LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bài tiểu luận này, trước hết tôi xin gửi lời cảm ơn đến quý
thầy, cô giáo trong khoa Quản trị Văn phòng, trường Đại học Nội vụ Hà Nội đã
trang bị cho tôi những kiến thức vô cùng quý báu và thiết thực. Đặc biệt, tôi xin
gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến ThS. Đinh Thị Hải Yến - giảng viên bộ môn
Nghi thức nhà nước đã hướng dẫn, truyền đạt và tận tình chỉ dạy trong quá trình
học để tôi hoàn thành bài tiểu luận này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện bài tiểu luận một cách hoàn
chỉnh nhất song cũng không thể tránh khỏi những thiếu sót khi làm bài, tôi rất
mong quý thầy cô cho ý kiến đóng góp để bài tiểu luận hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là bài tiểu luận do tôi thực hiện và hoàn thành. Các
số liệu, kết quả trong bài tiểu luận là trung thực và khách quan. Nếu phát hiện bài
tiểu luận của tôi sao chép từ các công trình khác thì tôi xin chịu toàn bộ trách
nhiệm về bài của mình.
Hà Nội, ngày 09 tháng 01 năm 2020.
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đất nước ta đang đi trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa cùng
với sự phát triển của khoa học kỹ thuật với các nước trên thế giới, thì việc hội
nhập giao lưu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị, y tế thể hiện bản sắc
dân tộc rất sâu sắc. Đặc biệt là các biểu tượng Quốc gia Việt Nam có vai trò to
lớn, quyết định đến sự thành công trong việc giao lưu với các nước trong khu
vực và ngoài châu lục. Biểu tượng Quốc gia thể hiện tính tôn nghiêm, trang
trọng, mang ý nghĩa cho toàn dân tộc. Không chi vậy, khi tham giao vào quan hệ
hợp tác với Việt Nam, các đối tác hiểu được giá trị biểu tượng của Quốc gia là
thể hiện sự tôn trọng, thiện chí thúc đẩy mối quan hệ lâu bền.
Những biểu tượng Quốc gia Việt Nam là sự thể hiện nét văn hóa riêng
biệt, mang đậm nền nông nghiệp lúa nước. Đồng thời, thể hiện yếu tố chính trị,
nói lên tinh thần của toàn dân tộc Việt Nam, được ông cha ta đã đúc kết và hoàn
thiện như ngày ngày. Không những vậy, biểu tượng Quốc gia Việt Nam là nội
dung của Nghi thức nhà nước, được áp dụng trong toàn bộ các cơ quan, tổ chức
doanh nghiệp cũng như đến toàn thể người dân Việt Nam.
Việc thực hiện tốt nội dung của Nghi thức nhà nước sẽ tạo nên nét riêng
biệt cho đất nước Việt Nam, góp phần xây dựng hình ảnh đẹp đẽ trong hoạt động
giao lưu phát triển kinh tế không chỉ trong nước mà còn đối với các nước trên thế
giới, tạo dấu ấn khó phai trong lòng bạn bè Quốc tế. Hơn nữa, việc sử dụng các
biểu tượng Quốc gia nhằm thể hiện sự hoàn chỉnh và nghiêm túc của bộ máy nhà
nước Việt Nam, thúc đẩy sự hoàn thiện bộ máy từ trung ương tới các cấp địa
phương đến mỗi người dân Việt Nam.
Việc sử dụng biểu tượng Quốc gia Việt Nam còn thể hiện sự biết ơn với
lịch sử dân tộc kiên cường, bất khuất của những người anh hùng, qua đó thấy
được trách nhiệm của mình trong việc sử dụng và gìn giữ biểu tưởng của đất
nước. Nhận thấy tầm quan trọng của nội dung nghi thức nhà nước nên tôi quyết
định chọn đề tài: “Thực trạng của tình hình sử dụng biểu tượng quốc gia ở
Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu tìm hiểu, nhằm đưa ra những ý kiến đóng
góp cho các đối tượng góp phần nâng cao trách nhiệm trong việc sử dụng biểu
tượng Quốc gia.
2. Lịch sử nghiên cứu
Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu và tìm hiểu về nội dung Nghi thức
nhà nước, tuy nhiên thực trạng của tình hình sử dụng biểu tượng Quốc gia chưa
được nghiên cứu nhiều. Chỉ có một số văn bản quy phạm pháp luật như: Hướng
dẫn 3420/ HD-BVHTTDL ngày 02 tháng 10 năm 2012 về việc sử dụng Quốc kỳ,
Quốc huy, Quốc ca, chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh. Giáo trình môn Nghi thức
nhà nước do nhà xuất bản Thống kê biên soạn của tác giả Lưu Kiếm Thanh
(2001), Giáo trình lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới do nhà xuât bản Chính
trị Quốc gia biên soạn của Tiến sĩ Nguyễn Minh Tuấn. Tất cả những tài liệu trên
là cơ sở quan trọng để bài báo cáo hoàn thiện và thành công hơn.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng của tình hình sử dụng biểu tượng Quốc gia ở
Việt Nam hiện nay
- Phạm vi nghiên cứu: Các cơ quan tổ chức nhà nước, các doanh nghiệp, tập
đoàn của Việt Nam.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: Tìm hiểu về nguồn gốc ra đời và thực trạng sử dụng các biểu tượng
Quốc gia ở Việt Nam. Đưa ra những nhận xét và những giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả và hoàn thiện việc sử dụng biểu tượng Quốc gia ở Việt Nam
-Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Nghiên cứu về cơ sở lý luận về biểu tượng Quốc gia ở Việt Nam
+ Phân tích thực trạng của tình hình sử dụng biểu Quốc gia ở Việt Nam
+ Đưa ra những nhận xét và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng biểu
tượng Quốc gia ở Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu được sử dụng
-Phương pháp quan sát: Sử dụng phương pháp này đề tìm hiểu, quan sát tình
hình sử dụng biểu tượng Quốc gia ở Việt Nam
- Phương pháp thống kê số liệu, tài liệu: các tài liệu được khảo sát và nghiên cứu
thực tế và các nguồn sách, báo, giáo trình phục vụ cho quá trình làm bài.
- Phương pháp thu thập thông tin: Từ tài liệu và thực tiễn nhằm phục vụ cho quá
trình khảo sát
- Phương pháp phân tích, so sánh và tổng hợp: làm rõ các nội dung trong bài.
6. Cấu trúc của đề tài
Bài tiểu luận gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về biểu tượng Quốc gia Việt Nam
Chương 2: Thực trạng của tình hình sử dụng biểu tượng Quốc gia ở Việt Nam
hiện nay
Chương 3: Đề xuất giải pháp để thực hiện đúng việc sử dụng biểu tượng Quốc
gia Việt Nam.
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BIỂU TƯỢNG QUỐC GIA VIỆT NAM
1.1. Một số khái niệm
Biểu tượng là một hình ảnh, ký tự hay bất cứ cái gì đó đại diện cho một ý
tưởng, thực thể vật chất hoặc một quá trình. Là một hình tượng được phô bày ra
trở thành một dấu hiệu, ký hiệu tượng trưng, nhằm để diễn đạt về một ý nghĩa
mang tính trừu tượng. [2,35]
Quốc gia là một khái niệm địa lý và chính trị, trừu tượng về tinh thần, tình
cảm và pháp lý, để chỉ về một lãnh thổ có chủ quyền, một chính quyền và những
con người của các dân tộc có trên lãnh thổ đó; họ gắn bó với nhau bằng luật
pháp, quyền lợi, văn hóa, tôn giáo, ngôn ngữ, chữ viết qua quá trình lịch sử lập
quốc, và những con người chấp nhận nền văn hóa cũng như lịch sử lập quốc đó
cùng chịu sự chi phối của chính quyền, và, họ cùng nhau chia sẻ quá khứ cũng
như hiện tại và cùng nhau xây dựng một tương lai chung trên vùng lãnh thổ có
chủ quyền. [6]
Một biểu tượng quốc gia là hình ảnh tượng trưng và đại diện cho một quốc
gia. Ngoài ra nó còn được thể hiện với các hình thức phong phú và đa dạng.
