TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ
…………..…………..
BÀI TẬP LỚN
TÊN HỌC PHẦN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN
ĐỀ TÀI
: CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở VIỆT NAM
Giáo viên hướng dẫn: PGS. TS Nguyễn Thị Thanh Hiếu
Sinh viên thực hiện : Doãn Tuấn Sơn
Lớp
: Thương mại điện tử 61
Mã sinh viên
: 11194546
Lớp học phần
: Kinh tế chính trị Mác - Lênin_(120)_13
HÀ NỘI – 2020
1
Mục lục
2
Lời nói đầu
Tại Đại hội lần thứ X của Đảng đã xác định mục tiêu và phương hướng tổng quát của 5
năm 2006-2010 là: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức
mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới huy động và sử dụng tốt mọi
nguồn lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển văn hoá; thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội, tăng cường quốc phòng và an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ
động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị xã hội, sớm đưa nước ta
ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.
Thời gian thấm thoát thoi đưa, chỉ còn 2 tháng nữa là năm 2020 sẽ kết thúc, trong đề tài
này chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về tình hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta và xem
liệu chúng ta có về đích đúng kế hoạch hay không? Đồng thời hiểu khái quát về quá trình
công nghiệp hóa trên thế giới, quan điểm của Mác và Lenin về công nghiệp hóa và áp dụng
cho thời kỳ hiện nay.
3
I. Quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin về cách mạng công nghiệp
và công nghiệp hóa
Để nghiên cứu chủ nghĩa tư bản, C. Mác bắt đầu từ hàng hóa và chỉ ra rằng, chính những
quan hệ giá trị - quy luật giá trị là tiền đề kinh tế cho sự ra đời của chủ nghĩa tư bản. Với việc
phân tích giá trị và quy luật giá trị, C. Mác đã chứng minh quan hệ giá trị đã làm cho con
người tách khỏi những lệ thuộc cá nhân, gắn kết họ lại trong quan hệ xã hội, tạo lực đẩy cho
sự phát triển kinh tế. Quy luật giá trị chính là một sức mạnh kinh tế, chỉ ra hướng phát triển
là nên làm những gì có lợi, theo tiếng gọi của thị trường. Nó gợi mở tư duy về tận dụng lợi
thế so sánh, nâng cao năng lực cạnh tranh, ưu tiên cho các cực tăng trưởng mà hiện nay
chúng ta đang bàn đến trong chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Bộ “Tư bản” của C. Mác không chỉ trình bày một trong hai phát kiến lớn nhất của Ông là
Học thuyết giá trị thặng dư mà còn trình bày những phạm trù và quy luật của kinh tế thị
trường, là bộ sách lớn nhất về “kinh tế thị trường” mà ngày nay những nhà kinh tế học mácxít cần phải dựa vào để tổng kết thực tiễn kinh tế thị trường hiện đại. Những nguyên lý về sản
xuất hàng hóa, thị trường, quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, thị trường
vốn, tín dụng, tích lũy vốn, tuần hoàn, chu chuyển vốn, quy luật lưu thông tiền tệ cho đến nay
vẫn không ai bác bỏ được. Nó cũng đã bác bỏ luận điểm cho rằng, cơ chế thị trường mà
chúng ta đang xây dựng để tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa không có gì có thể học
được ở C. Mác, rằng học thuyết kinh tế Mác đã lỗi thời!
C. Mác đã dành phần lớn bộ “Tư bản” để phân tích sự vận động của tư bản (cả tư bản cá
biệt và tư bản xã hội) trong cơ chế thị trường. Luận điểm quan trọng của Ông là sự lớn lên
của tư bản, thông qua cơ chế không ngừng biến phần lớn giá trị thặng dư thành tư bản phụ
thêm (tích lũy). Với tiêu chí số một là giá trị thặng dư, việc tăng tốc quá trình tuần hoàn và
chu chuyển của tư bản, trong đó các yếu tố tăng vòng quay của đồng vốn, không ngừng tích
lũy, thay đổi cấu tạo hữu cơ của tư bản, dùng lao động sống để đánh thức tiềm năng của lao
động vật hóa,… là yếu tố sống còn đối với mỗi nhà tư bản cũng như nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa. Nếu gạt bỏ yếu tố tư bản chủ nghĩa, chúng ta có thể thấy rằng, đó là cơ chế đích thực
để phát triển kinh tế. Nó còn cho thấy, tăng tích lũy, tăng đầu tư vốn, thay đổi kết cấu kỹ
thuật của sản xuất là cơ sở của sự tăng trưởng. Và chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở nước ta hiện nay chính là
chuyển từ nền kinh tế không có tích lũy (tái sản xuất giản đơn) sang nền kinh tế có tích lũy (tái
sản xuất mở rộng theo chiều rộng và chiều sâu) với quy mô ngày càng lớn. Học thuyết tái sản
xuất mác-xít cũng gợi mở nhiều điều về mối quan hệ giữa tích lũy với tiêu dùng, giữa tích tụ
và tập trung vốn, cũng như những cân đối lớn trong nền kinh tế quốc dân. Thế mà, có ý kiến
cho rằng, công cuộc xây dựng đất nước ngày nay, chúng ta không học được gì từ học thuyết
kinh tế của C. Mác!
4
Để nghiên cứu sự ra đời của chủ nghĩa tư bản, tức là quá trình công nghiệp hóa tư bản
chủ nghĩa, C. Mác đã nghiên cứu ba giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản trong công
nghiệp: hiệp tác giản đơn, công trường thủ công và đại công nghiệp cơ khí (máy móc và công
nghiệp lớn). Điểm xuất phát lịch sử của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là số đông người làm
việc cùng một lúc, ở cùng một nơi, dưới sự điều khiển của một nhà tư bản. Như vậy, nội dung
của quá trình sản xuất đã có sự thay đổi trong tổ chức lao động, đó là quá trình lao động xã
hội trực tiếp, là hiệp tác. Hiệp tác và phân công trong công trường thủ công là hai giai đoạn
kế tiếp nhau của cuộc cách mạng trong lao động, khi kỹ thuật sản xuất còn là thủ công. Nó xã
hội hóa trực tiếp quá trình lao động và tạo ra sức sản xuất mới của lao động (sức sản xuất xã
hội). Quá trình chuyên môn hóa lao động chính là cách thức tăng sức sản xuất cá nhân của
con người lên và chuẩn bị những cơ sở cho sự thay đổi trong công cụ lao động. Hai giai đoạn
này có thể xem như thời kỳ chuẩn bị để “cất cánh”. Cuộc cách mạng công nghiệp (công
nghiệp hóa) đã đưa chủ nghĩa tư bản sang giai đoạn phát triển thứ ba - giai đoạn đại công
nghiệp cơ khí. Lúc này, nền sản xuất xã hội đã có được cơ sở vật chất kỹ thuật trong tay mình
là kỹ thuật cơ khí và nhờ kỹ thuật này đã giải phóng sức sản xuất cá nhân khỏi những giới
hạn về thể chất tự nhiên của con người, tạo cơ sở để ứng dụng khoa học vào sản xuất, từng
bước đưa khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Với quá trình công nghiệp hóa,
nền kinh tế được đặt trên cơ sở công nghiệp và cùng với nó là quá trình chuyển dịch cơ cấu
sản xuất, thực hiện cuộc đại phân công lần thứ hai trong nền sản xuất xã hội, tách công
nghiệp ra khỏi nông nghiệp và biến nó thành một ngành sản xuất độc lập. Đó là sự bùng nổ
có tính dây chuyền trong quá trình công nghiệp hóa ở một số ngành mới ra đời, kéo theo
những ngành khác xuất hiện. Nếu kinh tế hàng hóa lấy phân công lao động xã hội là cơ sở, thì
chính công nghiệp hóa với những chuyển dịch trong cơ cấu nền sản xuất xã hội là nội dung
vật chất của quá trình chuyển sang kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường. Đó cũng là nội dung
chính của quá trình tăng năng suất lao động xã hội.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đòi hỏi
để phát triển kinh tế (phương thức sản xuất) thì lực lượng sản xuất là nội dung, là yếu tố
động nhất và quyết định nhất, mà trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa của chúng
ta hiện nay thì phải thực hiện nhiều trình độ, từ trình độ cơ khí đến trình độ của cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0); trong đó phải chú trọng tận dụng thành tựu của cách
mạng 4.0, chuyển dịch cơ cấu kinh tế (trong đó có cơ cấu thành phần kinh tế) mới thúc đẩy
được lực lượng sản xuất phát triển. Chính trên cái nền của lực lượng sản xuất được công
nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo ra mà từng bước xây dựng quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp.
Bằng quan điểm duy vật lịch sử, C. Mác cũng đã chỉ ra mối quan hệ giữa cơ sở kinh tế và
kiến trúc thượng tầng, xác định vai trò quyết định của cơ sở kinh tế và tính tích cực, chủ động
của kiến trúc thượng tầng. Quan hệ này gợi mở ý tưởng về vai trò điều hành của Nhà nước
với quá trình phát triển kinh tế mà ở nước ta hiện nay là quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
5
I.1. Khái quát về cách mạng công nghiệp
I.1.1. Cách mạng công nghiệp là gì?
