nhạy cảm để giải tỏa mối quan ngại nói trên. Tuy nhiên, trải qua thời gian chính sự
hợp tác chức năng, mà chủ yếu là kinh tế và văn hóa – xã hội, đã tạo ra sự tin cậy lẫn nhau
ở Đông Nam Á, tạo ra nền móng cho quyết tâm phát triển toàn diện quan hệ hợp tác
ASEAN và làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác này qua việc xây dựng một cộng đồng. Các
nhà lãnh đạo ASEAN nhận thức rõ hơn rằng mặc dù ASEAN có thể vẫn giữ tên gọi như lúc
ban đầu là “hiệp hội” các quốc gia, song ASEAN cần hướng tới một sự hội nhập cuối cùng
là hình thành một “cộng đồng” các quốc gia [48, tr.24], không chỉ
12
trên lĩnh vực kinh tế mà cả các lĩnh vực văn hóa – xã hội và đặc biệt là an ninh –
chính trị vốn từng bị tránh né. Đây chính là sự khẳng định mạnh mẽ nhất sự tồn tại,
sức mạnh và đoàn kết của ASEAN trong bối cảnh toàn cầu hóa và khu vực hóa diễn
ra sâu sắc, trước sự tranh giành ảnh hưởng của các nước lớn và để giúp ASEAN
hoạt động có hiệu quả hơn, đóng góp tốt hơn cho an ninh, thịnh vượng và hài hòa xã
hội ở Đông Nam Á và trên thế giới.
Gần 5 thập kỷ qua, ASEAN đã không ngừng phát triển cả về lượng và chất,
nếu ban đầu chỉ là một Hiệp hội với 05 quốc gia thành viên thì nay ASEAN quy tụ
tất cả quốc gia ở khu vực Đông Nam Á. Năm 2003, các nhà lãnh đạo ASEAN đã
tuyên bố thành lập Cộng đồng ASEAN với ba trụ cột: APSC; AEC; và ASCC. Các
Cộng đồng này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và việc xây dựng thành công mỗi
Cộng đồng là điều kiện quan trọng để xây dựng thành công Cộng đồng khác. APSC
nhằm duy trì hòa bình ổn định ở Đông Nam Á là điều kiện tiên quyết cho hợp tác
kinh tế khu vực phát triển và thúc đẩy giao lưu giữa những người dân ASEAN; AEC
tạo ra sự tùy thuộc và ràng buộc lẫn nhau về lợi ích kinh tế buộc các nước phải giải
quyết xung đột bằng biện pháp hòa bình; còn ASCC tạo ra một “xã hội ASEAN” hài
hòa và tin cậy lẫn nhau tuân theo những chuẩn mực và đạo đức chung là điều kiện
cần thiết cho hòa bình và phát triển.
Tuyên bố Hòa hợp ASEAN II thành lập Cộng đồng ASEAN nêu rõ: “Cộng
đồng ASEAN sẽ được thiết lập với ba trụ cột chính là hợp tác an ninh, chính trị, hợp
tác về kinh tế và hợp tác văn hóa – xã hội đan xen và hỗ trợ chặt chẽ cho nhau vì
mục đích đảm bảo hòa bình, ổn định và thịnh vượng chung trong khu vực. ASEAN
sẽ tiếp tục có những nỗ lực bảo đảm tiến trình hội nhập cùng có lợi giữa các dân tộc
gần gũi hơn, thúc đẩy hòa bình và ổn định, an ninh, phát triển và thịnh vượng trong
khu vực… ASEAN sẽ tiếp tục phấn đấu cho một cộng đồng các xã hội đùm bọc
nhau và tăng cường bản sắc khu vực. “Tuyên bố Hòa hợp ASEAN II cũng một lần
nữa khẳng định ASEAN sẽ có một sự thống nhất trong tương lai qua việc duy trì và
xây dựng “một tầm nhìn, một bản sắc và một cộng đồng” [48, tr.25].
Tuy nhiên, quá trình phát triển của ASEAN hình thành cộng đồng chung không
chỉ thể hiện sự tiến triển trong quan điểm của ASEAN về một cộng đồng mà còn thể
hiện qua quan niệm hội nhập ASEAN trên ba khía cạnh: (i) mô hình và nội dung hợp
tác của tổ chức; (ii) nguyên tắc và cơ cấu tổ chức; (iii) lộ trình tiến tới cộng đồng.
