ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM THỊ THU HOÀI
ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA ĐƢƠNG
SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội – 2017
i
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM THỊ THU HOÀI
ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA ĐƢƠNG
SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TRẦN ANH TUẤN
Hà Nội – 2017
ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng
tôi.Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực.Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
PHẠM THỊ THU HOÀI
i
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
CHƢƠNG 1......................................................................................................8
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƢỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT
CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ...........................................8
1.1. Khái niệm, đặc điểm về ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự trong
tố tụng dân sự....................................................................................................8
1.1.1. Khái niệm về người đại diện theo pháp luật của đương sự....................8
1.1.2 Đặc điểm của người đại diện theo pháp luật của đương sự..................12
1.2. Cơ sở khoa học của việc xây dựng các quy định về ngƣời đại diện
theopháp luật của đƣơng sự trong tố tụng dân sự...........................................15
1.2.1. Đảm bảo quyền tiếp cận công lý của công dân.................................... 16
1.2.2. Đảm bảo quyền tranh tụng của đương sự.............................................16
1.2.3. Đảm bảo người đại diện có đủ khả năng bảo vệ quyền và lợi ích cho
đương sự..........................................................................................................18
1.2.4. Mối liên hệ giữa pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng dân sự trong
việc xây dựng các quy định về người đại diện theo pháp luật trong tố tụng
dân
sự.....................................................................................................................19
1.2.5. Đảm bảo điều chỉnh phù hợp đối với từng loại đại diện...................... 21
1.3. Vai trò của ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự trong tố tụng dân
sự Việt Nam.....................................................................................................22
1.4. Lƣợc sử về sự hình thành và phát triển các quy định về ngƣời đại diện
theo pháp luật của đƣơng sự trong tố tụng dân sự..........................................23
1.4.1. Nguồn gốc xuất hiện của quy định về đại diện.....................................23
1.4.2. Quy định về đại diện theo Luật Hồng Đức và Luật Gia Long..............24
1.4.3. Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 1945...................................... 25
1.4.4. Giai đoạn từ Cách Mạng tháng Tám 1945 đến năm 2004....................26
1.4.5. Giai đoạn từ năm 2004 đến nay............................................................27
ii
1.5. Pháp luật một số nƣớc trên thế giới về ngƣời đại diện theo pháp luật của
đƣơng sự trong tố tụng dân sự........................................................................29
1.5.1. Quy định về người đại diện của đương sự trong BLTTDS của Cộng hòa
Pháp................................................................................................................30
Bộ Luật Tố tụng Dân sự Việt Nam năm 2004 (BLTTDS) về cơ bản cũng đƣợc
xây dựng trên cơ sở thủ tục tố tụng xét hỏi của các nƣớc theo hệ thống luật
châu Âu lục địa nhƣ BLTTDS mới của Pháp năm 1975 nhƣng có kết hợp các
yếu tố của thủ tục tố tụng tranh tụng của các nƣớc theo hệ thống pháp luật án
lệ. Việt Nam cũng chịu ảnh hƣởng ít nhiều quy định về đại diện theo quy định
của BLTTDS pháp, đặc biệt là những quy định về ngƣời đại diện của đƣơng sự
cụ thể là các quy định của BLTTDS Pháp về phạm vi những ngƣời đại diện:
cha, mẹ, ngƣời trực thuộc bàng hệ, hay ngƣời thân thích. Quy định về chấm dứt
đại diện cũng đƣợc Bộ Luật tố tụng dân sự 2004 áp dụng và đƣợc thay thế bằng
BLTTDS năm 2015.........................................................................................30
1.5.2. Quy định về người đại diện của đương sự trong BLTTDS của Liên
Bang Nga.........................................................................................................31
1.5.3. Quy định về người đại diện của đương sự trong BLTTDS của Cộng
hòa nhân dân Trung Hoa................................................................................32
NGƢỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ
TỤNG DÂN SỰ THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH......35
2.1. Các quy định về chủ thể đại diện............................................................. 35
2.2. Các quy định về điều kiện của ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự
trong tố tụng dân sự........................................................................................ 42
2.2.1. Căn cứ pháp lý xác lập quyền đại diện.................................................43
2.2.2. Điều kiện về chủ thể..............................................................................44
2.2.3. Điều kiện về hình thức.......................................................................... 50
2.3. Quy định về phạm vi tham gia tố tụng của ngƣời đại diện theo pháp luật
của đƣơng sự trong tố tụng dân sự................................................................. 51
2.3.1. Phạm vi tham gia tố tụng của người đại diện theo pháp luật...............51
2.3.2. Vượt quá phạm vi đại diện và hậu quả pháp lý.................................... 53
2.4. Quy định về quyền và nghĩa vụ của ngƣời đại diện theo pháp luật của
đƣơng sự trong tố tụng dân sự........................................................................53
iii
2.4.1.Quyền và nghĩa vụ chung của người đại diện theo pháp luật...............53
2.4.1.1. Quyền của người đại diện theo pháp luật của đương sự...................53
2.4.1.2. Nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của đương sự...............58
2.4.2. Về quyền và nghĩa vụ tố tụng cụ thể của người đại diện......................59
2.5. Các quy định về chấm dứt đại diện và hậu quả pháp lý...........................61
2.5.1. Về các trường hợp chấm dứt đại diện theo pháp luật...........................61
2.5.2. Về hậu quả pháp lý của việc chấm dứt đại diện theo pháp luật...........63
CHƢƠNG 3....................................................................................................65
THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ NGƢỜI ĐẠI DIỆN THEO
PHÁP LUẬT CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ KIẾN
NGHỊ...............................................................................................................65
3.1. Thực tiễn thực hiện các quy định về đại diện theo pháp luật của đƣơng sự
trong tố tụng dân sự........................................................................................ 65
3.1.1. Về kết quả thực thi pháp luật................................................................ 65
3.1.2. Về hạn chế, vướng mắc trong thực hiện quy định về người đại diện theo
pháp luật của đương sự...................................................................................68
3.1.3. Về nguyên nhân của hạn chế trong thực tiễn thực hiện các quy định về
người đại diện theo pháp luật của đương sự.................................................. 80
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định về ngƣời đại diện theo
pháp luật của đƣơng sự trong tố tụng dân sự..................................................81
KẾT LUẬN CHUNG......................................................................................89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................91
iv
DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT
Số
thứ tự
1
2
3
4
v
MỞ ĐẦU
1.
Tính cấp thiết của đề tài
Ngƣời đại diện là một chế định quan trọng trong pháp luật tố tụng dân sự Việt
Nam.Và với xu thế phát triển của xã hội văn minh, đại diện luôn là một nhu cầu không
thể thiếu trong đời sống xã hội cũng nhƣ trong môi trƣờng pháp lý. Điều 16 Hiến pháp
2013 quy định: “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Không ai bị phân biệt
đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế văn hóa xã hội”. Đó cũng là một trong
những nguyên tắc quan trọng của tố tụng dân sự theo đó mọi cá nhân, tổ chức đều bình
đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự. Điều 8 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015
cũng đã quy định về nguyên tắcbình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự.