Cách mạng công nghiệp là những bước phát triển nhảy vọt về chất trình độ của tư liệu
lao động trên cơ sở những phát minh đột phá về kỹ thuật và công nghệ trong quá trình phát
triển của nhân loại kéo theo sự thay đổi căn bản về phân công lao động xã hội cũng như tạo
bước phát triển năng suất lao động cao hơn hẳn nhờ áp dụng một cách phổ biến những tính
năng mới trong kỹ thuật – công nghệ đó vào đời sống xã hội.
Cho đến nay, loài người đã trải qua ba cuộc cách mạng và đang bắt đầu cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ tư (cách mạng công nghiệp 4.0):
Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất bắt đầu từ giữa thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX tại
nước Anh.
Tiền đề của cuộc cách mạng này xuất phát từ sự trưởng thành về lực lượng sản xuất cho
phép tạo ra bước phát triển đột biến về tư liệu lao động, đầu tiên trong lĩnh vực dệt vải sau
đó lan tỏa ra các ngành kinh tế khác của nước Anh.
Nội dung cơ bản của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất là chuyển từ lao động thủ
công thành lao động sử dụng máy móc, thực hiện cơ giới hóa sản xuất bằng việc sử dụng
năng lượng nước và động cơ hơi nước.
Những phát minh quan trọng tạo tiền đề cho cuộc cách mạng này là: Phát minh máy móc
trong ngành dệt như thoi bay của John Kay (1733), xe kéo sợi Jenny (1764), máy dệt của
Edmund Cartwright (1785),… giúp cho ngành công nghiệp dệt phát triển mạnh mẽ. Phát minh
máy động lực, đặc biệt là động cơ hơi nước của James Watt là mốc mở đầu quá trình cơ giới
hóa sản xuất. Các phát minh trong công nghiệp luyện kim của Henry Cort, Henry Bessemer về
lò luyện gang, công nghệ luyện sắt là những bước tiến lớn đáp ứng cho nhu cầu chế tạo máy
móc. Trong ngành giao thông vận tải, sự ra đời và phát triển của tàu hỏa, tàu thủy… đã tạo
điều kiện cho giao thông vận tải phát triển mạnh mẽ.
Cách mạng công nghiệp lần thứ hai diễn ra vào nửa cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX.
Nội dung của cách mạng công nghiệp lần thứ hai được thể hiện ở việc sử dụng năng
lượng điện và động cơ điện, để tạo ra các dây chuyền có tính chuyên môn hóa cao, chuyển
nền sản xuất cơ khí sang nền sản xuất điện – cơ khí và sang giai đoạn hóa cục bộ trong sản
xuất.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai là sự tiếp nối cuộc cách mạng công nghiệp lần
thứ nhất, với những phát minh về công nghệ và sản phẩm mới được ra đời và phổ biến như
điện, xăng dầu, động cơ đốt trong. Kỹ thuật phun khí nóng, công nghệ luyện thép Bessemer
trong sản xuất sắt thép đã làm tăng nhanh sản lượng, giảm chi phí và giá thành sản xuất.
Ngành sản xuất giấy phát triển kéo theo sự phát triển của ngành in ấn và phát hành sách báo.
Ngành chế tạo ô tô, điện thoại, sản phẩm cao su cũng được phát triển nhanh. Sự ra đời của
những phương pháp quản lý sản xuất tiên tiến của H.Ford và Taylor như sản xuất theo dây
6
chuyền, phân công lao động chuyên môn hóa được ứng dụng rộng rãi trong các doanh
nghiệp đã thúc đẩy nâng cao năng suất lao động. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai
cũng đã tạo ra những tiến bộ vượt bậc trong giao thông vận tải và thông tin liên lạc.
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ ba đã bắt đầu từ khoảng những năm đầu thập
niên 60 thế kỷ XX đến cuối thế kỷ XX.
Đặc trưng cơ bản của cuộc cách mạng này là sử dụng công nghệ thông tin, tự động hóa
sản xuất. Các mạng công nghiệp lần thứ ba diễn ra khi có các tiến bộ về hạ tầng điện tử, máy
tính và số hóa vì nó được xúc tác bởi sự phát triển của chất bán dẫn, siêu máy tính (thập niên
1960), máy tính cá nhân (thập niên 1970 và 1980) và Internet (thập niên 1990). Cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ ba đã đưa tới những tiến bộ kỹ thuật công nghệ nổi bật trong giai
đoạn này là: hệ thống mạng, máy tính cá nhân, thiết bị điện tử sử dụng công nghệ số và robot
công nghiệp.
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0) được nhắc đến lần đầu tiên tại Hội trợ triển lãm
công nghệ Hannover (Đức) năm 2011 và được Chính phủ Đức đưa vào “Kế hoạch hành động
chiến lược công nghệ cao” năm 2012.
Gần đây tại Việt Nam cũng như trên nhiều diễn đàn kinh tế thế giới, việc sử dụng thuật
ngữ cách mạng công nghiệp lần thứ tư với hàm ý có một sự thay đổi về chất trong lực lượng
sản xuất trong nền kinh tế thế giới. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư được hình thành trên
cơ sở cuộc cách mạng số, gắn với sự phát triển và phổ biến của Internet vạn vật (Internet of
Things – IoT). Cách mạng công nghiệp lần thứ tư có biểu hiện đặc trưng là sự xuất hiện của
các công nghệ mới có tính đột phá về chất như trí tuệ nhân tạo, big data, in 3D…
Như vậy, mỗi cuộc cách mạng công nghiệp xuất hiện có những nội dung cốt lõi về tư liệu
liệu lao động. Sự phát triển của tư liệu lao động đã thúc đẩy sự phát triển của văn minh nhân
loại. Theo nghĩa đó, vai trò của cách mạng công nghiệp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng tron
thúc đẩy phát triển.
I.1.2. Vai trò của cách mạng công nghiệp đối với phát triển
Vai trò của cuộc cách mạng công nghiệp có những ý chính như sau:
Một là, thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất
Các cuộc cách mạng công nghiệp có tác động vô cùng to lớn đến sự phát triển lực lượng
sản xuất của các cuốc gia. Đồng thời, tác động mạnh mẽ tới quá trình điều chỉnh cấu trúc và
vai trò của các nhân tố trong lực lượng sản xuất xã hội. Về tư liệu lao động, từ chỗ máy móc
ra đời thay thế cho lao động chân tay cho đến sự ra đời của máy tính điện tử, chuyển nền sản
xuất sang giai đoạn tự động hóa, tài sản cố định thường xuyên được đổi mới, quá trình tập
trung hóa sản xuất được đẩy nhanh.
Cách mạng công nghiệp có vai trò to lớn trong phát triển nguồn nhân lực, nó vừa đặt ra
những đòi hỏi về chất lượng nguồn nhân lực ngày càng cao nhưng mặt khác lại tạo điều kiện
để phát triển nguồn nhân lực. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất đã thúc đẩy tăng
7
trưởng kinh tế, nâng cao năng suất lao động, gia tăng của cải vật chất, dẫn đến những thay
đổi to lớn về kinh tế xã hội, văn hóa và kỹ thuật. C. Mác và Ph. Anghen đã nhận xét rằng:
“Giai cấp tư sản trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực
lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp
lại”. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất đã hình thành hai giai cấp cơ bản trong xã hội
là tư sản và vô sản. C. Mác và Ph. Anghen chỉ rõ: “bản thân giai cấp tư sản hiện đại cũng là
sản phẩm của một quá trình phát triển lâu dài, của một loạt các cuộc cách mạng trong
phương thức sản xuất và trao đổi”. Với việc máy móc thay thế lao động thủ công đã làm gia
tăng thất nghiệp, công nhân phải lao động với cường độ cao, mức độ bóc lột tăng lên làm cho
mâu thuẫn đổi kháng giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ngày càng gay gắt. Đây là nguyên
nhân làm bùng nổ những cuộc đấu tranh mạnh mẽ của giai cấp công nhân Anh vào cuối thế
kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, sau đó lan rộng sang các nước khác như Pháp, Đức.
Về đối tượng lao động, cách mạng công nghiệp đã đưa sản xuất của con người vượt quá
những giới hạn về tài nguyên thiên nhiên cũng như sự phụ thuộc của sản xuất vào các nguồn
năng lượng truyền thống. Các yếu tố đầu vào của sản xuất sẽ thay đổi căn bản. Những đột
phá của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ làm mất đi những lợi thế sản xuất truyền thống,
đặc biệt là từ những nước đang phát triển như nhân công rẻ, dồi dào hay sở hữu nhiều tài
nguyên. Về xu hướng tất yếu mang tính quy luật này, C. Mác đã dự báo cách đây gần 200
năm: “Theo đà phát triển của đại công nghiệp, việc tạo ra của cải sẽ trở nên ít phụ thuộc vào
thời gian lao động và số lượng lao động đã chi phí mà phụ thuộc vào việc ứng dụng khoa học
ấy vào sản xuất” và “Thiên nhiên không chế tạo ra máy móc. Tất cả những cái đó đều là sản
phẩm của lao động của con người, đều là sức mạnh đã vật hóa của tri thức. Sự phát triển của
tư bản cố định là chỉ số cho thấy tri thức xã hội phổ biến, đã chuyển hóa đến mức độ nào
thành lực lượng sản xuất trực tiếp, do đó nó cũng là chỉ số cho thấy những điều kiện của
chính quá trình sống của xã hội đã phục tùng đến mức độ nào sự kiểm soát của trí tuệ phổ
biến”.