Những loại hình cơ bản của biểu tượng quốc gia gồm: Quốc hiệu (thường kèm
theo khẩu hiệu hoặc tiêu ngữ), Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, Quốc thiều, Quốc
phục, Quốc hoa, Quốc thú hoặc Quốc điểu… và những biểu tượng không chính
thức khác. [1,42]
1.2. Phân loại các biểu tượng Quốc gia Việt Nam
Quốc hiệu là tên chính thức của một quốc gia, không chỉ có ý nghĩa biểu
thị chủ quyền lãnh thổ mà còn là danh xưng chính thức được dùng trong ngoại
giao; biểu thị thể chế và mục tiêu chính trị của một nước.
Quốc kỳ là cờ tượng trưng cho một quốc gia, một dân tộc, thể hiện được
sức mạnh, tính quyền lực đối với chủ quyền lãnh thổ. Sau khi Việt Nam thống
nhất tại kì họp khóa VI đã quyết định lấy quốc kỳ của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là lá cờ đỏ sao vàng.
Quốc huy là một trong những biểu tượng của một quốc gia. Quốc huy là
một biểu tượng thể hiện chế độ, hình ảnh đặc trưng của quốc gia đó. Quốc huy
thường được sử dụng trên các ấn phẩm quốc gia như tiền tệ, giấy tờ...
Quốc ca Việt Nam là bài Tiến Quân ca do Văn Cao sáng tác năm 1946.
Ngoài bốn biểu tượng trên còn có Quốc hoa tượng trưng là hoa sen, Quốc phục
là áo dài Việt Nam.
1.3. Đặc điểm của biểu tượng Quốc gia Việt Nam
Biểu tượng Quốc gia có những đặc điểm sau:
Là biểu tượng đặc trưng của mỗi quốc gia, khi nhìn vào biểu tưởng là biết ngay
đến đất nước nào, nó thể hiện bản sắc văn hóa đặc trưng và tinh thần tự tôn dân
tộc của quốc gia đó.
Là hình ảnh đại diện của mỗi quốc gia trong quan hệ quốc tế và biểu hiện của
tính chính thức trong quan hệ giữa nhà nước với công dân và các tổ chức.
Là sự kết tinh các giá trị văn hóa, chính trị, xã hội của một quốc gia được khái
quát hóa thông qua các phương tiện thể hiện như âm nhạc, hội họa hay ngôn
ngữ.
1.4. Ý nghĩa của biểu tượng Quốc gia Việt Nam
Quốc hiệu có ý nghĩa biểu thị chủ quyền lãnh thổ, danh xưng chính thức
được dùng trong ngoại giao, mà còn biểu thị thể chế và mục tiêu chính trị của
một nước. Dù thể hiện dưới dạng tiếng nói hay chữ viết, đối với mỗi công dân,
quốc hiệu luôn là lòng tự hào dân tộc.
Ý nghĩa là cờ Tổ quốc (Quốc kỳ) thể hiện với màu đỏ tượng trưng cho
nhiệt huyết chiến đấu, còn màu vàng là màu truyền thống tượng trưng cho màu
da của con dân nước Việt Nam, và năm cánh sao đại diện cho năm tầng lớp – sĩ,
nông, công, thương, binh – cùng đoàn kết chống lại kẻ thù, xây dựng đất nước.
Ngoài ra màu đỏ còn tượng trưng cho máu của các anh Hùng đã đổ xuống để
chiến đấu giành độc lập tự do, màu vàng ngôi sao tượng trưng đời sống nông
nghiệp liên quan với cánh đồng lúa nước vàng óng.
Ý nghĩa của Quốc huy Việt Nam với thiết kế hình tròn, màu sắc giống với
lá cờ Tổ Quốc, vẫn là màu nền đỏ làm chủ đạo, trung tâm quốc huy ngôi sao
vàng năm cánh. Biểu tượng này thể hiện tương lai phát triển của nước ta, bông
lúa vàng là hình ảnh gắn liền với ngành nông nghiệp, bánh xe tượng trưng cho
tương lại phát triển công nghiệp và chính giữa, phía dưới là dòng chữ tên nước.
Quốc ca là bài ca vĩ đại, gắn với lịch sử đặc biệt, vận mệnh thiêng liêng và
ý chí, khát vọng của mỗi dân tộc. Bài hát Tiến quân ca thể hiện tinh thần yêu
nước, tinh thần tự tôn dân tộc và trách nhiệm của mỗi công dân đối với đất nước.
1.5. Nguồn gốc ra đời của các biểu tượng Quốc gia Việt Nam
1.5.1. Lịch sử Quốc hiệu của Việt Nam
1.5.1.1. Văn Lang
Văn Lang được coi là quốc hiệu đầu tiên của Việt Nam. Quốc gia này có
kinh đô đặt ở Phong Châu nay thuộc tỉnh Phú Thọ. Lãnh thổ bao gồm khu vực
đồng bằng Bắc Bộ và ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh bây giờ. Quốc gia
này tồn tại cho đến năm 258 TCN. Ý nghĩa Quốc hiệu Văn Lang “Lang” là lan
tỏa, “Văn” là văn hóa. Văn Lang nghĩa là cội nguồn văn hóa mang sức mạnh lan
tỏa.
1.5.1.2. Âu Lạc
Năm 257 TCN, nước Âu Lạc được dựng lên, từ việc liên kết các bộ lạc
Lạc Việt (Văn Lang) và Âu Việt, dưới uy thế của Thục Phán – An Dương Vương.
Âu Lạc có lãnh thổ bao gồm phần đất của Văn Lang trước đây cộng thêm vùng
núi Đông Bắc Việt Nam và một phần tây nam Quảng Tây (Trung Quốc). Quốc
hiệu này có ý nghĩa chỉ sự đoàn kết và tồn tại 50 năm từ 257 trước CN đến 207
trước CN.
1.5.1.3. Vạn Xuân
Vạn Xuân là quốc hiệu của Việt Nam trong một thời kỳ độc lập ngắn ngủi
khỏi triều đình trung ương Trung Hoa của nhà Tiền Lý dưới sự lãnh đạo của Lý
Nam Đế. Quốc hiệu này tồn tại từ năm 544 đến năm 602 thì bị nhà Tùy tiêu diệt.
Ý nghĩa quốc hiệu Vạn Xuân với ý nghĩa đất nước bền vững vạn mùa xuân,
khẳng định niềm tự tôn dân tộc, tinh thần độc lập và mong muốn đất nước được
bền vững muôn đời.
1.5.1.4. Đại Cồ Việt
Năm 968, Ðinh Bộ Lĩnh dẹp yên loạn 12 sứ quân cát cứ, thống nhất đất
nước, lên ngôi Hoàng đế và cho đổi quốc hiệu là Ðại Cồ Việt (Đại nghĩa là lớn,
Cồ nghĩa là lớn, do đó tên nước ta có nghĩa là nước Việt lớn)
Đại Cồ Việt là quốc hiệu của Việt Nam từ thời nhà Đinh đến đầu thời nhà Lý, do
Đinh Tiên Hoàng thiết đặt năm 968. Quốc hiệu này tồn tại 87 năm cho đến năm
1054, đời vua Lý Thánh Tông thì đổi sang quốc hiệu khác.
1.5.1.5. Đại Việt
Đại Việt là quốc hiệu của Việt Nam từ thời nhà Lý, bắt đầu từ năm 1054, khi vua
Lý Thánh Tông lên ngôi. Quốc hiệu này tồn tại lâu dài nhất, dù bị gián đoạn 7
năm thời nhà Hồ và 20 năm thời thuộc Minh, kéo dài đến năm 1804, trải qua các
vương triều Lý, Trần, Lê, Mạc và Tây Sơn, khoảng 724 năm.
1.5.1.6. Đại Ngu
Đại Ngu là quốc hiệu của Việt Nam thời nhà Hồ. Quốc hiệu Đại Việt được
đổi thành Đại Ngu năm 1400 khi Hồ Quý Ly lên nắm quyền. Về quốc hiệu này,
theo truyền thuyết, họ Hồ là con cháu vua Ngu Thuấn nên đặt quốc hiệu là Đại
Ngu. Chữ Ngu có nghĩa là "sự yên vui, hòa bình”.