Theo đó, trong tố tụng dân sự mọi ngƣời đều bình đẳng trƣớc pháp luật, không phân
biệt dân tộc, giới tính, tín ngƣỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, trình độ văn hoá, nghề
nghiệp, địa vị xã hội.Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân đều bình đẳng trong việc thực hiện
quyền và nghĩa vụ tố tụng trƣớc Tòa án.Tòa án có trách nhiệm bảo đảm nguyên tắc
bình đẳng trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
tố tụng dân sự. Các đƣơng sự đều đƣợc pháp luật trao cho các quyền tố tụng dân sự
làm phƣơng tiện để bảo vệ quyền lợi của mình trƣớc Tòa án, đồng thời phải thực hiện
các nghĩa vụ tố tụng nhất định, hợp tác với Tòa án trong giải quyết vụ việc dân sự. Tuy
nhiên, trong những trƣờng hợp đƣơng sự là cá nhân không có năng lực hành vi tố tụng
dân sự thì bản thân họ không thể tự mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng.
Trƣờng hợp đƣơng sự là cơ quan, tổ chức thì việc tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi
của họ cũng cần phải đƣợc thực hiện thông những chủ thể đại diện đƣợc pháp luật thừa
nhận. Do vậy, cần có cơ chế đại diện để bảo đảm cho các quyền và nghĩa vụ tố tụng của
đƣơng sự đƣợc thực hiện trên thực tế.
Quan hệ tố tụng dân sự là quan hệ hình thức phản ánh các quan hệ pháp luật
nội dung thuộc các ngành luật khác nhƣ luật dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động,
thƣơng mại nên quan hệ tố tụng dân sự phản ánh thuộc tính của các quan hệ pháp
luật nội dung nhƣ tính bình đẳng, thoả thuận, tự do, tự nguyện và quyền tự định
1
đoạt của các đƣơng sự. Việc đặt đƣơng sự vào vị trí trung tâm của toàn bộ quá trình
giải quyết các vụ việc dân sự, xác định tƣ cách của các đƣơng sự, quyền và nghĩa vụ
của các đƣơng sự, mối quan hệ giữa ngƣời tham gia tố tụng với cơ quan tiến hành tố
tụng, với ngƣời tiến hành tố tụng đƣợc xem là vấn đề trọng tâm của ngành luật tố tụng
dân sự. Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015 đƣợc Quốc hội khóa XIII thông
qua ngày 25/11/2015 thay thế sửa đổi BLTTDS năm 2004, đƣợc sửa đổi bổ sung năm
2011. Bộ luật này đƣợc xây dựng trong quá trình nƣớc ta có những chuyển biến mạnh
mẽ về kinh tế, xã hội, nhằm thể chế hóa những đƣờng lối chính sách, quan điểm, tƣ
tƣởng trong xây dựng pháp luật và cải cách tƣ pháp của Đảng, trên cơ sở kế thừa có
chọn lọc và phát triển các nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố tụng trƣớc đây.
Ngƣời đại diện theo pháp luật là một trong những bộ phận không thể thiếu trong tố
tụng dân sự. Việc xác định đúng ngƣời đại diện theo pháp luật, quyền và nghĩa vụ của
ngƣời đại diện theo pháp luật là một điều hết sức quan trọng. Vai trò và các hoạt động
của ngƣời đại diện theo pháp luật có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với đƣơng sự
mà còn có vai trò quan trọng đối với cơ quan tiến hành tố tụng, góp phần giải quyết vụ
việc một cách nhanh chóng, đảm bảo quyền lợi của đƣơng sự. Chế định về ngƣời đại
diện hợp pháp của đƣơng sự trong BLTTDS năm 2015 kế thừa và phát triển các quy
định về ngƣời đại diện hợp pháp trong các văn bản pháp luật trƣớc đó nhƣ Pháp lệnh
thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
kinh tế năm 1994, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996, Bộ
luật dân sự 1995, Bộ luật dân sự 2005 và Bộ luật tố tụng dân sự 2004, BLTTDS sửa đổi
năm 2011. Ngƣời đại diện của đƣơng sự đƣợc quy định tại Mục 2 Chƣơng VI (từ Điều
85 tới Điều 90) và tại Phần thứ sáu Chƣơng XXIII (Điều 367, Điều 368, Điều 369,
370) của BLTTDS năm 2015. Các quy định về ngƣời đại diện của đƣơng sự tại
BLTTDS năm 2015 đã khắc phục đƣợc đáng kể những hạn chế, bất cập trong các văn
bản tố tụng trƣớc đó. Tuy nhiên, một số quy định về ngƣời đại diện của đƣơng sự
trong BLTTDS năm 2015 còn chƣa đầy đủ, nhiều quy định còn thiếu tính cụ thể, rõ
ràng, có những vấn đề cần thiết nhƣng chƣa đƣợc luật hóa…Các quy định về đại diện
theo pháp luật của đƣơng sự trong tố tụng dân sự của BLTTDS năm 2015 chủ yếu
đƣợc dẫn chiếu tới các quy định chung về đại diện theo
2
pháp luật trong Bộ luật dân sự 2015. Nhìn chung các quy định về đại diện theo pháp
luật trong BLTTDS năm 2015 vẫn giữ nguyên các quy định trong Bộ luật Tố tụng dân
sự 2004 và phát triển trên cơ sở các quy định về đại diện trong Bộ luật dân sự 2015.
Trong thực tiễn tố tụng đã phát sinh rất nhiều bất cập liên quan đến ngƣời đại
diện theo pháp luật của đƣơng sự nhƣ xác định sai về địa vị pháp lý của ngƣời đại diện
theo pháp luật, quyền và nghĩa vụ của ngƣời đƣợc đại diện chƣa cụ thể, chƣa có các
quy định rõ ràng về ngƣời đại diện theo pháp luật của pháp nhân, đại diện giữa vợ và
chồng khi ly hôn mà một bên bị mắc bệnh tâm thần, các quy định về vấn đề này có có
nhiều mâu thuẫn với các quy định trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, chƣa
quy định rõ các nội dung mà ngƣời đại diện theo pháp luật đại diện cho đƣơng sự khi
tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi cho họ, quyền kháng cáo, kháng nghị của ngƣời
đại diện theo pháp luật dẫn đến ảnh hƣởng trực tiếp đến quá trình tố tụng, đến quyền và
lợi ích hợp pháp của các bên tham gia tố tụng dân sự.Đây có phải là do các quy định
của pháp luật tố tụng dân sự chƣa đầy đủ hay do ý thức, sự hiểu biết pháp luật của các
chủ thể tham gia tố tụng, các cơ quan, ngƣời tiến hành tố tụng.