Thành tựu của các cuộc cách mạng công nghiệp tạo điều kiện để các nước phát triển tiếp
tục đi xa hơn trong phát triển khoa học công nghệ và ứng dụng các thành tựu khoa học công
nghệ tiên tiến vào sản xuất và đời sống. Đồng thời, tạo cơ hội cho các nước đang và kém phát
triển tiếp cận với những thành tựu mới của khoa học công nghệ, tận dụng lợi thế của những
nước đi sau; thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa để bứt phá, rút ngắn khoảng cách về
trình độ phát triển với các nước đi trước.
Hai là, thúc đẩy hoàn thiện quan hệ sản xuất
Các cuộc cách mạng công nghiệp tạo sự phát triển nhảy vọt về chất trong lực lượng sản
xuất và sự phát triển này tất yếu dẫn đến quá trình điều chỉnh, phát triển và hoàn thiện quan
hệ sản xuất xã hội và quản trị phát triển.
Trước hết là sự biến đổi về sở hữu tư liệu sản xuất. Ngay từ cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ nhất, nền sản xuất lớn ra đời thay thế dần cho các sản xuất nhỏ, khép kín, phân tán.
Quá trình tích tụ và tập trung tư bản dưới tác động của quy luật giá trị thặng dư và cạnh
8
tranh gay gắt đã đẻ ra những xí nghiệp có quy mô lớn. Dưới tác động của cách mạng khoa
học công nghệ, sở hữu tư nhân không còn đủ khả năng đáp ứng nhu cầu của sản xuất và yêu
cầu cải tiến kỹ thuật. Tư bản buộc phải liên kết lại dưới hình thức công ty cổ phần và sự phát
triển của các loại hình công ty này cho phép mở rộng chủ thể sở hữu tư bản ra các thành
phần khác của xã hội. Thực tế trên buộc các nước phải điều chỉnh chế độ sở hữu, thực hiện
đa dạnh hóa sở hữu, lấy sở hữu tư nhân làm nòng cốt đồng thời phát huy sức mạnh và ưu
thế tối đa của sở hữu nhà nước và khu vực kinh tế nhà nước. Cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ hai đã nâng cao hơn nữa năng suất lao động, tiếp tục thúc đẩy lực lượng sản xuất
phát triển, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế mạnh mẽ, từ nông nghiệp sang công nghiệp –
dịch vụ, thương mại, đồng thời dẫn đến quá trình đô thị hóa, chuyển dịch dân cư từ nông
thôn sang thành thị. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ hai đã đẩy nhanh quá trình xã hội
sản xuất, thúc đẩy chủ nghĩa tư bản chuyển biến từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn
độc quyền, làm gia tăng mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn này. Đó là tiền đề
cho Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, thiết lập nhà nước công – nông đầu tiên trên
thế giới, đồng thời hình thành hệ thống xã hội chủ nghĩa sau chiến tranh thế giới thứ 2. Cách
mạng Tháng Mười Nga và sự ra đời của hệ thống xã hội chủ nghĩa đã có ảnh hưởng to lớn
đến tiền trình phát triển của xã hội loài người trên phạm vi toàn thế giới.
I.2. Công nghiệp hóa và các mô hình công nghiệp
hóa
I.2.1. Công nghiệp hóa
Công nghiệp hóa là quá trình chuyển đổi nền sản xuất xã hội từ dựa trên lao động thủ
công là chính sang nền sản xuất xã hội dựa chủ yếu trên lao động bằng máy móc nhằm tạo ra
năng suất lao động xã hội cao.
I.2.2. Các mô hình công nghiệp hóa tiêu biểu
Mô hình công nghiệp hóa cổ điển
Công nghiệp hóa của các nước tư bản cổ điển, mà tiêu biểu là nước Anh được thực hiện
gắn liền với cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, nổ ra vào giữa thế kỷ XVIII. Công
nghiệp hóa ở nước Anh được bắt đầu từ ngành công nghiệp nhẹ, mà trực tiếp là ngành công
nghiệp dệt là ngành đòi hỏi vốn ít, thu lợi nhuận nhanh. Sự phát triển của ngành công nghiệp
dệt đã kéo theo sự phát triển của ngành trồng bông và chăn nuôi cừu, để đáp ứng nguyên
liệu cho ngành công nghiệp dệt. Ngành công nghiệp nhẹ và nông nghiệp phát triển, đòi hỏi
phải cung cấp nhiều máy móc, thiết bị cho sản xuất từ đó đã tạo tiền đề cho sự phát triển của
ngành công nghiệp nặng, mà trực tiếp là ngành cơ khí chế tạo máy.
Nguồn vốn để công nghiệp hóa ở các nước tư bản cổ điển chủ yếu do bóc lột lao động
làm thuê, làm phá sản những người sản xuất nhỏ trong nông nghiệp, đồng thời gắn liền với
việc xâm chiếm và cướp bóc thuộc địa. Quá trình này đã dẫn đến mâu thuẫn gay gắt giữa tư
bản và lao động, làm bùng nổ những cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại nhà tư
bản ở các nước tư bản lúc bấy giờ, tạo tiền đề cho sự ra đời của chủ nghĩa Mác – vũ khí lý
9
luận của giai cấp công nhân chống lại CNTB. Quá trình công nghiệp hóa ở các nước tư bản cổ
điển cũng dẫn đến mâu thuẫn giữa các nước tư bản với nhau, đưa đến 2 cuộc chiến tranh thế
giới thứ nhất và thứ hai đòi phân chia lại thuộc địa giữa các nước tư bản. Ngoài ra, mâu
thuẫn giữa các nước tư bản với các nước thuộc địa, trong quá trình xâm chiếm và cướp bóc
thuộc địa đã dẫn đến phong trào đấu tranh giành độc lập của các nước thuộc địa, thoát khỏi
sự thống trị và áp bức của các nước tư bản.
Quá trình công nghiệp hóa của các nước tư bản cổ điển diễn ra trong một thời gia tương
đối dài, từ 60 – 80 năm.
Mô hình công nghiệp hóa kiểu Liên Xô cũ
Mô hình này bắt đầu từ những năm 1930 ở Liên Xô sau đó được áp dụng cho các nước
XHCN ở Đông Âu sau năm 1945 và một số nước đang phát triển đi theo con đường XHCN,
trong đó có Việt Nam vào những năm 1960. Con đường công nghiệp hóa này thường ưu tiên
phát triển công nghiệp nặng. Để thực hiện được mục tiêu này đòi hỏi nhà nước phải huy
động những nguồn lực to lớn trong xã hội, từ đó phân bổ, đầu tư cho ngành công nghiệp
nặng, mà trực tiếp là ngành cơ khí, chế tạo máy, thông qua cơ chế kế hoạch hóa tập trung,
mệnh lệnh. Công nghiệp hóa với mục tiêu và cơ chế nêu trên, đã cho phép trong một thời
gian ngắn các nước theo mô hình Liên Xô cũ đã xây dựng được hệ thống cơ sở vật chất – kỹ
thuật to lớn, hoàn thành được mục tiêu đề ra.
Trong số các nhà kinh điển, lịch sử đã trao cho V.I. Lê-nin một sứ mệnh đặc biệt, trực tiếp
lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga. Mặc dù chủ nghĩa tư bản đã phát
triển ở Nga và nước Nga Sa hoàng có trình độ phát triển công nghiệp đứng thứ năm châu Âu,
song chính quyền Xô-viết do V.I. Lê-nin lãnh đạo đã phải đứng trước thù trong, giặc ngoài, nội
chiến khốc liệt, đẩy nền kinh tế nước Nga trong những năm đầu của chính quyền Xô-viết tới
tình trạng kiệt quệ. Trong bối cảnh đó, V.I. Lê-nin rất nhiều lần nhấn mạnh tới việc phải phát
triển đại công nghiệp bằng mọi cách, lấy công nghiệp nặng làm nền tảng vật chất - kỹ thuật
cho chủ nghĩa xã hội. Đây thực chất là cuộc cách mạng công nghiệp, xây dựng cơ cấu tái sản
xuất mà bộ phận nòng cốt là cơ khí và điện khí. Kế hoạch điện khí hóa nước Nga đã ra đời
trong hoàn cảnh như vậy. Dưới sự lãnh đạo của V.I. Lê-nin, những nguồn tài chính, vật chất,
trí tuệ trong điều kiện còn khó khăn đã được ưu tiên để xây dựng các nhà máy điện và cơ khí
với khẩu hiệu: “Chủ nghĩa xã hội là chính quyền Xô-viết cộng với điện khí hóa toàn quốc”.
Trong những năm nội chiến (1918 - 1921), nước Nga Xô-viết bắt buộc phải thực hiện
chính sách “cộng sản thời chiến”, mà mục tiêu trước hết là giữ vững chính quyền Xô-viết non
trẻ. Sau khi nội chiến kết thúc vào năm 1921, đứng trước một thực tế so với năm 1913, sản
lượng đại công nghiệp giảm bảy lần, vận tải đường sắt giảm bốn lần, sản lượng nông nghiệp
giảm hai lần, diện tích gieo trồng giảm 25 triệu héc-ta, số đầu súc vật giảm 30%, V.I. Lê-nin
đã đề xướng và lãnh đạo thực hiện “chính sách kinh tế mới” (NEP), một quyết sách nhằm cứu
vãn tình hình kinh tế Nga.