1.5.1.7. Việt Nam
Quốc hiệu Việt Nam chính thức xuất hiện vào thời nhà Nguyễn. Vua Gia
Long đã đề nghị nhà Thanh công nhận quốc hiệu Nam Việt, với lý lẽ rằng "Nam"
có ý nghĩa "An Nam" còn "Việt" có ý nghĩa "Việt Thường". Tuy nhiên, tên Nam
Việt trùng với quốc hiệu của quốc gia cổ Nam Việt thời nhà Triệu. Nhà Thanh
yêu cầu nhà Nguyễn đổi ngược lại thành Việt Nam để tránh nhầm lẫn, và chính
thức tuyên phong tên này năm 1804.
1.5.1.8. Đại Nam
Năm 1820, vua Minh Mạng lên ngôi xin nhà Thanh cho phép đổi quốc
hiệu Việt Nam thành Đại Nam, ngụ ý một nước Nam rộng lớn. Tuy nhiên, nhà
Thanh đã không chính thức chấp thuận. Khi nhà Thanh bắt đầu suy yếu, vua
Minh Mạng chính thức đơn phương công bố quốc hiệu mới Đại Nam vào ngày
15 tháng 2 năm 1839. Quốc hiệu này tồn tại đến năm 1945.
1.5.1.9. Đế quốc Việt Nam
Sau khi Nhật đảo chính Pháp vào ngày 9 tháng 3 năm 1945, hoàng đế Bảo
Đại tuyên bố xóa bỏ các hiệp ước với Pháp và thành lập chính phủ vào ngày 17
tháng 4 năm 1945, đứng đầu là nhà học giả Trần Trọng Kim, với quốc hiệu Đế
quốc Việt Nam.
1.5.1.10. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là tên gọi của cả nước Việt Nam 1945 đến
1954 và miền Bắc Việt Nam từ 1954 đến 1976. Nhà nước này được thành lập
vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 (Ngày Quốc khánh của Việt Nam ngày nay. Trong
thời kỳ 1954 -1975, chính thể này tiếp tục phải đối đầu với Việt Nam Cộng hòa
được Hoa Kỳ thành lập tại miền Nam Việt Nam. Đến năm 1976, chính thể này
cùng với chính thể Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tổ chức Tổng tuyển cử để
thống nhất thành Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1.5.1.11. Quốc gia Việt Nam
Quốc gia Việt Nam là danh xưng của một phần vùng lãnh thổ Việt Nam
thuộc quyền kiểm soát của quân Pháp (mặc dù tuyên bố đại diện cho cả nước), ra
đời chính thức từ Hiệp ước Elysée ký ngày 8 tháng 3 năm 1949. Trong suốt thời
gian tồn tại, Quốc gia Việt Nam chưa từng tổ chức được Tổng tuyển cử trên
phạm vi cả nước như Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã làm năm 1946. Nó bị coi
là một chính phủ bù nhìn của thực dân Pháp. Danh xưng Quốc gia Việt Nam tồn
tại trong 6 năm (1949-1955).
1.5.1.12. Việt Nam Cộng hòa
Việt Nam Cộng hòa là tên gọi của một chính thể được Hoa Kỳ hỗ trợ
thành lập tại miền Nam Việt Nam, kế thừa Quốc gia Việt Nam (1949–1955). Ở
miền Nam Việt Nam, chính thể này tồn tại song song với chính thể Cộng hòa
miền Nam Việt Nam. Chính quyền này sụp đổ vào năm 1975 sau khi đầu hàng
Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Sau đó, Cộng hòa miền Nam Việt Nam có tuyên
bố kế thừa các nghĩa vụ, tài sản, quyền và các lợi ích của Việt Nam Cộng hòa.
1.5.1.13. Cộng hòa miền Nam Việt Nam
Cộng hòa miền Nam Việt Nam là một chính thể cũng ở miền Nam Việt
Nam, tồn tại từ năm 1969 tới 1976, tên đầy đủ là "Chính phủ Cách mạng lâm
thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam". Cộng hòa miền Nam Việt Nam có mục tiêu
chống Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa đế thống nhất đất nước. Sau cuộc Tổng
tuyển cử năm 1976, Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa hợp nhất thành Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
1.5.1.14. Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Sau khi cuộc Tổng tuyển cử năm 1976 do Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và
Cộng hòa miền Nam Việt Nam tổ chức để thống nhất đất nước về mặt chính trị,
ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội khóa VI quyêt định thống nhất Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà và Cộng hòa miền Nam Việt Nam với tên gọi Cộng hòa Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hiệu này được sử dụng từ đó đến nay. [7]
1.5.2. Lịch sử Quốc huy của Việt Nam
Quốc huy Việt Nam hiện nay (nguyên thủy là Quốc huy Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa) được Quốc hội Việt Nam khóa I, kỳ họp Quốc hội thứ VI (từ 1520/9/1955), phê chuẩn từ mẫu quốc huy do chính phủ đề nghị. Mẫu quốc huy
này do họa sĩ Bùi Trang Chước vẽ mẫu và họa sĩ Trần Văn Cẩn chỉnh sửa.
Hình ảnh Quốc huy Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1945 - 1976) (phụ lục hình
1.1)
Hình ảnh Quốc huy Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (1976 - nay) (phụ lục
1.2)
1.5.3. Lịch sử Quốc kỳ Việt Nam
1.5.3.1. Long Tinh Kỳ (1802-1885)
Quốc Kỳ nguyên thủy của triều đình Nhà Nguyễn, là tên gọi chung cho các lá cờ
đã được sử dụng làm quốc kỳ cho xứ Đàng trong của các Chúa Nguyễn (15581802) và của nước Việt Nam dưới triều Nguyễn (1802-1945). Nhà Nguyễn đã
đặt tên bằng tiếng Hán là “Long Tinh Kỳ” Kỳ là cờ, Long là Rồng, biểu tượng
cho hoàng đế, có màu vàng. Râu tua màu xanh dương xung quanh tượng trưng
cho Tiên và cũng là màu đại dương, nơi Rồng cư ngụ. Tinh có nghĩa là ngôi sao
trên trời, mà cũng có nghĩa là màu đỏ. Màu đỏ còn biểu tượng cho phương Nam
và cho lòng nhiệt thành. Long Tinh Kỳ là Cờ Rồng có chấm Đỏ viền tua xanh,
biểu hiệu cho một dân tộc có nguồn gốc Rồng Tiên ở phương Nam vùng nhiệt
đới. (phụ lục hình 1.3)
1.5.3.2. Đại Nam Quốc Kỳ (1885-1890)
Cờ Đại Nam của triều đình Đồng Khánh, được tìm thấy qua tài liệu của người
Tây phương. Lá cờ vàng có chữ Đại Nam được viết bằng chữ Hán có từ thời
hoàng đế Đồng Khánh. Từ năm 1885, người Pháp và Đồng Khánh cấm sử dụng
cờ Long Tinh. Bởi họ cho rằng đây là một dấu hiệu của các cuộc cách mạng
chống lại người Pháp. Đó là lý do tại sao “cờ Đại Nam” ra đời. (phụ lục hình
1.4)
1.5.3.3. Quốc kỳ nền Vàng Ba Sọc Đỏ dưới hai triều đại Kháng Pháp (1890
-1920)
Nền vàng, Ba Sọc Đỏ bằng nhau biểu hiệu Bắc Nam Trung bất khả phân. Cờ
Vàng Ba Sọc Đỏ là lá “quốc kỳ” đúng nghĩa đầu tiên của dân tộc Việt, vì nó hàm
chứa nguyện vọng độc lập và thống nhất của lãnh thổ Việt. Thể hiện ý chí đấu