Xuất phát từ vai trò của ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự, thực tiễn pháp
luật và thực tiễn trong quá trình tố tụng, vì vậy việc nghiên cứu về chế định ngƣời đại diện
theo pháp luật của đƣơng sự là nhu cầu cần thiết. Các quy định của pháp luật hầu nhƣ
chƣa có công trình nào nghiên cứu về đại diện theo pháp luật của đƣơng sự, cần phải có
một sự nghiên cứu rõ ràng về chế định ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự. Vì vậy
luận văn đã đi vào nghiên cứu một cách chi tiết và cụ thể về đại diện theo pháp luật của
đƣơng sự trong tố tụng dân sự Việt Nam, từ lý luận đến thực tiễn để nghiên cứu và hoàn
thiện hơn các quy định về ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có một số công trình nghiên cứu của các tác giả về ngƣời đại diện của
đƣơng sự nói chung, và ngƣời đại diện theo ủy quyền. Chẳng hạn nhƣ Luận văn thạc
sỹ luật học “Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự” của tác giả Nguyễn
Thị Ngọc Hà năm 2012 đã khái quát một cách chung nhất về đại diện theo pháp luật và
đại diện theo ủy quyền của đƣơng sự; Khóa luận tốt nghiệp “Chế định người đại
3
diện của đương sự trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam” của Hồ Nguyên Bình năm
2012; Bài viết in trên trang chủ của Bộ tƣ pháp - Mục nghiên cứu trao đổi về đề tài:
“Đại diện của đương sự-một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Minh Nhất đã phân
tích rõ đƣợc vai trò của ngƣời đại diện khi tham gia vào quá trình tố tụng; bài viết “Bố
mẹ có quyền đại diện cho con bị tâm thần khởi kiện xin li hôn hay không” của Tƣởng
Duy Lƣợng, đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, số 6/2006; “Người mù không có
người đạidiện có quyền khởi kiện dân sự” của Từ Văn Thiết, đăng trên Tạp chí Tòa án
nhân dân, số 18/2006; các bài viết này đã đề cập đến các quy định trong trƣờng hợp
một trong các đƣơng sự bị hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có
ngƣời đại diện thì ai là ngƣời đại diện cho họ. Bài viết "Đại diện theo ủy quyền, từ
pháp luật nội dung đến tố tụng dân sự", của Nguyễn Minh. Hằng, đăng trên Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, số 5/2005. Bài viết “Một số suy nghĩ về Đại diện của đương sự
trong tố tụng dân sự” của Tƣởng Duy Lƣợng, đăng trên Tạp chí khoa học pháp luật, số
01(38), 2007; “Chế định đại diện theo quy định của pháp luật Việt Nam
- nhìn từ góc độ Luật so sánh”, của tác giả Ngô Huy Cƣơng, đăng trên Tạp chí Nhà
nƣớc và pháp luật số 4/2009 đã phân tích khái niệm đại diện, so sánh quy định về đại
diện trong pháp luật Việt Nam với các quy định của pháp luật các nƣớc trong cùng hệ
thống pháp luật từ đó rút ra những điểm mạnh và hạn chế của quy định đó.
Các công trình nghiên cứu về ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự còn
có nhiều hạn chế đã có một số bài viêt sau: “Một số vấn đề về người đại diện theo ủy
quyền và người đại diện do tòa án chỉ định trong tố tụng dân sự” của tác giả Nguyễn
Thị Hạnh- GV Học viện tƣ pháp đăng trên Tạp chí Nghề Luật số 06/2010; bài viết
“Giám hộ, đại diện trong Bộ luật dân sự và Bộ luật tố tụng dân sự” của Thạc sỹ
Nguyễn Việt Cƣờng - Chánh tòa Lao động TANDTC năm 2010, một số bài viết khác
liên quan đến đại diện giữa vợ và chồng khi li hôn, đại diện theo pháp luật của pháp
nhân….Cáccông trình trên đƣợc thực hiện trƣớc khi có BLDS năm 2015 và BLTTDS
năm 2015 và chủ yếu khai thác dƣới góc độ bảo đảm quyền bảo vệ của đƣơng sự hoặc
mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu một số khía cạnh về ngƣời đại diện theo pháp luật
của đƣơng sự, chỉ ra một số vƣớng mắc nhất định khi thực hiện quy định về đại diện
theo pháp luật tham gia tố tụng, chƣƣ́ chƣa nghiên c ứu một cách toàn di ện
4
và chuyên sâu về đại diện theo pháp luật của đƣơng sự trong tố tụng dân sự. Mới
đây nhất có tác phẩm Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 do Thạc
sỹ luật Đoàn Tấn Minh và luật gia Nguyễn Ngọc Điệp là những ngƣời có nhiều
kinh nghiệm trong công tác xét xử đối với án dân sự biên soạn. Tác phẩm đã phân
tích đƣợc những điểm mới về đại diện theo pháp luật của đƣơng sự trong tố tụng
dân sự và những hạn chế của khi áp dụng thực tiễn các quy định. Kết quả nghiên
cứu của các công trình này là cơ sở, tiền đề quan trọng cho việc thực hiện một công
trình nghiên cứu chuyên sâu về đại diện theo pháp luật của đƣơng sự theo tinh thần
của BLDS năm 2015 và BLTTDS năm 2015.
Trên tình hình thực tế nhƣ vậy, Luận văn muốn đƣa ra một nghiên cứu
chuyên sâu và toàn diện quy định về đại diện theo pháp luật của đƣơng sự trong tố
tụng dân sự từ lý luận đến thực tiễn, để từ đó đƣa ra các kiến nghị để bổ sung và
hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật hiên hành về đại diện theo pháp luật
của đƣơng sự, và làm tài liệu tham khảo cho các công trình nghiên cứu về sau.
3.
Mục đích nghiên cứu
Làm rõ các vấn đề lý luận liên quan đến ngƣời đại diện, ngƣời đại diện theo
pháp luật của đƣơng sự và các quy định của pháp luật có liên quan;
Phân tích, đánh giá các quy định pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về ngƣời
đại diện của đƣơng sự trong tố tụng dân sự;
Nghiên cứu thực tiễn trong giải quyết các vụ việc liên quan đến ngƣời đại
diện theo pháp luật của đƣơng sự, phân tích sự bất cập và hạn chế giữa các văn bản
pháp luật khác nhau và áp dụng nó trên thực tiễn;
Tìm ra nguyên nhân và đƣa ra những giải pháp, đề xuất các kiến nghị nhằm
xác định và nâng cao vai trò của ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự trong
tố tụng dân sự.
4. Tính mới và đóng góp của đề tài
5
Hiện nay chƣa có công trình nghiên cứu cụ thể quy định về ngƣời đại diện
theo pháp luật của đƣơng sự trong tố tụng dân sự. Các công trình chỉ dừng lại ở một
mức độ khái quát về chế định ngƣời đại diện nói chung.
Luận văn phân tích toàn diện, chuyên sâu về khái niệm, đặc điểm, vai trò của
ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự trong tố tụng dân sự, việc phân loại đại
diện, cơ sở xây dựng các quy định về ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự
trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam.