10
NEP đã chuyển hướng sự chú trọng vào những ngành làm cơ sở cho công nghiệp, thay vì
tập trung sức phát triển công nghiệp nặng, trước hết là phát triển kinh tế nông nghiệp, nông
thôn. V.I. Lê-nin cho rằng, phải khôi phục và phát triển kinh tế nông nghiệp, thay đổi quan hệ
nhà nước với nông dân. Chính sách cộng sản thời chiến xóa bỏ kinh tế tư nhân và thủ tiêu
kinh tế hàng hóa ở nông thôn đã triệt tiêu động lực phát triển của nền kinh tế, vi phạm quan
hệ chính trị giữa giai cấp công nhân với nông dân. V.I. Lê-nin cho rằng, nền tảng vững chắc
của chuyên chính vô sản chính là liên minh công - nông. Nếu để mất nông dân, công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội sẽ gặp khó khăn, thậm chí thất bại. Vì vậy, khôi phục kinh tế nông
thôn, tôn trọng lợi ích kinh tế của nông dân là cơ sở kinh tế của khối liên minh công - nông, là
tạo ra nền tảng xã hội, chính trị cho chuyên chính vô sản.
Trong chính sách kinh tế mới, việc phát triển kinh tế hàng hóa, chấn hưng nông nghiệp,
chính sách tô nhượng và chủ nghĩa tư bản nhà nước là những giải pháp để phát triển kinh tế
ở những giai đoạn đầu, nhằm đưa nền kinh tế tới đại công nghiệp, v.v. Đây là một trong
những cơ sở để công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn mà Đảng ta đã xác
định.
Tuy nhiên, khi tiến bộ khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, hệ thống cơ sở vật chất –
kỹ thuật to lớn ở trình độ cơ khí hóa, đã không thích ứng được, làm kìm hãm việc ứng dụng
những tiến bộ kỹ thuật mới, đồng thời với cơ chế kế hoạch hóa tập trung mệnh lệnh được
duy trì quá lâu đã dẫn đến sự trì trệ, đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự khủng
hoảng và sụp đổ của Liên Xô và hệ thống XHCN ở Đông Âu.
Mô hình công nghiệp hóa của Nhật Bản và các nước công nghiệp mới (NICs)
Rút kinh nghiệm từ quá trình công nghiệp hóa của các nước tư bản cổ điển và các nước
XHCN cũ, Nhật Bản và các nước nước công nghiệp hóa mới (NICs) như Hàn Quốc, Singapore
đã tiến hành công nghiệp hóa theo con đường mới. Chiến lược công nghiệp hóa của các nước
này, thực chất là chiến lược công nghiệp hóa rút ngắn, đẩy mạnh xuất khẩu, phát triển sản
xuất trong nước thay thế hàng nhập khẩu, thông qua việc tận dụng lợi thế về khoa học, công
nghệ của các nước đi trước, cùng với việc phát huy nguồn lực và lợi thế trong nước, thu hút
nguồn lực từ bên ngoài để tiến hành công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa. Kết quả là trong
một khoảng thời gian ngắn, trung bình 20 – 30 năm đã thực hiện thành công quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từ thực tiễn Nhất Bản và các nước công nghiệp hóa mới cho thấy,
trong thời đại ngày nay các nước đi sau nếu biết khai thác tốt lợi thế trong nước và tận dụng,
tiếp thu những nguồn lực, đặc biệt là những thành tựu khoa học, công nghệ mới, hiện đại
của các nước tiên tiến, thì sẽ giúp cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa được thực
hiện nhanh chóng, hiệu quả. Việc tiếp thu và phát triển khoa học, công nghệ mới của các
nước kém phát triển có thể thực hiện bằng các con đường cơ bản như:
-
Một là, thông qua đầu tư nghiên cứu, chế tạo và hoàn thiện dần dần trình độ công nghệ từ
trình độ thấp đến trình độ cao, con đường này thường diễn ra trong thời gian dài, và tổn thất
nhiều trong quá trình thử nghiệm.
11
-
Hai là, tiếp nhận chuyển giao công nghệ hiện đại từ nước phát triển hơn, con đường này đòi
hỏi phải có nhiều vốn và ngoại tệ, chịu sự phụ thuộc vào nước khác.
Ba là, xây dựng chiến lược phát triển khoa học, công nghệ nhiều tầng, kết hợp cả công nghệ
truyền thống và công nghệ hiện đại. Kết hợp vừa nghiên cứu vừa chế tạo vừa tiếp nhận
chuyển giao công nghệ từ các nước phát triển hơn, con đường vừa cơ bản, lâu dài, vững chắc
vừa đảm bảo đi tắt và bám đuổi theo các nước phát triển hơn.
Nhật Bản và các nước công nghiệp hóa mới (NICs), đã sử dụng con đường thứ ba để tiến
hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, kết hợp với những chính sách phát triển đúng đắn và
hiệu quả, từ đó đã thực hiện thành công quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong
khoảng thời gian ngắn và đã gia nhập vào nhóm các nước công nghiệp phát triển. Con đường
công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Nhật Bản và các nước công nghiệp hóa mới (NICs) là gợi ý
tốt cho Việt Nam trong quá trình tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc
dân.
II. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
Việt Nam
II.1. Lịch sử quá trình công nghiệp hóa ở Việt Nam
Thời kỳ Pháp thuộc
Quá trình công nghiệp hóa tại Việt Nam bắt đầu từ thời Pháp thuộc. Quá trình này tiến
triển chậm. Nền công nghiệp Việt Nam nhỏ bé và không hoàn chỉnh với các cơ sở sản xuất lớn
là của tư bản Pháp còn công nghiệp bản địa chỉ gồm những doanh nghiệp nhỏ hoạt động
trong lãnh vực sản xuất hàng tiêu dùng và các hộ gia đình sản xuất tiểu thủ công nghiệp.
Người Pháp xây dựng một số cơ sở công nghiệp khai khoáng, cơ khí, công nghiệp chế biến
nông lâm sản, công nghiệp nhẹ nhưng vẫn chưa hình thành nền tảng công nghiệp hoàn chỉnh
tại Việt Nam, trong khi Nhật Bản đã xây dựng khá nhiều cơ sở công nghiệp tại các thuộc địa
của họ như Triều Tiên, Mãn Châu. Công nghiệp thời Pháp thuộc đã cung cấp một số sản
phẩm và kỹ thuật mới như: điện, xi măng, diêm, bia, xà phòng, thuốc lá, thuỷ tinh, ô tô, xe
đạp, tàu điện, tàu hoả, các sản phẩm cơ khí... Một số sản phẩm quen thuộc được sản xuất
theo quy trình mới như nước máy, giấy, vải, thuốc lá... Nền kinh tế xuất hiện một số kỹ thuật
có thể coi là hiện đại vào thời kỳ đó tạo ra một năng suất mới trong sản xuất và đời sống như
kỹ thuật khai thác hầm mỏ, kỹ thuật chế biến lâm sản, tốc độ và chất lượng của giao thông
liên lạc, kỹ thuật và chất lượng xây dựng... Công nghiệp đã góp phần mở rộng thị trường
trong nước và thị trường nước ngoài, một bộ phận dân cư trong nước, nhất là dân thành thị
làm quen với những sản phẩm hiện đại phương Tây như điện, xà phòng, nước máy, thuốc lá,
xi măng… Một số ngành sản xuất cổ truyền như lúa gạo, cà phê, chè, gỗ... có khả năng mở
rộng sản xuất, để bước đầu vươn ra thị trường quốc tế. Công nghiệp còn tạo ra một đội ngũ
công nhân và kỹ thuật viên Việt Nam tiếp thu kỹ thuật phương Tây.
12
Công nghiệp thời Pháp thuộc sử dụng nhân công giá rẻ nên có tỷ suất lợi nhuận cao
nhưng sản lượng rất thấp. Công nghiệp mang tính chất thâm dụng lao động do nó chú trọng
khai thác lao động giá rẻ của dân bản xứ hơn thâm dụng tư bản để nâng cao năng suất và sản
lượng. Cho đến 1931, trong tổng giá trị sản phẩm quốc nội của Đông Dương là 750 triệu đồng
Đông Dương, công nghiệp chỉ chiếm có 105 triệu, tức chỉ đạt 14%. Trong thập kỷ 1930, công
nghiệp đã có một bước tiến xa hơn: tăng gấp đôi so với những gì Pháp đã làm ở đây trong
vòng 70 năm (1860-1930). Đến năm 1938, trong tổng sản phẩm quốc nội của Đông Dương là
1014 triệu đồng Đông Dương, công nghiệp chiếm 233,08 triệu, tức 22%. Chỉ có một tỷ lệ nhỏ
dân cư Việt Nam được hưởng những thành tựu của sự phát triển công nghiệp. Điện, nước
máy, xà phòng, đường sắt, đường nhựa và điện tín vẫn còn xa lạ với nông thôn, người nghèo.
Tính tới năm 1940, lượng điện tiêu thụ trên đầu người tại Việt Nam chỉ bằng 1/107, lượng sắt
thép sử dụng bằng 1/10 so với nước Pháp.
Nền kinh tế Việt Nam vẫn chủ yếu dựa vào nông nghiệp với phương thức sản xuất không
thay đổi trong hàng ngàn năm. Quan hệ sản xuất tại nông thôn vẫn là quan hệ địa chủ – tá
điền như thời Trung cổ, còn tại thành thị, chủ nghĩa tư bản chỉ mới manh nha xuất hiện.