tranh, bác bỏ hiệp ước Quý Mùi, “chia để trị” của thực dân Pháp, đã tạo ra tình
trạng Nam Kỳ thuộc địa, Trung Bắc kỳ bảo hộ. Nêu cao tinh thần “quốc gia dân
tộc”, bằng cách đoạn tuyệt với sự liên hệ của chữ Hán, cũng như thoát ly ra khỏi
nền bảo hộ Pháp và triều cống Tàu. (phụ lục hình 1.5)
1.5.3.4. Cờ Bắc Trung Kỳ trong thời miền Nam thành thuộc địa Pháp (19201945)
Nền vàng, một sọc đỏ lớn biểu tượng cho Bắc và Trung kỳ. Ngày 10-3-1945 là
ngày cáo chung của chế độ bảo hộ Pháp. Lá cờ Vàng Một Sọc Đỏ, cũng được gọi
là cờ “Long Tinh”, vì nó biến thể từ Long Tinh Kỳ nguyên thủy trong mấy chục
năm đầu của nhà Nguyễn. Nền vàng có hình chữ nhật tương tự như quốc kỳ của
các quốc gia khác. Chấm đỏ được kéo dài ra thành sọc đỏ ở giữa. Tua xanh
không còn nữa. Đây là lá cờ biểu hiệu cho một quốc gia chỉ còn hai miền Bắc và
Trung, thuộc quyền bảo hộ Pháp. (phụ lục hình 1.6)
1.5.3.5. Cờ Nam Kỳ Thuộc Địa (miền Nam thuộc địa Pháp 1923-1945) (phụ lục
hình 1.7)
1.5.3.6. Long Tinh Kỳ trong thời Nhật chiếm Đông Dương (3/1945-8/1945)
Sọc đỏ bằng 1/3 cờ, ngày 11-3-1945 Bảo Đại tuyên bố độc lập, Long Tinh Kỳ trở
thành Đế Kỳ, ngày 30-8-1945 Bảo Đại thoái vị, Đế Kỳ cáo chung. Long Tinh Đế
Kỳ cũng tương tự như Long Tinh Quốc Kỳ trong thời Pháp bảo hộ, nhưng nền
vàng đậm hơn và sọc đỏ thu hẹp lại bằng 1/3 chiều cao lá cờ, để tương xứng với
cờ Quẻ Ly của chính phủ Trần Trọng Kim. (phụ lục hình 1.8)
1.5.3.7. Cờ Quẻ Ly của quốc gia Việt Nam trong thời Nhật chiếm Đông Dương
Nền vàng, ba sọc đỏ, sọc giữa đứt khoảng hơi giống hình Quẻ Ly. Quốc kỳ chính
thức thời Nhật, đồng thời với Long Tinh Kế Kỳ
Để biểu trưng cho Quốc Gia trong chế độ Quân Chủ, Bảo Đại ký sắc lệnh chấp
thuận đề nghị của Thủ Tướng Trần Trọng Kim, lấy lại quốc hiệu Việt Nam mà
nhà Thanh đã chấp thuận trong thời vua Gia Long, và sáng tạo ra một quốc kỳ
mới. Đó là lá cờ có nền vàng tương tự như Long Tinh Đế Kỳ nhưng vạch đỏ
được chia làm ba vạch nhỏ bằng nhau, riêng vạch giữa thì đứt khoảng, tương tự
như quẻ Ly, một quẻ trong bát Quái. (phụ lục hình 1.9)
1.5.3.8. Cờ Đỏ Sao Vàng của Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời “Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa”
Nền đỏ, sao vàng, cạnh sao hơi cong. Ngày 5-9-1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký
sắc lệnh số 5 dùng cờ Việt Minh làm Quốc Kỳ, thay thế cờ Quẻ Ly. Đến 20-121946 Việt Minh rút vào bưng kháng chiến chống Pháp. Cờ Việt Minh tạm mất tư
thế Quốc Kỳ. (phụ lục hình 1.10)
1.5.3.9. Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam
Khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam thành lập vào ngày 20 tháng 12 năm
1960, với thành phần chủ chốt là lực lượng Việt Minh hoạt động ở miền Nam
Việt Nam, với mục tiêu đấu tranh chính trị và vũ trang, chống Mỹ và tiến tới
thống nhất đất nước, đã sử dụng hiệu kỳ cờ có nền gồm nửa trên màu đỏ, nửa
dưới màu xanh, ở giữa là sao vàng.
Đây là lá cờ lấy khuôn mẫu của quốc kỳ Việt Nam dân chủ cộng hòa, và chia
một nửa màu đỏ để thay bằng màu xanh. Lá cờ có hình ngôi sao vàng trên nền cờ
đỏ và xanh dương. Nửa phần trên đại diện cho miền Bắc đã độc lập. Nửa màu
xanh dương tượng trưng cho miền Nam còn trong vòng kềm kẹp của Mỹ và chế
độ Sài Gòn, song miền Nam đấu tranh cho khát vọng hòa bình, thống nhất (màu
xanh hòa bình). (phụ lục hình 1.11)
1.5.3.10. Cờ Đỏ Sao Vàng
Kỳ họp thứ Nhất, Quốc hội khoá I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, ngày 2
tháng Ba năm 1946 đã biểu quyết nhất trí cờ đỏ sao vàng là Quốc kỳ của nước ta.
Quốc kỳ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình chữ nhật, chiều rộng
bằng hai phần ba chiều dài, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh. ( phụ lục
hình 1.12)
1.5.4. Lịch sử Quốc ca Việt Nam
Bản Quốc ca đầu tiên vào thời Chiến tranh thế giới thứ hai, hoàng đế Bảo Đại
xuống chiếu chọn 1 quốc kỳ và quốc ca. Quốc kỳ là cờ long tinh còn quốc ca là
bài Đăng đàn cung.
Đăng đàn cung là một bản cổ nhạc Việt Nam, hiện vẫn được sử dụng trong hầu
hết các giáo trình dạy cổ nhạc và nhạc cụ cổ truyền. Đây là bài nhạc nằm trong
nghi thức lễ tế Nam Giao, được dùng khi vua ngự đến đài tế lễ. Lễ tế Nam Giao,
thực hiện 3 năm/lần vào ngày đông chí, là lễ quan trọng nhất trong nghi thức của
triều đình, khi nhà vua thay mặt quốc dân làm lễ tế trời.
Bài Đăng đàn cung được dùng cho nước Đại Nam, gồm Trung Kỳ và Bắc Kỳ,
chứ không dùng cho Nam Kỳ vì Nam Kỳ là thuộc địa, là 1 lãnh thổ hải ngoại của
Pháp.
Sau Cách mạng Tháng Tám, khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thì
bài Tiến quân ca được chọn làm quốc ca Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Điều này
được ghi vào hiến pháp ngày 9/11/1946. Tiến quân ca là một bài hát do nhạc sĩ
Văn Cao (1923-1995) sáng tác vào năm 1944 và được sử dụng làm quốc ca của
nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam kể từ năm 1976. Trước đó, Tiến
quân ca là quốc ca của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ năm 1945 đến năm
1976. Đến ngày 2 tháng 7 năm 1976, hai miền Nam Bắc thống nhất thành Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và quốc ca là Tiến quân ca.
Năm 1981, Việt Nam tổ chức thay đổi quốc ca. Một cuộc thi được mở ra nhưng
sau hơn một năm, cuộc thi này không được nhắc tới nữa và cũng không có tuyên
bố chính thức gì về kết quả. Tiến quân ca vẫn là quốc ca Việt Nam cho tới ngày
nay.
Tiểu kết chương 1
Qua chương 1, tôi đã trình bày được cơ sở lý luận về biểu tượng Quốc gia
Việt Nam. Cụ thể, đã đưa ra được các khái niệm liên quan, đưa ra những đặc
điểm, ý nghĩa và phân loại biểu tượng Quốc gia. Đồng thời nêu ra quá trình hình
thành trong từng thời kỳ lịch sử của Quốc huy, Quốc hiệu, Quốc ca và Quốc kỳ
Tất cả những điều trên sẽ là tiền đề để tôi có thể đi sâu nghiên cứu thực trạng của
tình hình sử dụng biểu tượng Quốc gia ở Việt Nam trong chương 2.