Luận văn đã phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về ngƣời đại diện
theo pháp luật của đƣơng sự cũng nhƣ thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật,
từ đó rút ra những hạn chế và đề xuất một số giải pháp nhằm kiến nghị và hoàn thiện
pháp luật về ngƣời đại diện theo ủy quyền của đƣơng sự trong tố tụng dân sự. Luận
văn còn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động giảng dạy và nghiên cứu.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự. Luận văn không nghiên cứu về đại
diện theo pháp luật trong hoạt động thi hành án, mà chỉ tập trung nghiên cứu về đại
diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự tại Toà án. Luận văn không nghiên cứu sâu
toàn bộ các quy định về đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự từ trƣớc đến nay,
không nghiên cứu chuyên sâu về ngƣời đại diện của đƣơng sự trong việc dân sự mà
chỉ tập trung nghiên cứu về ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự trong vụ án
dân sự, đặc biệt là các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Bộ luật dân sự
2015 (có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2017) và một số văn bản pháp luật khác có liên
quan đến ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự trong vụ án dân sự.
Tuy nhiên, để có thể triển khai đề tài một cách sâu sắc, việc nghiên cứu về lƣợc
sử các quy định có liên quan đến vấn đề nghiên cứu cũng đƣợc tiến hành. Bên cạnh đó,
Luận văn cũng nghiên cứu kinh nghiệm lập pháp một số nƣớc về ngƣời đại diện theo
pháp luật nhƣ pháp luật Pháp, Nga, Trung Quốc để so sánh, tham khảo. Ngoài ra, Luận
văn còn nghiên cứu về thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về đại diện theo
pháp luật trong tố tụng dân sự tại một số Tòa án nhằm làm rõ hơn
6
những hạn chế, vƣớng mắc, làm cơ sở cho việc đề xuất giải pháp hoàn thiện và thực
hiện pháp luật về ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở phƣơng pháp luận đề nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của học thuyết Mác-Lê Nin, gắn kết tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh và quan điểm, đƣờng lối của đảng và pháp luật của Nhà nƣớc về Hôn nhân và
gia đình nói chung và việc chế định ngƣời đại diện theo pháp luật.
Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài bao gồm một số phƣơng pháp nhƣ phƣơng
pháp phân loại pháp lý, so sánh pháp luật, phân tích quy phạm, mô hình hóa và điểm
hình hóa các quan hệ xã hội, phƣơng pháp phân tích lịch sử, phân tích quan điểm, quan
niệm, hệ thống hóa, thống kê, điều tra xã hội học.Phƣơng pháp phân loại pháp lý đƣợc
sử dụng để xác định vấn đề cần làm rõ thuộc điều chỉnh của ngành luật nào, chế định
nào đƣợc sử dụng để xác minh tính đúng đắn của vấn đề mà đề tài đang nghiên cứu.
Phƣơng pháp phân tích lịch sử, so sánh pháp luật đƣợc sử dụng trong nghiên
cứu đề tài. Bởi lẽ, chế định đại diện theo pháp luật của đƣơng sự, phải đƣợc đặt
trong mối liên hệ với lịch sử, với các quan điểm khác nhau về nó, so sánh với pháp
luật mỗi quốc gia, để nhận thấy những giá trị đích thực của các quy phạm điều
chỉnh về vấn đề đại diện theo pháp luật của đƣơng sự.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Nội dung của Luận văn gồm ba chƣơng:
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về ngƣời đại diện theo pháp luật của
đƣơng sự trong tố tụng dân sự
Chƣơng 2: Ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự trong tố tụng dân sự
theo pháp luật hiện hành
Chƣơng 3: Thực tiễn thực hiện các quy định về ngƣời đại diện theo pháp
luật của đƣơng sự trong tố tụng dân sự và kiến nghị.
7
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƢỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT
CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm về ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng
sự trong tố tụng dân sự
1.1.1. Khái niệm về người đại diện theo pháp luật của đương sự
Thuật ngữ “Tố tụng dân sự” đƣợc hiểu là trình tự, thủ tục hoạt động do pháp
luật quy định cho việc xem xét giải quyết và thi hành các vụ việc dân sự. Trong tố
tụng dân sự, các chủ thể tham gia tố tụng bao gồm đƣơng sự, ngƣời bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự, ngƣời đại diện của đƣơng sự, ngƣời làm chứng,
ngƣời phiên dịch, ngƣời giám định. Trong đó, ngƣời đại diện theo pháp luật của
đƣơng sự trong pháp luật tố tụng dân sự là một chủ thể đóng một vai trò hết sức
quan trọng trong tố tụng dân sự. Để tìm hiểu rõ khái niệm ngƣời đại diện theo pháp
luật của đƣơng sự trong tố tụng dân sự thì trƣớc hết cần phải làm rõ bản chất của
đại diện chủ thể có thể là ngƣời đại diện của đƣơng sự.
“Đương sự” là một khái niệm cơ bản khi tiếp cận dƣới nhiều góc độ. Đã có
nhiều khái niệm về đƣơng sự đƣợc đƣa ra nhƣng theo Từ điển Tiếng Việt thì “đƣơng
sự là ngƣời, là đối tƣợng trực tiếp của một việc đang giải quyết” [24, tr.346], còn theo
Từ điển Từ và ngữ Hán Việt thì đƣơng sự là ngƣời có liên quan trực tiếp đến một việc.
Trong khoa học pháp lý thì đƣơng sự đƣợc hiểu “là ngƣời có quyền, nghĩa vụ đƣợc
giải quyết trong một việc khiếu nại hoặc một vụ án” [7, tr.165].Trong lĩnh vực tố tụng
dân sự, đƣơng sự đƣợc hiểu là ngƣời tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình hoặc bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của nhà nƣớc thuộc lĩnh vực
mình phụ trách. Về phƣơng diện pháp luật, Khoản 1 Điều 68 BLTTDS năm 2015 đã đi
theo hƣớng liệt kê các chủ thể có thể đƣợc coi là đƣơng sự. Theo đó, đƣơng sự trong
vụ án dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức bao gồm nguyên đơn, bị đơn, ngƣời có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan; đƣơng sự trong việc dân sự là cơ quan, tổ chức cá nhân bao
gồm ngƣời yêu cầu giải quyết việc dân sự và ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ
8
liên quan. BLTTDS năm 2015 đã quy định rõ hơn về đƣơng sự so với BLTTDS sửa
đổi năm 2011 theo hƣớng có sự phân biệt đƣơng sự trong việc dân sự và trong vụ
án dân sƣ. Khi tham gia vào quan hệ pháp luật, các chủ thể thƣờng tự mình thực
hiện các quyền và nghĩa vụ của họ.Tuy vậy, trong một số trƣờng hợp, các chủ thể
khác có thể thay mặt đƣơng sự để thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ
và từ đó hình thành quan hệ đại diện.Xét về lý luận thì yếu tố quyền, lợi ích là yếu
tố chủ yếu để phân biệt đƣơng sự với ngƣời đại diện của họ.