Người Việt có mức sống rất thấp, nghèo đói phổ biến trên toàn đất nước, đặc biệt ở miền
Bắc và miền Trung. Ở nông thôn tồn tại mâu thuẫn giữa địa chủ và tá điền còn ở thành thị có
sự tương phản giữa tầng lớp tư sản, quan chức cao cấp và thị dân lớp dưới. Người Pháp xây
dựng một số cơ sở hạ tầng cơ bản tại An Nam. Hệ thống kinh tế mà Pháp đầu tư tại An Nam
như các đồn điền cao su, mỏ than, các thành phố lớn, đường sắt, cảng biển là để phục vụ cho
công cuộc khai thác thuộc địa của họ chứ không phải để phục vụ lợi ích của dân bản xứ. Dù
người Pháp đã mang những yếu tố hiện đại vào nền kinh tế Việt Nam nhưng nhìn tổng thể
nền kinh tế Việt Nam vẫn đang trong tình trạng tiền tư bản, bán Trung cổ.
Năm 1945, Việt Nam giành được độc lập rồi rơi vào tình trạng hỗn loạn. Toàn bộ nền
kinh tế trong đó có công nghiệp ngưng trệ. Năm 1947, chiến tranh Đông Dương bùng nổ.
Công nghiệp chịu ảnh hưởng nặng nề của chiến tranh. Các ngành công nghiệp khai khoáng,
công nghiệp chế biến, công nghiệp nhẹ đều ngừng phát triển, thậm chí suy thoái. Một số nhà
tư sản dân tộc tản cư ra vùng kháng chiến. Công nghiệp thời kỳ này hoạt động cầm chừng.
Hàng công nghiệp chủ yếu được nhập khẩu.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7 tháng 5 năm 1954 và hiệp định Geneve tháng 7
năm 1954 thì Việt Nam bị chia làm hai vùng tập trung quân sự, sau đó do không có tổng
tuyển cử theo hiệp định nên quốc gia bị chia cắt làm hai miền. Miền Bắc Việt Nam một mặt đi
lên xây dựng chủ nghĩa xã hội và mặt khác trợ giúp Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam
Việt Nam tiến hành cuộc kháng chiến tại miền Nam Việt Nam. Trong khi đó, Miền Nam Việt
Nam thành lập chính phủ riêng với trợ giúp tài chính và quân sự từ Mỹ và quốc tế, tiến hành
xây dựng nền kinh tế theo hướng thị trường ở miền Nam Việt Nam.
Thời kỳ bị Đế quốc Mỹ xâm lược
Tại miền Bắc, việc xây dựng chủ nghĩa xã hội gặp rất nhiều khó khăn và thách thức. Gần
100 năm đô hộ của Pháp đã làm cho nền kinh tế của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc
13
có xuất phát điểm rất thấp. Sự phát triển kinh tế thời chiến gặp nhiều khó khăn do các chiến
dịch ném bom của Mỹ. Hơn nửa triệu người chết, các thành phố, các cơ sở công nghiệp, hệ
thống cơ sở hạ tầng, làng mạc ruộng đồng bị tàn phá nặng nề. Trong khi đó, Đảng Cộng sản
Việt Nam muốn thực hiện cuộc kháng chiến trường kỳ nhằm thống nhất Việt Nam đồng thời
công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa miền Bắc. Miền Bắc thực hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ I
nhằm xây dựng nền tảng công nghiệp cho nền kinh tế, phát triển nông nghiệp đủ sức đáp
ứng nhu cầu của xã hội. Trong thời kỳ này miền Bắc chú trọng phát triển công nghiệp nặng
bằng cách đầu tư vào các ngành điện, cơ khí, luyện kim, hoá chất, vật liệu xây dựng... Các
chiến dịch ném bom của Mỹ làm gián đoạn quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa. Sau Sự kiện Vịnh Bắc Bộ ngày 2/8/1964 Mỹ bắt đầu ném bom miền Bắc Việt Nam.
Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam tháng 3/1965 nhận
định: "trong cuộc chiến tranh cách mạng yêu nước của nhân dân cả nước chống đế quốc Mỹ,
miền Nam vẫn là tiền tuyến lớn, miền Bắc vẫn là hậu phương lớn, những nhiệm vụ của miền
Bắc là vừa xây dựng, vừa trực tiếp chiến đấu, vừa chi viện cho tiền tuyến miền Nam... Hướng
tích cực nhất để làm thất bại âm mưu của địch là tập trung lực lượng của cả nước để đánh
bại hoàn toàn địch ở miền Nam". Ngày 2/3/1965 Mỹ bắt đầu Chiến dịch Sấm Rền ném bom
phá hủy cơ sở hạ tầng, các cơ sở công nghiệp, các lực lượng phòng không của Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa kéo dài cho đến ngày 1/11/1968. Trong suốt thời gian này nền kinh tế miền Bắc
chịu thiệt hại nặng nề, không thể tiếp tục phát triển. Sau khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
chấp nhận đàm phán với Mỹ để kết thúc Chiến tranh Việt Nam, Mỹ chấm dứt ném bom. Nền
kinh tế miền Bắc bước vào giai đoạn phục hồi. Cơ sở hạ tầng được xây dựng lại, các nhà máy
được sửa chữa và tiếp tục hoạt động, sản xuất nông nghiệp cũng được khôi phục.
Tại miền Nam, chính quyền Việt Nam Cộng hòa dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Ngô
Đình Diệm thực hiện các kế hoạch kinh tế 5 năm nhằm phát triển công nghiệp để giảm nhập
khẩu, tăng xuất khẩu, tiết kiệm ngoại tệ. Trọng tâm của chính sách công nghiệp Việt Nam
Cộng hòa là chế tạo những sản phẩm tiêu thụ thông dụng bằng cách phát triển công nghiệp
nhẹ để cung cấp cho thị trường trong nước và công nghiệp chế biến nông sản. Sau khi Ngô
Đình Diệm bị lật đổ, từ năm 1965, đường lối sản xuất thay thế nhập khẩu bị gác lại. Việt Nam
Cộng hòa từ bỏ việc phát triển kinh tế theo kế hoạch để thay thế bằng chính sách kinh tế tự
do, nhà nước can thiệp một cách hạn chế vào nền kinh tế. Một số ngành công nghiệp non trẻ
như dệt, sản xuất đường bỗng dưng không được bảo hộ nữa nên gặp khó khăn. Nhưng một
số ngành khác lại có cơ hội phát triển đa phần là các ngành nhanh có lợi nhuận và dễ thực
hiện. Số lượng các cơ sở sản xuất nhỏ, ít vốn nhưng có tỷ suất lợi nhuận cao hoạt động bằng
cách nhập khẩu nguyên liệu từ nước ngoài về chế biến phát triển mạnh làm nguồn ngoại tệ
của Việt Nam Cộng hòa bị hao hụt và nền kinh tế Việt Nam Cộng hòa hoàn toàn phụ thuộc
vào nguyên liệu nhập khẩu. Muốn nhập khẩu cần có ngoại tệ mà nguồn ngoại tệ chủ yếu là
viện trợ Mỹ vì xuất khẩu của Việt Nam Cộng hòa không đủ bù đắp cho nhập khẩu do đó nền
kinh tế Việt Nam Cộng hòa ngày càng phụ thuộc vào viện trợ. Chính sách tự do hóa nền kinh
tế đã thất bại trong việc xây dựng nền tảng công nghiệp quốc gia khiến nền kinh tế Việt Nam
Cộng hòa ngày càng phụ thuộc vào bên ngoài vì không có một chương trình phát triển công
nghiệp, không tận dụng được nội lực, thương mại phát triển mạnh hơn công nghiệp. Nhìn
14
chung, công nghiệp vẫn tăng trưởng, trừ năm 1968 và sau đó là năm 1972 bị giảm sút do tác
động của chiến tranh.
Sau khi giải phóng đất nước và trước Đổi mới
Sau ngày đất nước thống nhất (1975), Việt Nam tiếp tục thực hiện công nghiệp hóa xã
hội chủ nghĩa để trở thành một nước công nghiệp hóa. Sau 10 năm thực hiện Kế hoạch 5
năm lần thứ II và Kế hoạch 5 năm lần thứ III Việt Nam vẫn chưa xây dựng được nền tảng công
nghiệp quốc gia trong khi nhiều quốc gia khác đã công nghiệp hóa thành công bằng mô hình
kinh tế kế hoạch. Do chưa thừa nhận sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường, nhà nước Việt
Nam xem kế hoạch hóa là đặc trưng quan trọng nhất của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, phân
bổ mọi nguồn lực theo kế hoạch là chủ yếu. Nhà nước xem thị trường là đặc trưng của chủ
nghĩa tư bản dẫn đến không thừa nhận trên thực tế sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành
phần trong thời kỳ quá độ, lấy kinh tế quốc doanh và tập thể là chủ yếu, muốn nhanh chóng
xóa sở hữu tư nhân và kinh tế cá thể, tư nhân. Nền kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ, khủng
hoảng vì Việt Nam sao chép mô hình kinh tế kế hoạch của Liên Xô mà không thật sự hiểu rõ
ưu điểm và nhược điểm của mô hình này, không đủ năng lực quản lý kinh tế để phát huy ưu
điểm và hạn chế nhược điểm. Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ hiểu đơn giản xây dựng chủ nghĩa
xã hội là quốc hữu hóa tư liệu sản xuất, sau đó phát triển kinh tế theo kế hoạch. Chính tư duy
đơn giản đó dẫn họ đến thất bại. Hơn nữa nội lực của Việt Nam quá yếu nên mô hình kinh tế
kế hoạch hóa cũng không thể nào phát huy được tác dụng tập trung nội lực để đầu tư phát
triển.