Chương 2
THỰC TRẠNG CỦA TÌNH HÌNH SỬ DỤNG BIỂU TƯỢNG QUỐC GIA
Ở VIỆT NAM
2.1. Thực trạng sử dụng Quốc hiệu
Trải qua các thời kỳ lịch sử với những biến động khác nhau mà Quốc hiệu được
thay đổi rất nhiều nhưng ngày 30/4/1975, miền Nam được giải phóng, đất nước
được thống nhất. Đến ngày 02/7/1976, trong kỳ họp đầu tiên của Quốc hội nước
Việt Nam thống nhất, toàn thể Quốc hội đã nhất trí đặt Quốc hiệu là Cộng hoà
Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hiệu này, cũng như quốc hiệu trước đó, gắn
với thể chế chính trị mang ý nghĩa thể hiện mục tiêu tiêu vươn tới một xã hội tốt
đẹp hơn. Đồng thời, thể lòng tự tôn dân tộc, ý chí quyết tâm hướng đến xây dựng
một xã hội chủ nghĩa quang vinh muôn năm của mỗi người dân Việt Nam. Quốc
hiệu được sử dụng rộng rãi trong cơ quan hành chính nhà nước, trong các văn
bản hành chính, văn bản quy phạm pháp luật, các doanh nghiệp Việt Nam, và
mỗi công dân người Việt.
2.1.1. Cơ quan Hành chính nhà nước
Quốc hiệu được hướng dẫn chi tiết trong Thông tư 01/2011/TT-BNV ngày 19
tháng 01 năm 2011 của Bộ Nội vụ hướng dẫn thể thức và kỹ thuật trình bày văn
bản hành chính. Quốc hiệu Cộng hòa Xã hội chủ Nghĩa Việt Nam được trình bày
tại ô số 1 chiếm khoảng 1/2 trang giấy theo chiều ngang, ở phía trên, bên phải.
Dòng thứ nhất: “CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM” được trình
bày bằng chữ in hoa, cỡ chữ từ 12 đến 13, kiểu chữ đứng, đậm. Dòng thứ hai là
tiêu ngữ “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” được trình bày bằng chữ in thường, cỡ
chữ từ 13 đến 14, kiểu chữ đứng, đậm; được đặt canh giữa dưới dòng thứ nhất,
chữ cái đầu của các cụm từ được viết hoa, giữa các cụm từ có gạch nối, có cách
chữ; phía dưới có đường kẻ ngang, nét liền, có độ dài bằng độ dài của dòng chữ.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Quốc hiệu và tiêu ngữ thường đi đôi với nhau, và thường được thể hiện trong các
văn bản hành chính trong cơ quan nhà nước Việt Nam. Điều đó thể hiện tính
trang trọng, tôn nghiêm của tổ chức, đồng thời thể hiện tinh thần ý chí vươn đến
xã hội chủ nghĩa của toàn thể nhân dân. Bên cạnh đó Quốc hiệu như một lời
tuyên ngôn khẳng định chủ quyền lãnh thổ của đất nước Việt Nam mà bất kỳ văn
bản hành chính nào cũng phải có, đúng thể thức và có giá trị pháp lý. Các cơ
quan nhà nước dùng văn bản hành chính để quản lý giải quyết các công việc,
một văn bản có hiệu lực pháp lý phải có đầy đủ các thành phần thể thức đặc biệt
là Quốc hiệu. Bởi khi tiếp nhận một văn bản hành chính, dòng Quốc hiệu luôn
luôn được thể hiện rõ ràng và dễ nhìn thấy mang tính trang trọng và tôn nghiêm
rất cao.
Ngoài việc sử dụng trong văn bản hành chính ra thì dòng Quốc chữ Quốc hiệu
còn được treo ở các phòng họp của cơ quan, hay phòng xét xử của các tòa án
nhân dân, được thiết kế chữ viết hoa, chữ to rõ ràng, tùy điều kiện của từng cơ
quan, có thể in chữ và dán tấm bảng treo trên cao, cũng có cơ quan khắc chữ mạ
vàng. Dù thể hiện ở hình thức nào đi nữa thì việc treo Quốc hiệu là sự tôn trọng
và khát vọng vươn tới như một tôn chỉ hoạt động của mỗi tổ chức.
2.1.2. Các doanh nghiệp Việt Nam
Cũng giống như các văn bản của cơ quan hành chính nhà nước, các văn bản của
doanh nghiệp Việt Nam bên cạnh biểu tượng lô gô của tổ chức thì Quốc hiệu
luôn luôn thể hiện trên từng loại văn bản. Điều đó vừa thể hiện được tinh thần
dân tộc vừa khẳng định giá trị của doanh nghiệp mình với các doanh nghiệp
không những trong nước mà nước ngoài.
2.1.3. Công dân Việt Nam
Việc sử dụng Quốc hiệu đối với mỗi người dân Việt Nam đã được giáo dục ngay
từ khi ngồi trên ghế nhà trường được thể hiện qua những bài học bằng việc học
các viết đơn, thư. Điều đó đã đi sâu vào tiềm thức của mỗi người dân Việt Nam.
Bất kể khi muốn giải quyết một nhu cầu hay mong ước nào đó đều phải có đơn
từ gửi cho các cơ quan để họ giải quyết, chẳng hạn như việc muốn đưa con đi
học mầm non thì phải có đơn xin đi học từ phía phụ huynh học sinh, hay như các
vấn đề về đất đai, kiện tụng thì trong đơn luôn luôn phải co Quốc hiệu. Điều đó
phản ánh trình độ của mỗi công dân và tính pháp lý giá trị của mỗi tờ đơn khi
được tiếp nhận. Trường hợp không có Quốc hiệu, tiêu ngữ thường bị loại bỏ và
không được cơ quan chính quyền xem xét. Tuy nhiên ngày nay, sự phát triển của
công nghệ thông tin thì mỗi loại đơn đã được biểu mẫu sẵn để không làm mất
thời gian khi giải quyết công việc và đúng thể thức hóa theo quy định.
2.2. Thực trạng sử dụng Quốc huy
Quốc huy nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình tròn, nền đỏ, ở giữa có
ngôi sao vàng năm cánh, xung quanh có bông lúa, ở dưới có nửa bánh xe răng và
dòng chữ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Khi nhắc đến Quốc huy là nghĩ
ngay đến hai màu chủ đạo đó là vàng và đỏ, các bông lúa vàng tượng trưng cho
nền nông nghiệp Việt Nam, bánh xe có 10 răng, hình ngôi sao và dòng chữ Quốc
hiệu.
Quốc huy được sử dụng rất phổ biến ở các cơ quan nhà nước, trên đồng tiền Việt
Nam từ mệnh giá nhỏ nhất cho đến cao nhất. trên các giấy tờ văn bản, sổ sách
như sổ hộ khẩu, sổ hộ chiếu, sổ đỏ …
2.2.1. Cơ quan Hành chính Nhà nước
Trong bất kì cơ quan Hành chính của Việt Nam, Quốc huy luôn được treo ở
chính giữa của cơ quan, Quốc huy được thiết kế rõ ràng phù hợp với từng không
gian, treo ở vị trí cao, trang trọng mà khi đến cơ quan làm việc hay nhìn từ xa
cũng có thể thấy rõ Quốc huy. Với điều kiện thời tiết nhiệt đới gió mùa ở Việt
Nam và khí hậu khác nhau ở mỗi miền nên chất liệu sử dụng để thiết kế Quốc
huy cũng khác nhau để đảm bảo khi treo bên ngoài không gian sẽ chắc chắn và
bền với thời gian.
Thứ nhất, Quốc huy được treo tại các trụ sở như trụ sở Văn phòng Quốc hội khi
truyền hình trực tiếp thì mỗi người có thể thấy rất rõ ràng, Văn phòng các Bộ, cơ
quan ngang Bộ, Văn phòng Chính phủ, Trụ sở Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân các cấp từ trung ương đến địa phương, các đại sứ quan của Việt Nam ở
nước ngoài. Đặc biệt, trong các buổi lễ lớn của cả nước, Quốc huy cũng được
treo rất trang trọng. Đối với những địa phương giáp với các nước như Trung
Quốc, Campuchia, Lào việc treo Quốc huy tại các cửa khẩu to rõ ràng, và đặt
chính giữa. Điều đó thể hiện chủ quyền dân tộc, khẳng định toàn vẹn lãnh thổ
của Quốc gia.
Thứ hai, Quốc huy được thể hiện trên các loại giấy tờ, văn bản hành chính.