Đại diện là một quan hệ pháp lý theo đó ngƣời đại diện độc lập thực hiện sự
thể hiện ý chí làm phát sinh hậu quả pháp lý trực tiếp đối với ngƣời đƣợc đại diện.
Xét từ góc độ lý luận có thể thấy đại diện là một chế định pháp lý thể hiện sự linh
hoạt, mềm dẻo trong cách thức tham gia vào giao dịch dân sự của các chủ thể.Vấn
đề đại diện trong dân sự đã đƣợc đề cập trong một số giáo trình giảng dạy của các
cơ sở đào tạo luật học. Trang 157, Giáo trình Luật Dân sự của Trƣờng Đại học Luật
Hà Nội, nhà xuất bản Công an nhân dân năm 2002 định nghĩa “Đại diện là một
quan hệ pháp luật”. Chủ thể của quan hệ pháp luật đó bao gồm ngƣời đại diện và
ngƣời đƣợc đại diện.Ngƣời đại diện nhân danh ngƣời đƣợc đại diện xác lập quan
hệ với ngƣời thứ ba vì lợi ích của ngƣời đƣợc đại diện. Ngƣời đƣợc đại diện tiếp
nhận những hậu quả pháp lý từ quan hệ do ngƣời đƣợc đại diện xác lập, thực hiện
đúng thẩm quyền đại diện.
Nghiên cứu pháp luật cho thấy BLDS năm 2015 đã định nghĩa “Đại diện là việc
cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của
người khác (sau đây gọi chung là người được đại diện) xác lập và thực hiện giao dịch
dân sự” (Điều 134, khoản 1 BLDS 2015). Định nghĩa đại diện theo quy định của BLDS
2015 đã chỉ rõ chủ thể đại diện là cá nhân và pháp nhân, khác với BLDS 2005 chỉ xác
định đại diện là “một ngƣời”. Nếu hiểu theo nghĩa hẹp của BLDS năm 2005 trƣớc đây
thì chỉ có cá nhân đƣợc tham gia đại diện cho chủ thể khác khi tham gia quan hệ pháp
luật dân sự. BLDS 2015 đã mở rộng hơn chủ thể về đại diện, theo đó pháp nhân cũng là
ngƣời đại diện, nhân danh cá nhân hoặc pháp nhân để tham gia quan hệ pháp luật. Tuy
nhiên, định nghĩa về đại diện trong Điều 139 BLDS
9
năm 2005 và Điều 134 BLDS năm 2015 đều đi theo hƣớng đại diện là việc chủ thể này
nhân danh và vì lợi ích của chủ thể khác. Khi bình luận quy định của BLDS năm 2005
về đại diện, TS.Ngô Huy Cƣơng đã nhận định nếu phân tích theo đúng chữ nghĩa của
định nghĩa này, thì hành động của ngƣời đƣợc đại diện vƣợt ra ngoài phạm
vi đại diện, và việc gây thiệt hại cho ngƣời khác do phạm vi của ngƣời đại diện trong
khi thực hiện đại diện có thể không nằm trong phạm vi điều chỉnh của chế định đại
diện.Ngƣời đại diện thực hiện hành vi nhân danh ngƣời đƣợc đại diện nên cần phải có
một giới hạn nhất định cho hành vi đó.
Dƣới góc độ tố tụng dân sự thì ngƣời đại diện của đƣơng sự là ngƣời tham
gia tố tụng thay mặt đƣơng sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp cho đƣơng sự trƣớc tòa án. Việc tham gia tố tụng dân sự
của ngƣời đại diện của đƣơng sự có ý nghĩa rất lớn đối với việc bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đƣơng sự trong trƣờng hợp họ là ngƣời bị hạn chế hoặc bị mất
năng lực hành vi tố tụng, giúp cho đƣơng sự, cơ quan tiến hành tố tụng làm rõ đƣợc
sự thật của vụ việc, vụ án dân sự.
Việc nghiên cứu cho thấy pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam thƣờng không có các
quy định chi tiết về việc đại diện trong tố tụng dân sự. Vấn đề đại diện trong tố tụng dân sự
đƣợc dẫn chiếu theo các quy định của pháp luật dân sự. Xét về bản chất thì đại diện trong
tố tụng dân sự đƣợc thiết lập trên nguyên lý của đại diện trong quan hệ dân sự.Theo đó,
ngƣời đại diện trong tố tụng dân sự phải nhân danh và vì lợi ích của đƣơng sự trong phạm
vi đại diện. Đƣơng sự đƣợc đại diện trong tố tụng dân sự có thể là nguyên đơn, bị đơn
hoặc ngƣời có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Họ là ngƣời đại diện theo pháp luật, tiếp
nhận các hậu quả pháp lý từ quan hệ đại diện trong phạm vi thẩm quyền đại diện. Đƣơng
sự đƣợc đại diện có thể là cá nhân không có năng lực hành vi tố tụng dân sự chƣa đủ hoặc
bị hạn chế năng lực hành vi tố tụng nên theo quy định của pháp luật phải có ngƣời đại
diện. Các chủ thể là pháp nhân, tổ chức đại diện tập thể lao động đều hoạt động thông qua
hành vi của những ngƣời có thẩm quyền đại diện cho chủ thể đó. Cơ quan cá nhân, tổ chức
khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
10
ngƣời khác cũng đƣợc coi là đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự của ngƣời
đƣợc bảo vệ (khoản 2 Điều 85 BLTTDS năm 2015).
Pháp luật tố tụng dân sự không quy định nhƣ thế nào là ngƣời đại diện theo
pháp luật của đƣơng sự mà chỉ liệt kê ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự.
Theo Từ điển Luật học thì ngƣời đại diện là cá nhân, pháp nhân nhân danh và vì lợi
ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi chung là ngƣời đƣợc đại diện)
xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.Việc nghiên cứu cho thấy BLDS năm 2015
không quy định trực tiếp về khái niệm ngƣời đại diện theo pháp luật nhƣ đã đƣợc
quy định tại Điều 140 BLDS năm 2005: “Đại diện theo pháp luật là đại diện do
pháp luật quy định hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định”. Tuy nhiên,
Điều 135 Bộ luật này đã có quy định về căn cứ xác lập đại diện: “Quyền đại diện
được xác lập theo ủy quyền giữa người được đại diện và người đại diện (sau đây
gọi là đại diện theo ủy quyền); theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, theo điều lệ của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật (sau đây gọi
chung là đại diện theo pháp luật)”.