Giữa thập niên 1980, tình hình kinh tế xã hội tiếp tục khó khăn gay gắt. Cuộc khủng
hoảng kinh tế nảy sinh từ cuối thập niên 1970, do cải tạo tư sản ở miền Nam quá mức, do
chiến tranh biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc kéo dài gần 10 năm, và càng gay gắt hơn
khi Việt Nam bắt đầu chuyển sang cơ chế thị trường bằng chính sách cải cách Giá - lương tiền bao gồm đổi tiền, tăng lương bằng cách in tiền vào năm 1985. Nhiều người gửi tiền tiết
kiệm lâm vào cảnh bi đát do lạm phát phi mã xảy ra sau khi đổi tiền. Có người bán một con
bò lấy tiền gửi tiết kiệm, sau khi đổi tiền chỉ mua được vài con gà. Việc ngăn cấm thị trường
tự do khiến tình trạng khan hiếm lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng trở nên nặng nề.
Thị trường thực phẩm, hàng tiêu dùng bị ngăn cấm trong khi nhà nước chỉ phân phối tem
phiếu thịt giá thấp riêng cho cán bộ, công nhân viên (số lượng thật ra rất ít, khoảng 0,3-0,5
kg/người/tháng) và người dân ở thành phố (mỗi người 0,1 kg/tháng). Điều này khiến tình
trạng khan hiếm hàng tiêu dùng kéo dài triền miên, và vật giá trên thị trường chợ đen tăng
mạnh. Chất lượng sống của nhân dân đi xuống khiến sự bất mãn trong xã hội tăng lên, uy tín
của Đảng Cộng sản Việt Nam sa sút. Gần một triệu người vượt biên ra nước ngoài để tìm
cuộc sống tốt đẹp hơn tạo ra một cuộc khủng hoảng nhân đạo lớn thu hút sự chú ý của dư
luận thế giới lúc đó.
Tại các nước áp dụng mô hình kinh tế kế hoạch thành công nhất như Liên Xô, trong thời
kỳ kinh tế còn tăng trưởng chủ yếu theo chiều rộng dựa vào lao động và vốn thì cơ chế này có
tác dụng nhất định, nó cho phép tập trung tối đa các nguồn lực kinh tế vào các mục tiêu chủ
15
yếu trong từng giai đoạn và điều kiện cụ thể, đặc biệt trong quá trình công nghiệp hóa theo
hướng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng. Nhưng nó lại thủ tiêu cạnh tranh, kìm hãm tiến
bộ khoa học - công nghệ, triệt tiêu động lực kinh tế đối với người lao động, không kích thích
tính năng động, sáng tạo của các đơn vị sản xuất, kinh doanh. Vì vậy Liên Xô trong thời kỳ
tăng trưởng kinh tế mạnh nhất dưới sự lãnh đạo của Stalin đã phải áp dụng kỷ luật lao động
cứng rắn (bao gồm cả hình phạt tù hoặc đày đến các trại lao động cải tạo) đi kèm với các biện
pháp động viên khen thưởng để chống lại tình trạng trì trệ, thiếu trách nhiệm của cán bộ
quản lý đồng thời thúc đẩy tăng năng suất lao động. Khi nền kinh tế thế giới chuyển sang giai
đoạn phát triển theo chiều sâu dựa trên cơ sở áp dụng các thành tựu của cuộc cách mạng
khoa học — công nghệ hiện đại thì cơ chế quản lý này càng bộc lộ những khiếm khuyết của
nó, làm cho kinh tế các nước xã hội chủ nghĩa trước đây; trong đó có Việt Nam, lâm vào tình
trạng trì trệ, khủng hoảng.
Sự sụp đổ của Liên Xô khiến Đảng và Nhà nước phải thực hiện Đổi mới vào năm 1986
chuyển hướng sang kinh tế thị trường và phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều
kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
II.2. Tính tất yếu của công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở Việt Nam
Nghị quyết Trung ương khoá VII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra định nghĩa về
công nghiệp hóa, hiện đại hóa như sau:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động
sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội, từ sử dụng sức lao động thủ công là
chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện, phương
pháp tiên tiến hiện đại; dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công
nghệ, nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam có những đặc điểm chủ yếu sau đây:
-
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế và Việt Nam đang tích cực,
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Lý do khách quan Việt Nam phải thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hó bao gồm:
Một là, lý luận và thực tiễn cho thấy, công nghiệp hóa là quy luật phổ biến của sự phát
triển lực lượng sản xuất xã hội mà mọi quốc gia đều trải qua dù là các quốc gia phát triển hay
các quốc gia đi sau.
Công nghiệp hóa là quá trình tạo ra động lực mãnh mẽ cho nền kinh tế, là đòn bẩy quan
trọng tạo sự phát triển đột biến trong các lĩnh vực hoạt đôạnh của con người. Thông qua
16
công nghiệp hóa các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân được trang bị những tư
liệu sản xuất, kỹ thuật công nghệ ngày càng hiện đại, từ đó nâng cao năng suất lao động, tạo
ra nhiều của cải vật chất, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của con người.
Mỗi phương thức sản xuất có một cơ sở vật chất - kỹ thuật tương ứng. Cơ sở vật chất kỹ thuật của một phương thức sản xuất là hệ thống các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất
xã hội, phù hợp với trình độ kỹ thuật mà lực lượng lao động xã hội xử dụng để tiến hành
quán trình lao động sản xuất. Cơ sở vật chất – kỹ thuật được xem là tiêu chuẩn để đánh giá
mức độ hiện đại của một nền kinh tế, nó cũng là điều kiện quyết định để xã hội có thể đạt
được một năng suất lao động nào đó. Bất kỳ quốc gia nào đi lên chủ nghĩa xã hội đều phải
thực hiện nhiệm vụ hàng đầu là xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH. Cơ sở vật chất –
kỹ thuật của CNXH là nền công nghiệp lớn hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, có trình độ xã hội
hóa cao dựa trên trình độ khoa học và công nghệ hiện đại được hình thành một cách có kế
hoạch và thống trị trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Từ chủ nghĩa tư bản hay từ trước chủ nghĩa tư bản quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng
cơ sở vật chất – kỹ thuật cho CNXH là một tất yếu khách quan, một quy luật kinh tế mang tính
phổ biến và được thực hiện thông qua công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đối với các nước quá độ từ CNTB lên CNXH, dù đã có công nghiệp, có cơ sở vật chất – kỹ
thuật của CNTB tiến bộ đến đâu cũng chỉ là tiền đề vật chất chứ chưa phải cơ sở vật chất – kỹ
thuật của CNXH. Muốn có cơ sở vật chất – kỹ thuật của CNXH, các nước này phải thực hiện
quy luật đề cập bên trên bằng cách tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa về quan hệ sản
xuất; tiếp thu vận dụng và phát triển cao hơn những thành tựu khoa học công nghệ vào sản
xuất; hình thành cơ cấu kinh tế mới xã hội chủ nghĩa có trình độ cao và tổ chức, sắp xếp lại
nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa một cách hợp lý, hiệu quả hơn.
Hai là, đối với các nước có nền kinh tế kém phát triển quá độ lên CNXH như nước ta, xây
dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội phải thực hiện từ đầu thông qua công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mỗi bước tiến của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một
bước tăng cường cơ sở vật chất – kỹ thuật cho CNXH, phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất
và góp phần hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở đó từng bước nâng dần
trình độ văn minh của xã hội.
Thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa có ý nghĩa quyết định thắng lợi của sự nghiệp
xây dựng CNXH ở nước ta. Xây dựng CNXH đòi hỏi phải có một nền kinh tế phát triển cao dựa
trên những tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới, hiện đại. Để thực hiện được điều này, trước hết
đòi hỏi phải xây cơ sở vật chất – kỹ thuật của CNXH thông qua công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
dựa trên những thành tựu khoa học, công nghệ mới, hiện đại tạo ra năng suất lao động cao,
lực lượng sản xuất phát triển với quan hệ sản xuất ngày càng tiến bộ, phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần người
dân, củng cố an ninh, quốc phòng, nâng cao khả năng hợp tác quốc tế thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
17
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa để phát triển lực lượng sản xuất, nhằm khai thác, phát
huy và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước, nâng cao dần tính độc lập, tự
chủ của nền kinh tế. Đông thời, thúc đẩy sự liên kết, hợp tác giữa các ngành, các vùng trong
nước và mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, tham gia vào quá trình phân công lao động và hợp
tác quốc tế ngày càng hiệu quả.
Quá trình thực hiện công nghiệp hóa thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa làm cho
khối liên minh công nhân, nông dân và trí thức ngày càng được tăng cường, củng cố, đồng
thời nâng cao vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân.
Như vậy, có thể nói công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhân tố quyết định sự thắng lợi của
con đường đi lên CNXH mà Đảng và Nhà nước ta xác định là nhiệm vụ trung tâm trong suốt
thời kỳ quá độ lên CNXH.
II.3. Nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
Việt Nam*
Căn cứ trên cơ sở khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở Việt Nam gồm những nội dung như sau:
Một là, tạo lập những điều kiện để có thể thực hiện chuyển đổi từ nền sản xuất – xã
hội lạc hậu sang nền sản xuất xã hội tiến bộ.