13
1.4.2. Tiến triển về mô hình và nội dung liên kết của ASEAN
Về mô hình liên kết, Tuyên bố Bangkok thành lập ASEAN nêu rõ việc thành
lập một Hiệp hội hợp tác khu vực giữa các nước Đông Nam Á được gọi là Hiệp hội
các quốc gia Đông Nam Á. Tên gọi là “Hiệp hội” của tổ chức này được duy trì cho
đến ngày nay, chưa có sự thay đổi. Tuy nhiên, ý tưởng thay đổi tên gọi từ “Hiệp
hội” thành “Cộng đồng” của các nhà lãnh đạo ASEAN đã xuất hiện từ lâu. Vậy một
câu hỏi đặt ra là giữa “Hiệp hội” và “Cộng đồng” có gì khác nhau? Thiết nghĩ, Hiệp
hội là một hình thức hợp tác, liên kết ở mức độ thấp hơn Cộng đồng, Hiệp hội là
một bước khởi đầu để tiến đến một Cộng đồng.
Tuyên bố Bangkok đã nêu rõ một trong những mục đích của Hiệp hội là tăng
cường cơ sở cho một cộng đồng các quốc gia Đông Nam Á hòa bình và thịnh
vượng. Như vậy ý tưởng về một cộng đồng đã xuất hiện ngay từ khi ASEAN được
thành lập, tuy vậy, ý tưởng này chưa được thực hiện ngay. Khi mới được thành lập,
ASEAN chỉ có 5 thành viên và các hoạt động hợp tác chỉ thuộc một số lĩnh vực
nhất định, song mục tiêu của ASEAN là biến ASEAN thành mái nhà chung của tất
cả các quốc gia Đông Nam Á với các hoạt động hợp tác trên tất cả các lĩnh vực.
Tại Hội nghị cấp cao ASEAN không chính thức lần thứ hai ở Kuala Lumpur,
Tầm nhìn ASEAN 2020 (Tầm nhìn 2020) đã được thông qua. Trong đó các nhà lãnh
đạo ASEAN đã nhận định đến năm 2020 toàn bộ Đông Nam Á sẽ là một Cộng đồng
ASEAN nhận thức được các mối liên hệ lịch sử của mình, hiểu rõ di sản văn hóa
của mình và gắn bó với nhau bằng một bản sắc chung của khu vực [45]. Tuy vậy, ý
tưởng và mục tiêu hướng tới một cộng đồng cũng chỉ là một trong những mục tiêu
của Tầm nhìn 2020 vì theo Tầm nhìn đó ASEAN sẽ là một nhóm hài hòa các dân
tộc… Quan hệ đối tác trong phát triển năng động…, một Cộng đồng các xã hội đùm
bọc nhau và một ASEAN hướng ngoại”.
Tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ 9 họp tại Bali, Indonesia, ý tưởng và
khái niệm Cộng đồng ASEAN đã thể hiện một cách chính xác và rõ ràng nhất. Tại đây,
các nhà lãnh đạo ASEAN đã thông qua Tuyên bố Hòa hợp ASEAN (Declaration of
ASEAN Concord II/Bali Concord II). Năm 2004, ý tưởng xây dựng Cộng đồng
ASEAN trên cơ sở ba trụ cột bắt đầu được triển khai. Tại Hội nghị Thượng đỉnh
ASEAN lần thứ 10 (Viên Chăn, Lào), các nhà lãnh đạo ASEAN đã thông qua
14
Chương trình Hành động Viên Chăn (Vientian Action of Programme) với chủ đề
“Hướng tới một Cộng đồng ASEAN hội nhập, hòa bình, đùm bọc và thịnh vượng
chung” [29]. Chương trình này nêu rõ việc ASEAN đồng ý theo đuổi mục tiêu hội
nhập toàn diện và tiến tới thực hiện một Cộng đồng ASEAN cởi mở, năng động và
vững mạnh vào năm 2020 như đã ghi nhận trong Tuyên bố Hòa hợp ASEAN II và
các Phụ lục kèm theo dưới hình thức các chương trình hành động của các trụ cột và
những khuyến nghị của Nhóm đặc trách Cao cấp về Hội nhập Kinh tế ASEAN [29].