BLDS năm 2015 đã chia các loại đại diện theo pháp luật thành hai Điều khoản
riêng biệt là đại diện theo pháp luật của pháp nhân (Điều 136 BLDS năm 2015) và đại
diện theo pháp luật của pháp nhân (Điều 137 BLDS năm 2015). Theo đó, ngƣời đại
diện theo pháp luật đối với cá nhân bao gồm cha, mẹ đối với con chƣa thành niên;
ngƣời giám hộ đối với ngƣời đƣợc giám hộ. Ngƣời giám hộ của ngƣời có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi là ngƣời đại diện theo pháp luật nếu đƣợc Tòa án chỉ
định. Ngƣời đại diện theo pháp luật đối với cá nhân còn có thể bao gồm ngƣời do Tòa
án chỉ định trong trƣờng hợp không xác định đƣợc ngƣời đại diện cho ngƣời chƣa
thành niên, ngƣời đƣợc giám hộ, ngƣời do Tòa án chỉ định đối với ngƣời bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự. Ngƣời đại diện theo pháp luật của pháp nhân bao gồm ngƣời
đƣợc pháp nhân chỉ định theo điều lệ; ngƣời có thẩm quyền đại diện theo quy định của
pháp luật; ngƣời do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án. BLDS năm
2015 đã bỏ quy định về tại Khoản 5, khoản 6 Điều 141 BLDS năm 2005 về đại diện
của chủ hộ gia đình đối với gia đình, tổ trƣởng tổ hợp tác đối với tổ hợp tác.
11
Các quy định về ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự trong Điều 85
BLTTDS năm 2015 đã dẫn chiếu tới các quy định về ngƣời đại diện theo pháp luật
trong quan hệ dân sự đƣợc quy định tại Khoản 2 Điều 85 BLDS năm 2015. Theo quy
định tại Điều 85 BLTTDS năm 2015 thì ngƣời đại diện theo pháp luật đƣợc quy định
trong Bộ luật dân sự là ngƣời đại diện theo pháp luật trong tố tụng dân sự, trừ trƣờng
hợp bị hạn chế quyền đại diện theo quy định của pháp luật; Cá nhân, cơ quan, tổ chức
khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời khác cũng là ngƣời đại diện
theo pháp luật trong tố tụng dân sự của ngƣời đƣợc bảo vệ. BLTTDS năm 2015 có
những quy định cụ thể hơn về ngƣời đại diện so với quy định tại Điều 75 BLTTDS
2004 sửa đổi bổ sung năm 2011, Bộ luật này đã quy định rõ hơn về tổ chức đại diện tập
thể ngƣời lao động tại Khoản 3 Điều 85 BLTTDS năm 2015: “Tổ chức đại diện tập thể
lao động là người đại diện theo pháp luật cho tập thể người lao động khởi kiện vụ án
lao động, tham gia tố tụng tại Tòa án khi quyền, lợi ích hợp pháp của tập thể người lao
động bị xâm phạm; tổ chức đại diện tập thể lao động đại diện cho người lao động khởi
kiện vụ án lao động, tham gia tố tụng khi được người lao động ủy quyền”.
Với những luận giải trên có thể nhận thấy về bản chất thì ngƣời đại diện theo
pháp luật của đƣơng sự trong tố tụng dân sự là cá nhân, pháp nhân tham gia tố tụng
nhân danh và vì lợi ích của đƣơng sự, thay mặt đƣơng sự trƣớc Tòa án để thực hiện
các quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ theo quy định của pháp luật.
Ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự khi tham gia vào quá trình tố tụng
có một vai trò rất quan trọng. Một là, việc tham gia tố tụng của ngƣời đại diện theo
pháp luật của đƣơng sự có tác dụng đối với việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
đƣơng sự, nhất là trong trƣờng hợp họ là những ngƣời bị hạn chế hoặc bị mất năng lực
hành vi tố tụng dân sự. Hai là, việc tham gia tố tụng của ngƣời đại diện theo pháp luật
của đƣơng sự còn có tác dụng nhất định trong việc làm rõ sự thật về vụ việc dân sự.
1.1.2 Đặc điểm của người đại diện theo pháp luật của đương sự
Ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự mang đầy đủ các đặc điểm của
đƣơng sự - Ngƣời tham gia tố tụng, ngoài ra còn có một số đặc trƣng:
12
+
Người đại diện theo pháp luật của đương sự nhân danh đương sự tham
gia tố tụng dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
Ngƣời đại diện theo pháp luật cho đƣơng sự không phải là chủ thể quan hệ của
pháp luật nội dung đang tranh chấp, nên họ tham gia với tƣ cách là ngƣời thay mặt đƣơng
sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự. Tuy nhiên, khác với ngƣời bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự là tham gia tố tụng song song cùng đƣơng sự và
có vị trí pháp lý độc lập và không thay mặt cho đƣơng sự, thì ngƣời đại diện theo pháp
luật của đƣơng sự thƣờng tham gia tố tụng dân sự khi đƣơng sự không tham gia tố tụng
đƣợc hoặc không đủ khả năng để tham gia tố tụng tại Tòa án để nhân danh ngƣời đƣợc đại
diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ngƣời đƣợc đại diện.
+ Người đại diện theo pháp luật của đương sự tham gia tố tụng trên cơ sở
quan hệ đại diện.
Ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự đồng thời tham gia hai mối
quan hệ: quan hệ đại diện và quan hệ tố tụng. Quan hệ đại diện là cơ sở để ngƣời đại
diện của đƣơng sự tham gia vào quan hệ tố tung. Quan hệ đại diện có thể đƣợc xác
lập trƣớc hoặc sau khi Toà án tiến hành tố tụng. Quan hệ đại diện là cơ sở để ngƣời
đại diện của đƣơng sự tham gia vào quan hệ tố tụng. Quan hê đ ̣ aịdiêṇ này
cóthểđƣơc ̣ hình thành trên cơ sở thỏa thuận ý chí giữa các bên (đaịdiêṇ theo ủy
quyền) hoặc theo quy đinḥ của pháp luâṭ(đaịdiêṇ theo pháp luât) ̣.
Đối vơi đaịdiêṇ theo phap luâṭthi
́ƣ́
́ƣ́
trong tố tụng dân sự đƣợc xác định theo pháp luật là tƣơng đối rộng. Quan hệ đại
diện trong tố tụng dân sự có thể hình thành trên cơ sở quan hệ đại diện trong các
quan hệ pháp luật nội dung hoặc đƣợc hình thành thông qua quyết định của Toà án.
Quan hệ đại diện trong tố tụng dân sự có thể mang tính đƣơng nhiên do chủ thể đại
diện đã là ngƣời đại diện trƣớc đó trong quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân gia
đình, thƣơng mại, lao động (trên cơ sở quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân,
quan hệ giám hộ hoặc đại diện) hoặc có thể mới đƣợc Toà án chỉ định là ngƣời đại
diện thay mặt cho đƣong sự trong tố tụng dân sự.