Muốn thực hiện chuyển đổi trình độ phát triển, đòi hỏi phải dựa trên những tiền đề
trong nước, quốc tế. Do đó, nội dung quan trọng hàng đầu để thực hiện thành công công
nghiệp hóa, hiện đại hóa là phải thực hiện tạo lập các điều kiện cần thiết trên tất cả các mặt
của đời sống sản xuất xã hội. Tuy vậy không có nghĩa là chờ chuẩn bị đầy đủ mới thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thực tế phải thực hiện các nhiệm vụ một cách đồng thời.
Hai là, thực hiện các nhiệm vụ để chuyển đổi nền sản xuất – xã hội lạc hậu sang nền
sản xuất – xã hội hiện đại. Cụ thể là:
•
Đẩy mạnh ứng dụng những thành tựu khoa học, công nghệ mới hiện đại
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trước hết là quá trình chuyển từ lao động thủ công, kỹ
thuật lạc hâu lên lao động sử dụng kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, hiện đại để nâng cao năng
suất lao động xã hội. Để thực hiện được điều này, đòi hỏi phả từng bước trang bị cơ sở vật
chất, kỹ thuật ngày càng hiện đại cho nên sản xuất, thông qua việc thực hiện cơ khí hóa, điện
khí hóa, tự động hóa.
Đối với những nước còn kèm phát triển, trình độ kỹ thuật công nghệ của sản xuất còn lạc
hậu, thì nhiệm vụ trọng tâm là thực hiện cơ khí hóa nhằm thay thế lao động thủ công bằng
lao động sử dụng máy móc, để nâng cao năng suất lao động. Tuy nhiên, trong những ngành
nghề và lĩnh vực của nền kinh tế khi điều kiện và khả năng cho phép, vẫn có thể ứng dụng
** Phần này có đầy đủ trong giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lênin (bậc đại học – không chuyên lý luận chính
trị)
18
ngay những thành tựu khoa học, công nghệ mới hiện đại để rút ngắn khoảng cách với các
nước phát triển.
Để phát triển lực lượng sản xuất, từng bước xây dựng nền kinh tế có tín độc lập tự chủ
cao, quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi xây dựng và phát triển ngành
công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất, vì đây là ngành có vị trí quan trọng quyết định cho sự
phát triển của các ngành khác. Khi nghiên cứu lý luận về tái sản xuất trong CNTB, Lênin đá rút
ra quy luật: cần phải ưu tiên phát triển sản xuất tư tiệu sản xuất để chế tạo ra tư liệu sản
xuất. Nếu thực hiện được điều này, thì cũng chính là quá trình xây dựng nền kinh tế có tính
độc lập, tự chủ cao.
[…]
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và ứng dụng khoa học, công nghệ mới, hiện đại đòi hỏi
phải được tiến hành đồng bộ, cân đối ở tất cả các ngành, các vùng và các lĩnh vực của nền
kinh tế, thì mới đem lại hiệu quả cao.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay phải gắn liền với phát triển kinh tế tri
thức. Từ những năm 1980 đến nay, lực lượng sản xuất xã hội đang chuyển từ kinh tế tài
nguyên sang kinh tế tri thức, nền văn minh loài người chuyển từ văn minh công nghiệp sang
văn minh trí tuệ.
Theo Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đưa ra năm 1995: Nền kinh tế tri thức
là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất
đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống.
[…]
Qua thực tế phát triển, có thể khái quát những đặc điểm chủ yếu của kinh tế tri thức như
sau:
-
-
-
-
Trong nền kinh tế tri thức, tri thức trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, là vốn quý nhất, là
nguồn lực quan trọng hàng đầu, quyết định sự tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Trong nền kinh tế tri thức, cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động kinh tế có những biến
đổi sâu sắc, nhanh chóng; trong đó các ngành kinh tế dựa vào tri thức, dựa vào các thành tựu
mới nhất của khoa học và công nghệ ngày càng chiếm đa số.
Trong nền kinh tế tri thức, công nghệ thông tin được ứng dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực và
thiết lập được các mạng thông tin đa phương tiện phủ khắp nước, nối với hầu hết các tổ
chức, gia đình. Thông tin trở thành tài nguyên quan trọng nhất của nền kinh tế.
Trong nền kinh tế tri thức, nguồn nhân lực nhanh chóng được tri thức hóa; sự sáng tạo, đổi
mới, học tập trở thành yêu cầu thường xuyên đối với mọi người và phát triển con người trở
thành nhiệm vụ trung tâm của xã hội.
Trong nền kinh tế tri thức, mọi hoạt động đều có liên quan đến vấn đề toàn cầu hóa kinh tế,
có tác động tích cực hoặc tiêu cực sâu rộng tới nhiều mặt của đời sống xã hội trong mỗi quốc
gia và trên toàn thế giới.
19
Những đặc điểm trên đòi hỏi trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta,
nhất thiết phải tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn
những thành tựu công nghệ hiện đại và tri thức mới; công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải gắn
với kinh tế tri thức, phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa
nhiều vào tri thức, kết hợp việc sử dụng nguồn vốn tri thức của con người Việt Nam với tri
thức mới nhất của nhân loại; kết hợp quá trình phát triển tuần tự với đi tắt đón đầu; từng
bước phát triển kinh tế tri thức, để vừa phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững vừa rút
ngắn được khoảng cách với các nước trong khu vực và trên thế giới
•
Chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, hợp lý và hiệu quả
Cơ cấu kinh tế là mối quan hệ tỷ lệ giữa các ngành, các vùng và các thành phần kinh tế.
Cơ cấu kinh tế cũng chính là tổng thể cơ cấu các ngành, cơ cấu các vùng và cơ cấu các thành
phần kinh tế.
Trong hệ thống các cơ cấu kinh tế thì cơ cấu ngành kinh tế (nông nghiệp – công nghiệp –
dịch vụ) giữ vị trí quan trọng nhất, vì nó phản ảnh trình độ phát triển của nền kinh tế và kết
quả của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo
hướng hiện đại, hiệu quả chính là quá trình tăng tỷ trọng của ngành công nghiệp và dịch vụ,
giảm tỷ trọng nông nghiệp trong GDP.
[…]
Cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại và hiệu quả phải đáp ứng được các yêu cầu sau:
-
Khai thác, phân bổ và phát huy hiệu quả các nguồn lực trong nước, thu hút có hiệu quả các
nguồn lực bên ngoài để phát triển kinh tế - xã hội.
Cho phép ứng dụng những thành tựu khoa học, công nghệ mới, hiện đại vào các ngành, các
vùng và các lĩnh vực của nền kinh tế.
Phù hợp xu thế phát triển chung của nền kinh của nền kinh tế và yêu cầu của toàn cầu hóa và
hội nhập quốc tế.
Hệ thống cơ cấu kinh tế tồn tại trong một nền kinh tế quốc dân thống nhất, không tách
rời, vì vậy nó đều chịu sự chi phối và tác động của một thể chế, cơ chế và chính sách chung.
Việc chuyển dịch cơ cấu ngành, vùng và thành phần kinh tế theo hướng hiện đại, hợp lý và
hiệu quả không thể tách rời sự phát triển các lĩnh vực khác của nền kinh tế như công nghệ
thông tin, năng lượng, viễn thông, giao thông vận tải… Đồng thời, phải được đặt trong chiến
lược phát triển tổng thể của nền kinh tế, có tính đến các mối quan hệ trong và ngoài nước;
quan hệ giữa trung ương với địa phương; quan hệ giữa phát triển kinh tế với đảm bảo an
ninh quốc phòng; quan hệ giữa tích lũy với tiêu dùng.
•
Từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất
20
Mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân ở nước ta là nhằm xây
dựng CNXH, vì vậy phải cũng cố và tăng cường địa vị chủ đạo của XHCN, tiến tới xác lập địa vị
thống trị của quan hệ sản xuất XHCN trong toàn bộ nền kinh tế.
Quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm thúc đẩy lực lượng sản xuất
phát triển, dựa trên cơ sở những thành tựu khoa học, công nghệ mới hiện đại, đồng thời phải
coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN mà nền tảng là chế độ công
hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu, thực hiện chế độ phân phối theo lao động và phân
phối qua các quỹ phúc lợi xã hội là chủ yếu.
Quá trình xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật, phát triển lực lượng sản xuất phải đảm bảo
sự phù hợp với quan hệ sản xuất, đồng thời củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN,
đảm bảo sự phù hợp trên cả ba mặt của quan hệ sản xuất là: quan hệ sở hữu về tư liệu sản
xuất, quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối, trao đổi.
II.4. Thực trạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
nước ta hiện nay
Việt Nam đã trở thành nước công nghiệp hiện đại chưa?