Trong dấu treo đóng trong văn bản hành chính cũng khắc hình Quốc huy, qua đó
thấy được giá trị của Quốc huy là thể hiện hình ảnh tôn nghiêm, kỷ luật, có sự
thống nhất và chuyên nghiệp từ các cấp trong văn bản hành chính nói riêng và
các loại văn bản khác nói chung. Hình Quốc huy được in hoặc đóng bằng dấu
nổi trên các thứ giấy sau đây: Bằng huân chương, bằng khen của Chủ tịch nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà, Thủ Tướng Chính Phủ.
Các văn bản ngoại giao như quốc thư, uỷ nhiệm thư, thư giới thiệu của Chủ tịch
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Thủ Tướng Chính Phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại
giao,
Các công hàm, thiếp mời, phong bì của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà, Thủ Tướng Chính Phủ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao,
Các thư từ, thiếp mời, phong bì của Trưởng ban Thường trực Quốc Hội trong
việc giao thiệp với các cơ quan nước ngoài,
Công văn, thiếp mời, phong bì của các Đại sứ quán và Lãnh sự quán ở nước
ngoài.
2.2.2. Các đơn vị sự nghiệp công lập
Các trường học thường sử dụng Quốc huy trên các loại giấy khen, giấy chứng
nhận các hoạt động của nhà trường của học sinh, sinh viên, giảng viên, cán bộ
trong nhà trường. Quốc huy được sử dụng trong phong tặng Huân chương lao
động trong sự nghiệp phát triển giáo dục, cũng được nhà nước phong tặng các
hạng do những đóng góp của tổ chức cho sự phát triển đất nước, san sẻ bớt gánh
nặng cho chính phủ, góp phần thúc đẩy cộng đồng hướng đến mục tiêu tốt đẹp
hơn.
Điển hình như ngày 21 tháng 9 năm 2019 Trường Đại học Vinh (Nghệ An) tổ
chức trọng thể Lễ khai giảng khóa đào tạo khóa thứ 60, kỷ niệm 60 năm thành
lập trường (1959-2019) và đón nhận các phần thưởng cao quý. Phó Thủ tướng
Chính phủ Vương Đình Huệ và Bộ trưởng Bộ GDĐT Phùng Xuân Nhạ đã trao
tặng Huân chương Lao động hạng Nhất, Cờ Thi đua của Chính phủ cho Trường
Đại học Vinh; trao tặng 30 suất học bổng cho sinh viên học giỏi có hoàn cảnh
đặc biệt khó khăn.
Ngày 19/11, tại Trường Đại học Vinh - được sự ủy quyền của Chủ tịch nước, ông
Thái Thanh Quý - Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An đã trao Huân chương
Lao động hạng Nhì cho cá nhân ông Đinh Xuân Khoa - Hiệu trưởng Trường Đại
học Vinh và Huân chương lao động hạng Ba cho Đoàn Thanh niên cộng sản
Trường của trường.
2.2.3. Công dân Việt Nam
Mỗi người dân là một nhân tố quan trọng của đất nước trong việc giữ gìn và bảo
vệ tổ quốc. Những cá nhân ở địa phương có tinh thần và hành động tích cực
trong công cuộc xây dựng tổ quốc, góp phần vào hiện đại hóa công nghiệp hóa
nền kinh tế đất nước, có những hành động thiết thực lan tỏa giá trị tốt đẹp cho
cộng đồng và xã hội sẽ được chính quyền địa phương trao tặng bằng khen có
hình Quốc huy và đặt trang trọng ở giữa. Điều đó cho thấy giá trị của mỗi con
người và tạo động lực để tiếp tục phấn đấu.
2.3. Thực trạng sử dụng Quốc kỳ
Mỗi một dân tộc, một quốc gia đều có Quốc kỳ riêng. Việt Nam là một dân tộc
độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Quốc kỳ Việt Nam là lá cờ đỏ sao vàng,
là biểu tượng của hồn nước, lòng dân, của tình đoàn kết đời đời bền vững các
dân tộc Việt Nam và là biểu tượng thiêng liêng nhất, thể hiện nhiệt huyết cách
mạng, sự hy sinh anh dũng của toàn thể nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến
đánh đuổi quân xâm lược, giành chính quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ. Lá
cờ đỏ sao vàng, biểu tượng chung nhất của dân tộc Việt Nam, đã khắc sâu vào
tâm khảm của mỗi một người dân Việt Nam và đã được cộng đồng quốc tế công
nhận và tôn trọng. Lá cờ đỏ sao vàng là một minh chứng khẳng định sự thống
nhất, độc lập, tự chủ và hòa bình của dân tộc Việt Nam. Điều đó đã được Chủ
tịch Hồ Chí Minh khẳng định và lịch sử kiểm chứng trong gần một thế kỷ qua,
đó là: "Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có
thể mòn nhưng chân lý ấy không bao giờ thay đổi".
Khi cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Quốc hội khóa đầu tiên nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946 đã ghi vào Hiến pháp: "Quốc kỳ Việt
Nam dân chủ cộng hòa hình chữ nhật, chiều rộng bằng hai phần ba chiều dài,
nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh".
Quốc kỳ Việt Nam được sử dụng rất rộng rãi ở các các cơ quan, trường học, lễ
đón tiếp các đoàn khách cấp cao nước ngoài. Quốc kỳ Việt Nam dùng trong các
đoàn cấp cao của nước ta đến thăm và làm việc tại trụ sở nước ngoài. Cờ đỏ sao
vàng Việt Nam cũng được treo trước mỗi một gia đình Việt Nam vào những ngày
lễ hội, Tết, trong những dịp đón tiếp các đoàn khách đến giao lưu với Việt Nam
về kinh tế, văn hóa và những buổi khai giảng được các em học sinh tung bay vẫy
cờ.
Quốc kỳ còn được treo vào các dịp như kỷ niệm quốc khánh nước ngoài. Đón
tiếp đoàn đại biểu Chính phủ nước khác, những dịp lễ Tết của cả nước như 40/1 1/5 ngày Giải phóng miền Nam thống nhất Đất nước, Quốc tế Lao động thế giới,
Quốc khánh nước Cộng hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam, ngày 3/2 thành lập
Đảng Cộng sản…
2.3.1. Cơ quan Hành chính nhà nước
Quốc kỳ đươc treo ở nơi trang trọng, với các cơ quan tổ chức, trường học có trụ
cờ thì cờ tổ quốc được treo lên đỉnh trụ cờ. Nếu không có trụ cờ thì treo lên đỉnh
cao nhất của trụ sở cơ quan. Việc treo Quốc kỳ phải đảm bảo tính trang trọng, lá
cờ không bị nhăn, rách, hay bạc màu. Tuyệt đối không được treo cờ ngược, phải
đảm bảo đúng kích thức và màu cờ luôn được tươi tắn.
Với các trụ sở Phủ Chủ tịch, trụ sở Quốc hội, Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, trụ sở
Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm soát nhân dân tối cao, Bộ Ngoại
giao, Đại sứ quán Việt Nam tại các nước, Cột cờ Hà Nội, trụ sở Ủy ban nhân dân
các cấp, các cửa khẩu và cảng quốc tế treo Quốc kỳ 24 trên 24 giờ hàng ngày.
Các Bộ Ngoại giao, Cơ quan đại diện Ngoại giao hay lãnh sự treo cờ nhiều nước
và hàng cờ theo hàng ngang. Cách một, treo quốc kỳ thứ tự từ trái sang phải theo
chữ đầu tên nước tiếng Anh. Cách hai, treo Quốc kỳ nước chủ nhà ở giữa, tiếp
theo thứ tự bên trái rồi đến bên phải theo bảng chữ cái tiếng Anh hoặc tiếng chủ
nhà.
Trụ sở các Bộ, cơ quan ngang Bộ, các đơn vị vũ trang, nhà trường treo Quốc kỳ
từ 6 giờ đến 18 giờ hàng ngày. Các cơ quan Nhà nước, các nhà trường kể cả học
viện, các đơn vị vũ trang phải có cột cờ và treo Quốc kỳ trước công sở, hoặc nơi
trang trọng trước cửa cơ quan, Quốc kỳ được treo đúng tiêu chuẩn về kích thước,
màu sắc đã được Hiến pháp quy định.
Khi đất nước có Quốc tang tất cả các cờ của cơ quan đều phải treo cờ rủ và buộc
khăn đen trên khắc cả nước.