13
Đây là một trong những đặc điểm quan trọng để phân biệt ngƣời đại diện với
ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự - một chủ thể tham gia tố
tụng cũng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đƣơng sự nhƣng không thay
mặt cho đƣơng sự nhƣ ngƣời đại diện.Khác với ngƣời đại diện, ngƣời bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự tham gia tố tụng với vị trí pháp lý tƣơng
đối độc lập với đƣơng sự.Họ tham gia tố tụng trên cơ sở hợp đồng ký kết với
đƣơng sự hoặc ngƣời đại diện của đƣơng sự và đƣợc sự chấp thuận của Tòa án.
+
Quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của đương sự phụ
thuộc
vào quyền và nghĩa vụ của đương sự và bản chất của quan hệ đại diện.
Ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự là ngƣời thay mặt đƣơng sự
thực hiện những quyền và nghĩa vụ mà bản thân đƣơng sự đáng lẽ ra phải thực hiện.
Chính vì vậy quyền và nghĩa vụ của họ phụ thuộc vào đƣơng sự và bản chất của
quan hệ đại diện.Ngƣời đại diện của đƣơng sự không tự nhiên có các quyền, nghĩa
vụ tố tụng của đƣơng sự. Họ có các quyền, nghĩa vụ này là do pháp luật quy định
hoặc do đƣơng sự quyết định thông qua hợp đồng ủy quyền.
Đối với đại diện theo pháp luật thì quyền, nghĩa vụ của ngƣời đại diện của đƣơng
sự là quyền, nghĩa vụ của đƣơng sự; còn đối với ngƣời đại diện theo ủy quyền thì họ chỉ
có các quyền, nghĩa vụ theo hợp đồng ủy quyền. Nhƣ vậy, dù là đại diện theo pháp luật
hay đại diện theo ủy quyền thì quyền và nghĩa vụ của ngƣời đại diện cũng đều phụ thuộc
vào quyền, nghĩa vụ của đƣơng sự và không vƣợt quá phạm vi các quyền và nghĩa vụ đó.
Trong khi đó, vì có tƣ cách độc lập nên ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đƣơng sự có các quyền và nghĩa vụ tố tụng riêng và đƣợc pháp luật quy
định cụ thể. Các quyền và nghĩa vụ tố tụng của ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đƣơng sự không phụ thuộc vào hợp đồng pháp lý giữa họ với đƣơng sự
hoặc ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự. Sở dĩ họ có các quyền, nghĩa vụ
riêng biệt là do họ có tƣ cách độc lập, tham gia tố tụng nhân danh mình chứ không
nhƣ ngƣời đại diện - nhân danh ngƣời khác.
+ Đương sự là cơ quan tổ chức
14
Ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự là cơ quan tổ chức khi tham gia tố
tụng đối với những vụ việc mà đƣơng sự đó tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự,
kinh doanh thƣơng mại, lao động. Còn đối với đƣơng sự là cá nhân thì phạm vi tham
gia tố tụng của họ không bị hạn chế trong bất cứ loại việc nào, bao gồm cả các quan hệ
về hôn nhân gia đình. Vì vậy, ngƣời đại diện theo pháp luật có toàn quyền khởi kiện và
tham gia tố tụng để bảo vệ quyền cho ngƣời đƣợc đại diện, kể cả quan hệ về nhân thân.
Để thực hiện việc đại diện thì ngƣời đại diện của đƣơng sự phải là ngƣời có
năng lực hành vi tố tụng dân sự. Năng lực hành vi tố tụng dân sự là khả năng cá
nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự.
Năng lực hành vi tố tụng dân sự có mối quan hệ mật thiết với năng lực hành vi dân
sự. Một chủ thể đƣợc xác định là có năng lực hành vi tố tụng dân sự nếu chủ thể có
năng lực hành vi dân sự. Ngƣời không có năng lực hành vi tố tụng dân sự thì không
thể thực hiện đƣợc các quyền, nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đƣơng sự trƣớc Tòa án đƣợc. Theo quy định của pháp luật hiện hành, ngƣời có
năng lực hành vi tố tụng dân sự là ngƣời từ đủ 18 tuổi trở lên. Vì vậy, chỉ những
ngƣời này mới có thể trở thành ngƣời đại diện cho đƣơng sự trong tố tụng dân sự.
Cá nhân có năng lực dân sự từ khi sinh ra, pháp nhân có năng lực từ khi đƣợc
thành lập hoặc đăng ký hoạt động. Tuy nhiên, không phải cứ có năng lực pháp luật dân
sự là cá nhân, pháp nhân có thể xác lập, thực hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự của mình
ngay đƣợc mà phải đáp ứng đƣợc một số yêu cầu nhất định về độ tuổi, trí tuệ (đối với
cá nhân); ngƣời đại diện (đối với pháp nhân). Ngoài ra, quyền và nghĩa vụ của ngƣời
đại diện luôn gắn với quyền và nghĩa vụ của ngƣời đƣợc đại diện theo pháp luật, phụ
thuộc vào ngƣời đƣợc đại diện. Bởi lẽ, ngƣời đại diện theo pháp luật là ngƣời “thay
mặt” cho đƣơng sự thực hiện những quyền và nghĩa vụ của đƣơng sự. Chính là “thay
mặt” nên ngƣời đại diện theo pháp luật chỉ có thể thực hiện các quyền, nghĩa vụ của
đƣơng sự. Ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự trong tố tụng dân sự không tự
nhiên có các quyền, nghĩa vụ khác ngoài quyền, nghĩa vụ tố tụng của đƣơng sự.
1.2. Cơ sở khoa học của việc xây dựng các quy định về ngƣời đại diện
theopháp luật của đƣơng sự trong tố tụng dân sự
15
1.2.1. Đảm bảo quyền tiếp cận công lý của công dân
Quyền tiếp cận công lý là quyền của cá nhân, cơ quan, tổ chức đƣợc biết về quá
trình giải quyết các tranh chấp kinh tế, dân sự, hành chính, lao động và các vụ án của cơ
quan nhà nƣớc có thẩm quyền. Nhƣng nếu chỉ dừng lại ở việc quyền đƣợc biết quá trình
giải quyết các vụ việc hoặc vụ án của cơ quan nhà nƣớc thì quyền tiếp cận công lý chỉ là
quyền tiếp cận thông tin trong lĩnh vực tƣ pháp và chƣa cho thấy mục đích của tiếp cận
công lý. Nếu chỉ là sự tiếp cận các quy trình tố tụng thì quyền tiếp cận công lý đồng nhất
với quyền tham gia tố tụng của công dân, cơ quan, tổ chức.Những quyền này chỉ đƣợc
thực hiện và đảm bảo thực hiện khi quá trình tố tụng đã đƣợc phát động.
Quyền tiếp cận công lý với tƣ cách là quyền con ngƣời, đó là khả năng của
chủ thể yêu cầu nhà nƣớc tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để sử dụng pháp luật
nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi của mình tại cơ quan nhà nƣớc khi có tranh chấp
hoặc xử lý vi phạm pháp luật, thể hiện ở những mặt sau: quyền tiếp cận thông tin
pháp luật; quyền trợ giúp pháp lý, quyền tiếp cận giáo dục đào tạo pháp luật các
quyền này đƣợc thực hiện bởi một hệ thống tƣ pháp công bằng và hiệu quả.