Như vậy, theo thời gian, khái niệm về tổ chức khu vực của ASEAN đã dần
dần thay đổi. Đó là từ “Hiệp hội” thành “Cộng đồng”, sự thay đổi này là một trong
những biểu hiện của sự tiến triển quan điểm của ASEAN về cộng đồng.
Về nội dung liên kết và hợp tác. Từ Tuyên bố Bangkok (1967) đến Tầm nhìn
ASEAN 2020 (1997), Mục tiêu hàng đầu của ASEAN là hợp tác chính trị an ninh nhằm
thúc đẩy hòa bình ở Đông Nam Á; thúc đẩy sự cộng tác giúp đỡ lẫn nhau trong các vấn
đề cùng quan tâm trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, khoa học kỹ thuật và
hành chính…. Tuyên bố Bangkok đã nêu rõ tôn chỉ mục đích của Hiệp hội
đó là thúc đẩy hòa bình và ổn định khu vực bằng việc tôn trọng công lý và nguyên tắc
luật pháp trong quan hệ giữa các quốc gia trong vùng và tuân thủ các nguyên tắc của
Hiến chương Liên hợp quốc. Ngoài ra, Tuyên bố Bangkok còn nêu lên một số mục tiêu
khác của ASEAN như thúc đẩy nghiên cứu về Đông Nam Á, duy trì sự hợp tác chặt chẽ
với các tổ chức quốc tế, một số quy định về các cơ chế, cách thức hoạt động của
ASEAN… đã cho chúng ta thấy rằng những mục tiêu ban đầu của ASEAN còn khá
chung chung. Tuy nhiên với việc đưa ra mục tiêu thúc đẩy hòa bình và ổn định khu vực
lên đầu văn bản chứng tỏ rằng, vào thời điểm đó vấn đề đầu tiên mà các nhà lãnh đạo
ASEAN quan tâm là hợp tác chính trị và an ninh trong khu vực.
Trong thời gian đầu ASEAN quan tâm nhiều hơn đến hai nội dung hợp tác đó
là hợp tác chính trị an ninh và hợp tác kinh tế. Năm 1971, ASEAN đã nâng cao nhận
thức về hợp tác chính trị an ninh lên một bước cao hơn bằng việc thông qua Tuyên
bố khu vực Đông Nam Á Hòa bình Tự do và Trung lập (ZOPFN) hay còn gọi là
Tuyên bố Kuala Lumpur, Tuyên bố này nêu rõ rằng mong muốn làm dịu tình hình
căng thẳng quốc tế và đạt được nền hòa bình lâu dài ở Đông Nam Á, là một khu vực
hòa bình, tự do và trung lập thoát khỏi bất cứ hình thức và phương cách can thiệp
nào của các cường quốc bên ngoài [5].
15
Năm 1976, tại Bali, Indonesia, Hội nghị Cao cấp ASEAN lần thứ nhất đã
được tổ chức và thông qua Tuyên bố Hòa hợp ASEAN hay còn gọi là Tuyên bố
Bali. Tuyên bố là một chương trình hành động tổng thể trong khuôn khổ hợp tác
ASEAN, đề cập đến tất cả các lĩnh vực hợp tác trong ASEAN như: chính trị an
ninh, kinh tế và văn hóa – xã hội.
Về chính trị, an ninh, Tuyên bố này đã nêu lên những vấn đề như: ký kết
Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác Đông Nam Á; giải quyết các tranh chấp trong khu
vực bằng các biện pháp hòa bình càng sớm càng tốt; xem xét những bước đi ban
đầu của việc thực hiện khu vực Hòa bình Tự do và Trung lập; tăng cường đoàn kết
chính trị [6]. Như vậy, cũng như trong Tuyên bố thành lập ASEAN, Hiệp ước Thân
thiện và hợp tác Đông Nam Á cho thấy tư tưởng của ASEAN là sẵn sàng quy tụ tất
cả các quốc gia Đông Nam Á vào một cộng đồng.