Quốc kỳ Việt Nam trên xe riêng khi người đứng đầu cơ quan đại diện hoạt động
đối ngoại. Quốc kỳ Việt Nam cắm trên xe riêng của người đứng đầu cơ quan đại
diện khi người đứng đầu cơ quan đại diện sử dụng xe hoạt động đối ngoại phù
hợp với quy định, thông lệ lễ tân của quốc gia, tổ chức quốc tế tiếp nhận.
2.3.2. Các doanh nghiệp Việt Nam
Doanh nghiệp có cờ riêng thường treo cùng Quốc kỳ, cờ công ty doanh nghiệp ở
vị trí cuối cùng theo thứ tự trong cờ hàng. Trong phòng làm việc của lãnh đạo
doanh nghiệp thường để kết hợp giữa cờ doanh nghiệp với cờ tổ quốc điều đó thể
hiện sự phát triển của tổ chức luôn đi đôi với sự phát triển của đất nước, và luôn
giữ gìn bản sắc những giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam. Qua đó thấy
được giá trị cốt lõi của mỗi doanh nghiệp hòa nhập các yếu tố trên thế giới
nhưng không làm mất đi biểu tượng, giá trị truyền thống của dân tộc mình. Hơn
nữa, xây dựng được hình ảnh doanh nghiệp Việt Nam đối với những đối tác tiềm
năng trong khu vực và thế giới.
2.3.3. Mỗi gia đình Việt Nam
Đối với mỗi công dân việc trang trí bằng hình ảnh lá cờ Việt Nam không còn quá
xa lạ, bởi Quốc kỳ như một hình ảnh thiêng liêng và được thể hiện bằng rất nhiều
hình thức, thể loại khác nhau như bằng các hình dán cờ đỏ sao vàng, việc kết
hình tổ quốc mỗi khi tết đến xuân về ở trong các trung tâm thành phố nơi tập
trung đông dân cư nhất bằng chất liệu hoa tươi, đèn màu, hãy những bông hoa
được làm từ chất liệu bền đẹp nhất. Ngoài ra còn thiết kế nhạc nước hình lá cờ để
thu hút được nhiều du khách đối với những người làm bên du lịch. Qua đó vừa
thể hiện tình yêu đất nước, vừa giới thiệu hình ảnh Việt Nam trong mắt bạn bè
quốc tế. Không những vậy, Quốc kì không chỉ để treo mà còn được thiết kế với ý
tưởng áo đỏ và ngôi sao năm cánh màu vàng tươi ở giữa áo. Điều đó, thấy rõ nét
nhất trong các cuộc thi thể thao của Việt Nam trên trường quốc tế vừa củng cố sự
cổ vũ nhiệt tình từ phía cổ động viên vừa nêu cao tinh thần đoàn kết dân tộc
mình. Ngoài ra lá cờ Việt Nam đi sâu vào trong những tác phẩm nghệ thuật như
thi ca, hội họa… tạo ra giá trị tinh túy nhất cho toàn toàn dân tộc Việt Nam.
Mỗi hộ gia đình Việt Nam thường treo Quốc kỳ vào những ngày đặc biệt của đất
nước như Tết Nguyên đán, các ngày lễ kỷ niệm như sinh nhật Bác 19 tháng 5
hàng năm, Kỷ niệm ngày Quốc Khánh mùng 2 tháng 9 hay ngày hội toàn dân
tham gia bầu cử. Không gian treo cờ thường là trước mặt tiền của nhà. Đối với
những nhà cao tầng thì thường treo cờ ở khu vự tầng hơi nghiêng chếch khoảng
45 độ, để lá cờ luôn trải rộng có thể tung bay trong gió và thấy rõ được màu đỏ
và ngôi sao vàng năm cánh rực rõ.
Những buổi giao lưa văn hóa, văn nghệ ở các thôn, khu phố người dân cũng sử
dụng lá cờ đỏ sao vàng để làm đạo cụ biểu diễn góp phần làm tăng sự hấp dẫn
khi thể hiện các tiết mục mang tính dân tộc, quê hương.
Quốc kỳ còn được treo ở tàu thuyền khi ra khơi, để dễ dàng trong việc định
hướng xác định tàu của người Việt Nam. Vào các ngày lễ thuyền đang neo đậu
tại cảng cũng đều treo cờ đồng loạt cùng nhau với kích thước được quy định. Tàu
thuyền nước ngoài khi hoạt động trên lãnh hải Việt Nam phải treo Quốc kỳ nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở đỉnh cột cao nhất của tàu, thuyền. Tàu,
thuyền Việt Nam treo cờ Tổ quốc ở cột phía lái tàu.
Ngoài ra Quốc kỳ còn được người dân Việt Nam sử dụng rộng rãi trong các buổi
cổ vũ, ăn mừng chiến thắng trong Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2019 (Sea
games 30) khi Đội tuyển bóng đá nam và nữ U22 Việt Nam, Đội tuyển Quốc gia
Việt Nam đã giành được những chiến thắng vẻ vang và tạo nên một trang sử mới
về bóng đá nói riêng và thể thao cho nước nhà nói chung. Qua đó, có thể thấy
rằng Quốc kỳ không chỉ đơn thuần là biểu tượng của dân tộc, mà nó còn là sự
gắn kết, khơi dậy lên niềm tự hào, tình yêu thương, sự đoàn kết giữa con người
với con người, giữa cá nhân với cá nhân và giữa tập thể với nhau. Điều đó tạo
lên sức mạnh dân tộc đưa quốc gia Việt Nam ngày càng hùng mạnh và phát triển
không chỉ với lĩnh vực văn hóa thể thao mà còn những lĩnh vực khác.
Trong các buổi tang lễ Quốc kỳ để phủ lên linh cữu những người mất được
Chính phủ quyết định làm lễ quốc tang. Hơn nữa, Quốc kỳ trong buổi lễ mừng
thọ thì Quốc kỳ treo ở phía bên trái của sân khấu nhìn từ phía dưới lên.
2.4. Thực trạng sử dụng Quốc ca
Quốc ca là bài ca vĩ đại, là biểu tượng của mỗi quốc gia, gắn với lịch sử đặc biệt,
vận mệnh thiêng liêng và ý chí, khát vọng của mỗi dân tộc. Chào cờ và hát Quốc
ca là một nghi lễ thiêng liêng, nghi thức quan trọng thể hiện tinh thần yêu nước,
niềm tự hào, tự tôn dân tộc và trách nhiệm của mỗi công dân đối với đất nước,
với nhân dân. Do vậy, ở nhiều nước trên thế giới, việc hát Quốc ca được coi là
nghĩa vụ, quyền lợi của công dân, được quy định hết sức nghiêm túc và theo thời
gian đã trở thành nét đẹp văn hóa trong mỗi người dân và trong toàn xã hội. Tiến
quân ca là một bài hát do nhạc sĩ Văn Cao sáng tác vào năm 1944 và được sử
dụng làm quốc ca của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam kể từ năm
1976 cho đến nay.
Tiến quân ca mang theo ước vọng của cả dân tộc đi qua các cuộc trường chinh vệ
quốc để non sông ca khúc khải hoàn. Máu của những người con nước Việt đã tô
thắm màu cờ đỏ sao vàng, để mỗi người dân được hát vang bài hát vĩ đại của dân
tộc Việt Nam trên quê hương hòa bình, thống nhất. Nhiều thế hệ người Việt Nam
đã hát Quốc ca với nhiệt huyết từ mỗi trái tim cho dân tộc và đất nước, cho quá
khứ, hiện tại và tương lai.
2.4.1. Cơ quan Hành chính Nhà nước
Vào sáng thứ 2 đầu tuần, các cán bộ, công cức, viên chức của khối cơ quan đoàn
thể tập trung dưới sân hoặc hội trường nhìn lên lá cờ đỏ sao vàng tung bay để
tiến hành hát Quốc ca, có thể hát có nhạc nền hoặc không có nhạc nền bằng
giọng hát to rõ ràng của mỗi thành viên tạo nên một giai điệu rất hào hùng, thể
hiện tinh thần lý tưởng, năng lượng cho sự khởi đầu cầu việc được khí thế và
năng động hơn. Không những vậy, còn thể hiện tinh thần đoàn kết, sự biết ơn với
những anh hùng đã hi sinh, qua đó thấy được trách nhiệm của mình trong công
việc. Không chỉ có chào cờ đầu tuần, các buổi lễ, cuộc họp, hội nghị đều thực
hiện hát trực tiếp, điều này được thể hiện trong nghi thức nhà nước.