Muốn tiếp cận công lý một cách dễ dàng, dân chúng phải có trình độ hiểu biết
nhất định về pháp luật. Quyền tiếp cận công lý của ngƣời dân là một trong những yếu
tố cơ bản để xây dựng quy định về ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự; ngƣời
đại diện theo pháp luật của đƣơng sự có tham gia vào quá trình tố tụng, hiểu biết đƣợc
pháp luật và những quy tắc xử sự khi áp dụng để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp
của ngƣời đƣợc đại diện. Vì vậy, việc có những quy định rõ ràng về ngƣời đại diện
theo pháp luật của đƣơng sự trong tố tụng dân sự, góp phần dảm bảo quyền và lợi ích
của đƣơng sự, đảm bảo các quyền tiếp cận công lý của công dân.
1.2.2. Đảm bảo quyền tranh tụng của đương sự
Khi xét xử, Tòa án phải đảm bảo mọi công dân đều bình đẳng trƣớc pháp luật,
thực sự dân chủ, khách quan. Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết
quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến
của kiểm sát viên… nguyên đơn, bị đơn và những ngƣời có quyền, lợi ích hợp pháp,
16
ngƣời đại diện để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và
trong thời hạn pháp luật quy định. Các cơ quan tƣ pháp có trách nhiệm tạo điều kiện
ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự tham gia vào quá trình tố tụng. Để thực
hiện nhiệm vụ nay, BLTTDS đã có nhiều quy định đề cao vai trò của đƣơng sự trong
việc xác định sự thật khách quan của vụ án cũng nhƣ các quy định bảo đảm cho các
bên đƣơng sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình nhƣ nguyên tắc cung cấp
chứng cứ vào chứng minh (Điều 6, Điều 7 BLTTDS năm 2015), nguyên tắc bảo đảm
quyền bảo vệ của các đƣơng sự (Điều 9 BLTTDS năm 2015), các quy định về quyền và
nghĩa vụ tố tụng của đƣơng sự (từ Điều 70 đến Điều 74 BLTTDS năm 2015)…
Quyền tranh tụng của đƣơng sự đã đƣợc quy định tại khoản 20 Điều 70
BLTTDS năm 2015 và nguyên tắc đảm bảo tranh tụng trong xét xử đƣợc quy định
tại Điều 24 BLTTDS năm 2015. Theo quy định này thì các đƣơng sự, ngƣời bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự có quyền tranh luận trong suốt quá trình
Tòa án giải quyết vụ án dân sự kể từ khi đƣơng sự có yêu cầu và Tòa án thụ lý cho
đến khi xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.
Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc dân sự, các đƣơng sự, ngƣời bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự có quyền đƣa ra yêu cầu; có quyền và nghĩa vụ
cung cấp chứng cứ, chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; có quyền
yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lƣu trữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu,
chứng cứ đó cho mình để giao nộp cho Tòa án; có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng các biện
pháp khẩn cấp tạm thời hoặc các biện pháp cần thiết để bảo đảm chứng cứ trong trƣờng
hợp chứng cứ đang bị tiêu hủy, có nguy cơ bị tiêu hủy hoặc say này khó có thể thu thập
đƣợc; có quyền đề nghị Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của vụ án mà tự mình
không thể thực hiện đƣợc hoặc đề nghị Tòa án triệu tập ngƣời làm chứng, trƣng cầu giám
định, định giá, thẩm định giá…Các đƣơng sự đƣợc bình đẳng trong việc thực hiện quyền
tranh luận nên Tòa án không đƣợc phân biệt đối xử giữa họ.
Ngoài ra, Tòa án còn có trách nhiệm áp dụng các biện pháp cần thiết theo quy định
của pháp luật tạo điều kiện cho đƣơng sự, ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đƣơng sự thực hiện quyền tranh luận để ra bản án, quyết định đúng pháp luật nhƣ các
17
đƣơng sự đều phải đƣợc Tòa án triệu tập tham gia tố tụng, giải thích cho đƣơng sự
quyền tranh luận của họ, tạo điều kiện cho họ biết, sao chụp các chứng cứ, tài liệu
do ngƣời khác cung cấp hoặc Tòa án thu thập.
Ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự đại diện cho đƣơng sự tham gia
vào quá trình tố tụng, nhân danh đƣơng sự thực hiện các hoạt động hành vi liên
quan đến vụ kiện, vì vậy ngƣời đại diện theo pháp luật của đƣơng sự có đầy đủ các
quyền và nghĩa vụ giống nhƣ đƣơng sự, có quyền tranh tụng nhƣ đƣơng sự, tham
gia vào quá trình tranh tụng để đảm bảo Tòa án có thể đƣa ra bản án đúng pháp luật,
đảm bảo quyền và lợi ích của đƣơng sự theo đúng quy định của pháp luật.
1.2.3. Đảm bảo người đại diện có đủ khả năng bảo vệ quyền và lợi ích cho
đương sự
Quá trình tố tụng nói chung và quá trình tố tụng dân sự nói riêng khá phức tạp,
vì vậy không phải ai cũng có thể làm tốt việc bảo vệ quyền và lợi ích cho ngƣời khác.
Do vậy, về chủ quan ngƣời đại diện của đƣơng sự phải có đủ năng lực cần thiết, có
những mối liên hệ nhất định đủ tin cậy để có thể suy đoán việc tham gia tố tụng của họ
là vì quyền lợi của đƣơng sự và về khách quan, họ cần phải đƣợc pháp luật trao cho
các quyền và nghĩa vụ tố tụng nhất định để thực thi vai trò của mình. Cụ thể nhƣ sau:
- Về mặt chủ quan:
Ngƣời đại diện phải là ngƣời có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự, nếu có hiểu
biết pháp luật thì càng tốt. Việc ngƣời đại diện có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự là
để họ có đủ khả năng đại diện, tự mình thay mặt đƣơng sự thực hiện các quyền, nghĩa
vụ tố tụng, không bị phụ thuộc vào chủ thể khác. Và đây cũng là lý do để cơ quan, tổ
chức không thể là ngƣời đại diện cho đƣơng sự. Hơn nữa; cơ quan, tổ chức là thực thể
pháp lý; các hoạt động của nó đều phải thông qua một con ngƣời cụ thể, nên việc quy
định cơ quan, tổ chức làm đại diện sẽ làm phức tạp hóa mối quan hệ (Đại diện hai lần).
Ngoài ra, không phải ai cũng có thể làm một việc (tham gia tố tụng) vì lợi ích của
ngƣời khác nên thƣờng thì ngƣời đại diện phải là ngƣời đƣợc đƣơng sự tin tƣởng,
giao phó hoặc có một mối liên hệ nhất định với đƣơng sự nhƣ là
18