Về kinh tế, Tuyên bố nhắc đến hợp tác về các hàng hóa cơ bản, đặc biệt là
trong các lĩnh vực nông nghiệp và năng lượng; hợp tác công nghiệp bao gồm việc
xây dựng những nhà máy công nghiệp có quy mô lớn của ASEAN; hợp tác thương
mại bao gồm hợp tác trong các lĩnh vực thương mại nhằm thúc đẩy sự phát triển và
tăng trưởng sản xuất, cải thiện cơ cấu thương mại, hình thành những dàn xếp
thương mại ưu đãi và coi đó là mục tiêu lâu dài v.v…
Về văn hóa – xã hội, Tuyên bố đề cập đến các vấn đề hợp tác trong lĩnh vực
văn hóa xã hội như phát triển xã hội, chú trọng đến sự phồn thịnh của tầng lớp thu
nhập thấp, mở rộng cơ hội việc làm cho nhân dân ở các vùng nông thôn; hợp tác
trong việc giải quyết các vấn đề về tăng dân số, đề ra các chiến lược hợp tác với các
cơ quan, tổ chức quốc tế có liên quan; thúc đẩy việc nghiên cứu Đông Nam Á v.v…
Có thể nói Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ nhất là một bước đột phá quan
trọng trong quá trình phát triển của ASEAN nói chung và trong sự tiến triển quan
điểm ASEAN về cộng đồng nói riêng. Từ chỗ ban đầu với những mục tiêu chung
chung, đến năm 1976, ASEAN đã đưa ra một kế hoạch tổng thể bao gồm tất cả các
lĩnh vực hợp tác cụ thể.
Việc ký kết Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác Đông Nam Á vào năm 1976,
được coi là bộ quy tắc ứng xử quan trọng nhất của ASEAN. ASEAN đã bắt đầu
triển khai một số chương trình hợp tác về thương mại và công nghiệp quan trọng
16
như Thỏa thuận thương mại ưu đãi (PTA), Dự án công nghiệp ASEAN (AIP),
Chương trình bổ trợ công nghiệp ASEAN (AIC), Chương trình liên doanh công
nghiệp ASEAN (AIJV) đã được ký kết và đưa vào thực hiện. Năm 1992, tại
Singapore, ký kết Hiệp định Thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT), Hiệp định
này là cơ sở nền tảng để xây dựng Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Ngoài
ra, ASEAN đã ký kết một số văn bản hợp tác kinh tế quan trọng khác như Chương
trình hợp tác Công nghiệp ASEAN – AICO (1996) và Hiệp định khung về đầu tư
ASEAN – AIA (1998)… Có thể coi Khu vực Mậu dịch tự do, Chương trình hợp tác
công nghiệp và Hiệp định khung về đầu tư là những nền tảng cơ bản, những bước đi
đầu tiên để ASEAN tiến tới Cộng đồng kinh tế ASEAN trong tương lai.
Về mặt hợp tác chính trị, an ninh, ASEAN cũng đã có được những thành tựu
nhất định. Trước hết phải kể đến việc ASEAN thông qua Tuyên bố về biển Đông
vào năm 1992, lần đầu tiên công khai quan điểm của mình về vấn đề biển Đông
bằng một văn kiện riêng biệt. Tuyên bố về biển Đông nhấn mạnh sự cần thiết phải
giải quyết tất cả các vấn đề liên quan đến chủ quyền và quyền tài phán ở biển Đông
bằng các biện pháp hòa bình, không sử dụng vũ lực; và kêu gọi các bên liên quan
kiềm chế nhằm tạo ra một bầu không khí tích cực cho giải pháp cuối cùng đối với
mọi tranh chấp [12].
Việc thành lập Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) cũng là ví dụ cho hợp tác
chính trị an ninh của ASEAN. ARF được thành lập vào năm 1994 với mục tiêu là để
tăng cường đối thoại hợp tác và hội đàm các vấn đề chính trị và an ninh của các
nước có chung lợi ích và mối quan tâm và đóng góp đáng kể vào những nỗ lực
nhằm xây dựng một khu vực đáng tin cậy và dân chủ ở châu Á – Thái Bình Dương.
ARF là một diễn đàn mở dành cho tất cả các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á
và các quốc gia bên ngoài khu vực có liên quan bày tỏ quan điểm của mình về vấn
đề chính trị và an ninh. Diễn đàn này cũng có thể được coi là một cơ cấu hợp tác
chính trị an ninh của ASEAN.
Thập kỷ 90 của thế kỷ XX đã chứng kiến nhiều thành công của ASEAN, từ
việc ASEAN trở thành một tổ chức khu vực ASEAN-10, cho đến các hoạt động hợp
tác được mở rộng như chính trị an ninh, kinh tế, văn hóa – xã hội. Mục tiêu
ASEAN-10 đã trở thành hiện thực, các hoạt động hợp tác đã từng bước được mở
17