2.4.2. Trường học các cấp
Vào các buổi lễ quan trọng của nhà trường, đặc biệt là khai giảng, quá trình
chuẩn bị rất chu đáo và kỹ lưỡng, đặc biệt là hát Quốc ca. Với khối tiểu học các
em học sinh được học hát bài Tiến Quân ca khi bước vào năm học lớp ba vào
trong chương trình giảng dạy theo kế hoạch của Bộ giáo dục và Đào tạo.
Các trường Tiểu học, Trung học cơ sở, Trung học phổ thông trên toàn quốc đều
thực hiện nghi lễ Chào cờ vào thứ hai đầu tuần. Các thầy cô và học sinh tập trung
sân trường tiến hành hát vang Quốc ca với khí thế hào hùng, tự hào dân tộc và để
bắt đầu chào đón một tuần học tập và làm việc mới thật hiệu quả.
Với các buổi đại hội công đoàn, chi đoàn hay các cuộc thi do nhà trường tổ chức
Bài hát Tiến quân ca luôn được thể hiện khi bắt đầu vào buổi lễ và cuộc thi.
Quốc ca Việt Nam là niềm tự hào của người dân Việt Nam, khi tiếng hát Tiến
quân ca cất lên từ trái tim mỗi người Việt Nam cũng là lúc niềm tự hào dân tộc,
tình yêu quê hương đất nước trào dâng mạnh mẽ. Và như vậy, mỗi lần hát Quốc
ca là một lần người Việt Nam tự bồi đắp tinh thần yêu nước, tinh thần tự tôn dân
tộc để nhận thức rõ hơn trách nhiệm của mỗi công dân đối với đất nước. Điều
này thật sự cần thiết đối với mỗi công dân Việt Nam, đặc biệt đối với sinh viên,
học sinh để từ đó, nâng cao ý thức phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân qua
từng việc làm cụ thể ở từng vị trí công việc cụ thể. Nói cách khác, nguyện vọng
của cả dân tộc chất chứa trong Tiến quân ca phải được chuyển thành hành động
để "Nước non Việt Nam ta vững bền".
2.4.3. Các cuộc thi mang tầm khu vực và thế giới
Với mỗi trận đấu khai mạc các cuộc thi nh: Đại hội Thể thao Đông Nam Á
(Seagames), giải đấu bóng đá thường niên giữa các câu lạc bộ vô địch bóng đá
và đoạt cúp quốc gia của 14 quốc gia châu Á (AFC CUP). Trước những trận đấu
là phần khai mạc, các vận động viên và cổ động viên thường ngân vàng bài hát
Quốc ca. Điều đó thể hiện tinh thần đoàn kết, bản sắc văn hóa riêng của Việt
Nam trên trường khu vực và châu lục. Qua đó thấy được khí thế hào hùng, và tạo
động lực cho sự quyết tâm chiến thắng mang về vinh quang cho tổ quốc khi tham
gia cuộc thi.
2.4.4. Mỗi người dân Việt Nam
Khi cất lên Quốc ca mỗi công dân Việt Nam lại càng tự hào về dân tộc của mình,
lời ca hùng hồn, vang vọng, tràn đầy nhiệt huyết và tinh thần yêu nước. Bài hát
như đi vào tiềm thức của mỗi người trong cuộc sống, hát vang Quốc ca khi cả
nước vui mừng chiến thắng trên đấu trường quốc tế. Điều đó tạo nên một nét
riêng biệt cho Việt Nam. Giai điệu bài hát đi sâu vào tâm trí đã trở thành một lời
ru ca sâu lắng cho những người dân Việt Nam đang định cư ở nước ngoài. Chỉ
cần cất lên tiếng hát là lòng yêu nước nhớ nhà trỗi dậy mãnh liệu hơn. Dù ở xa
hay gần, mỗi khi bài hát Tiến quân ca vang lên là mỗi người dân Việt Nam từ già
trẻ gái trai đều đặt tay lên trái tim để hát và cảm nhận giai điệu hào hùng và niềm
tự tôn dân tộc mình.
Không chỉ đi sâu vào tâm trí người Việt, Quốc ca còn lan tỏa khắp thế giới, bởi
giai điệu âm vang không một nước nào có thể nhầm lẫn được. Những du khách
khi đến Việt Nam họ rất vui và đến Quảng Trường Ba Đình Hà Nội chứng kiến
buổi lễ dương cờ và chào cờ tại lăng Bác. Qua đó thấy được, sức lan tỏa của bài
hát Tiến quân ca trong lòng du khách bốn phương.
2.5. Đánh giá tình hình sử dụng biểu tượng Quốc gia ở Việt Nam
2.5.1. Ưu điểm
Các cơ quan tổ chức chấp hành thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật quy
định về việc sử dụng các biểu tượng quốc gia. Việc sử dụng các biểu tượng Quốc
gia của các cơ quan hành chính nhà nước sẽ làm tăng mức độ tin tưởng của chính
quyền đối với nhân dân. Đồng thời thể hiện sự trang trọng, nghiêm túc trong quá
trình tiến hành và giải quyết công việc, xây dựng hình ảnh chuyên nghiệp, uy tín
của nhà nước với toàn thể nhân dân. Việc tổ chức các ngày lễ kỷ niệm, trao tặng,
đón nhận danh hiệu vinh danh Nhà nước và các hình thức khen thưởng được các
cấp, các sở, ban, ngành, đoàn thể từ Trung ương đến các cấp địa phương đều
thực hiện tốt chuẩn chỉnh theo yêu cầu của nội dung nghi thức nhà nước. Các cơ
quan tổ chức hành chính nhà nước, các đơn vị sự nghiệp công lập sử dụng biểu
tượng Quốc gia đúng mục đích, và sử dụng thường xuyên, duy trì hoạt động đều
đặn đi vào nề nếp khuôn khổ cho các thành viên trong tổ chức. Không những vậy
còn đảm bảo tinh thần trách nhiệm của mỗi tổ chức trong viêc gìn giữ, bảo vệ
biểu tượng Quốc gia. Những quy định cụ thể về lễ nghi áp dụng đối với cán bộ
công chức trong công việc. Việc vận dụng, sử dụng các biểu tượng Quốc gia ang
tính bắt buộc thực hiện. Những công việc về nghi thức trong công sở, việc thực
hiện những lễ nghi đã được các cán bộ, công chức nhà nước đã tiến hành triển
khai thực hiện nghiêm chỉnh các quy định đã được nhà nước ban hành.
Đối với các doanh nghiệp việc sử dụng các biểu tượng quốc gia sẽ góp phần vào
củng cố hình ảnh tổ chức cho các đối tác, tạo sự tin tưởng gắn kết của nhân viên,
thu hút được các đối tác.
Còn đối với cá nhân người dân Việt Nam sử dụng các biểu tượng Quốc gia sẽ
làm tăng tinh thần đoàn kết giữa các dân tộc, đặc biệt khi ngân vang bài hát Tiến
quân ca tinh thần yêu nước bảo vệ chủ quyền độc lập được trỗi dậy trong lòng
các thế hệ. Hơn những đó, tạo thành sợ dây kết nối vô hình giúp gắn kết các dân
tộc không chỉ trong nước mà cộng đồng quốc tế, điều đó giúp khẳng định chủ
quyền, phát triển đất nước ngày càng hùng mạnh hơn. Việc sử dụng biểu tượng
Quốc gia góp phần tuyên truyền, giáo dục, truyền thống vẻ vang của dân tộc ta
nói chung và của các ngành, địa phương, cơ quan nói riêng đều. Mà điều đó còn
giúp mỗi người dân Việt Nam luôn luôn ghi nhớ, tôn vinh công lao của các anh
hùng, liệt sĩ, các bậc tiền nhân có công gây xựng đất nước, thể hiện tình cảm và
đạo lý uống nước nhớ nguồn của dân tộc Việt Nam, góp phần cổ vũ, động viên