Sau thực hiện Đổi mới, Việt Nam đã đạt được những kết quả khả quan. Trong suốt 30
năm qua, kinh tế Việt Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng khá cao. Giai đoạn đầu Đổi mới
(1986-1990), mức tăng trưởng GDP bình quân hàng năm đạt 4,4%/năm, giai đoạn 1991-1995
GDP bình quân tăng 8,2%/năm; giai đoạn 1996-2000 GDP bình quân tăng 7,6%/năm; giai
đoạn 2001-2005 GDP tăng bình quân 7,34%/năm; giai đoạn 2006-2010, do suy giảm kinh tế
thế giới, Việt Nam vẫn đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 6,32%/năm. Giai đoạn 20112015, GDP của Việt Nam tăng chậm lại nhưng vẫn đạt 5,9%/năm, là mức cao của khu vực và
thế giới, thậm chí năm 2020 này, “cú đấm” của dịch bệnh khiến cả nền kinh tế thế giới rung
chuyển dữ dội, Việt Nam vẫn được dự báo là có mức tăng trưởng dương – điều mà cả thế
giới thèm muốn. Quy mô nền kinh tế tăng nhanh, dẫn đến mức sống của người dân cũng
được cải thiện, GDP bình quân đầu người năm 1991 là 188 USD, đến năm 2018 đã là 2750
USD (tăng 15 lần) với quy mô nền kinh tế 260 tỷ USD (so với Thái Lan, năm 1991, GDP của
chúng ta kém họ 10 lần, thì năm 2018 chỉ còn kém 2 lần). Cơ cấu kinh tế Việt Nam đã và đang
chuyển dịch theo hướng hiện đại, giảm khu vực nông nghiệp, tăng công nghiệp và dịch vụ.
Phát triển nhanh là thế, nhưng chúng ta luôn cảm giác được rằng nền công nghiệp của
chúng ta có vấn đề, năm 2007, khi đặt mục tiêu năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại với tỷ trọng nông nghiệp trong GDP chiếm khoảng 16%,
công nghiệp 41% và dịch vụ là 43%. Thực thế, năm 2019 công nghiệp chỉ chiếm 34,49% và
chắc chắn sẽ không thể đạt được mục tiêu đã đề ra.
21
Trong khi đó, dịch vụ lại tăng trưởng khá đúng kế hoạch khi đã chiếm 41,64%/43%, có
thể thấy sau một thập kỷ thực hiện mục tiêu đặt ra, chúng ta đã ”dịch vụ hóa” nền kinh tế
thay vì “công nghiệp hóa, hiện đại hóa”
Vậy nguyên nhân thất bại là do đâu?
Như đã trình bày ở mục II.3, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi phải xây
dựng và phát triển ngành công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất (sản xuất máy cái), vì đây là
ngành có vị trí quan trọng quyết định cho sự phát triển của các ngành khác. Trong khi chúng
ta chỉ tập trung phát triển xây dựng, chỉ thích khai khoáng, chỉ chú trọng vào gia công, còn
lĩnh vực cốt lõi nhất là chế biến chế tạo thì chúng ta không tập trung. Trong 30 năm đổi mới,
tỷ trọng công nghiệp của Việt Nam đã tăng 16%, nhưng lĩnh vức công nghiệp chế biến, chế
tạo chỉ tăng có 1,6%. Trong thời hội nhập kinh tế quốc tế, cách mạng công nghiệp 4.0 mà
trong 30 năm qua mới chỉ tăng 1,6% thì khác gì tụt lại so với các nước trong khu vực và trên
thế giới.
Khi mở cửa thị trường ra thế giới, thuế suất nhập khẩu giảm mạnh, thì gần như ngành
sản xuất nói chung không còn nhiều cơ hội. Khi đó, các công ty nước ngoài sản xuất rẻ hơn,
nhiều hơn thì sẽ chiếm lĩnh thị trường, gây khó khăn gấp bội cho các nhà sản xuất công
nghiệp ở Việt Nam.
Thực tế đó đã khiến động lực công nghiệp hóa của nước ta đến từ các công ty nước
ngoài chứ không phải từ các công ty trong nước. Do đó, Nhà nước rất chú trọng việc thu hút
vốn đầu từ nước ngoài (qua các doanh nghiệp FDI) bằng cách ban hành chính sách về thuế,
đất đai…, xem vốn đầu tư nước ngoài là nguồn lực quan trọng để Việt Nam công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
Tuy nhiên việc thu hút vốn đầu tư của nước ngoài không thể tạo ra nền tảng công nghiệp
quốc gia vì các công ty nước ngoài vào Việt Nam chỉ để tận dụng chi phí nhân công và môi
trường thấp của Việt Nam. Khi khai thác hết những lợi thế này thì họ sẽ rút khỏi Việt Nam
khiến nền công nghiệp nước ta quay về điểm xuất phát.
Điều này đã và đang xảy ra với các nước trong khu vực ASEAN là các nước Malaysia,
Indonesia, Thailand, Philipines. Các nước này cũng đã có lợi thế như Việt Nam như Việt Nam
bây giờ, đó là chi phí nhân công và môi trường thấp, điều này tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp nước ngoài đầu tư công nghiệp vào trong nước. Giúp cho các nước này gia nhập vào
nhóm các nước có thu nhập trung bình. Tuy nhiên khi lao động đã có thu nhập trung bình,
tức là không còn rẻ nữa, các nguồn vốn nước ngoài sẽ lập tức rút khỏi và khiến cho những
nước này công nghiệp hóa thất bại khi không nắm được công nghệ lõi, không có nội lực công
nghiệp, nền kinh tế lúc này sẽ phụ thuộc vào nguồn thu từ dịch vụ, hay “dịch vụ hóa” và kinh
tế tăng trưởng kinh tế chậm và kéo dài ở giai đoạn thu nhập trung bình. Ta gọi một đất nước
như thế đã bị rơi vào bẫy thu nhập trung bình.
Vốn đầu tư nước ngoài chỉ có tác dụng tích cực với nền công nghiệp bản địa khi công ty
có vốn đầu tư nước ngoài chuyển giao công nghệ cho công ty Việt Nam. Tuy nhiên các công ty
22
nước ngoài không sẵn sàng chuyển giao công nghệ cho công ty Việt Nam vì vấn đề bản quyền
cũng như họ không muốn tạo ra thêm đối thủ cạnh tranh. Chính vì vậy nhà nước cần có một
chính sách quốc gia có thể đem lại lợi ích chung cho cả bên chuyển giao và bên nhận chuyển
giao. Việt Nam lại không có chính sách rõ ràng để tận dụng tối đa hiệu ứng chuyển giao công
nghệ của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Khả năng tiếp thu công nghệ nước ngoài lại phụ
thuộc vào chất lượng nhân lực mà điều này lại phụ thuộc vào chất lượng của nền giáo dục.
Việt Nam có lực lượng lao động đông do cơ cấu dân số trẻ nhưng lại thiếu kỹ năng do không
được đào tạo tốt nên khả năng hấp thu công nghệ còn yếu. Trong giai đoạn đầu công nghiệp
hóa cái Việt Nam có thể tiếp thu không phải là "công nghệ cao", mà là những kiến thức không
độc quyền có thể tiếp cận được trên toàn cầu và miễn phí nhưng chưa được triển khai ở
trong nước. Các nước Đông Á đều có chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhưng chưa
bao giờ phụ thuộc vào đầu tư nước ngoài. Đầu tư nước ngoài ở các nước Đông Á tập trung
vào các ngành công nghiệp và có vai trò chủ yếu là chuyển giao công nghệ chứ họ không xem
đầu tư nước ngoài là nguồn lực chính để phát triển kinh tế. Hàn Quốc tiếp thu công nghệ mới
của phương Tây chủ yếu bằng con đường nhập khẩu công nghệ (nhập những phần Hàn Quốc
chưa có chứ không nhập toàn bộ), mua máy móc rồi tháo ra để học vì khả năng hấp thu công
nghệ của họ khá cao chứ không phải nhờ đầu tư nước ngoài.
Ngoài ra, một nền công nghiệp trưởng thành phải có khả năng phát triển công nghệ chứ
không thể cứ phụ thuộc vào công nghệ nước ngoài. Khả năng nghiên cứu phát triển ra công
nghệ mới phụ thuộc vào trình độ khoa học - kỹ thuật của quốc gia mà điều này phụ thuộc vào
chất lượng của nền giáo dục, năng lực của các cơ sở nghiên cứu và mức độ đầu tư cho khoa
học. Trong khi đó chất lượng của nền giáo dục Việt Nam được xem là chưa đáp ứng được nhu
cầu của nền kinh tế, các cơ sở nghiên cứu thiếu năng lực còn đầu tư cho khoa học chỉ ở mức
thấp so với các nước khác. Nhìn chung mức độ chuyển giao công nghệ của khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài chưa đạt như kỳ vọng trong khi đó Việt Nam lại thiếu khả năng nghiên cứu
phát triển ra công nghệ mới, thiếu khả năng sáng tạo.
Chung quy lại, những lý do sau góp phần làm cho công nghiệp hóa ở Việt Nam không
diễn ra theo mong muốn:
-
Nền giáo dục chưa đủ đáp ứng cho nền công nghiệp nói riêng và kinh tế nói chung, cơ sở vật
thiếu hụt khiến cho việc nghiên cứ khoa học gặp khó khăn.
Con đường chuyển giao công nghệ không thuận lợi vì vấn đề chủ quan từ phía doanh nghiệp
nước ngoài và pháp lý từ phía nước ta.
Các doanh tư nhân trong nước quá yếu, bị doanh nghiệp nước ngoài (FDI) lấn át.
Định hướng ban đầu sai lầm, không tập trung nghiên cứu, phát triển công nghiệp cốt lõi ngay
từ đầu, khiến nền kinh tế bị “dịch vụ hóa”.
23
II.5. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh
của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
II.5.1. Nhiệm vụ của quá trình công nghiệp hóa và hiện đại
hóa của nước ta trong bối cảnh cuộc cách mạng 4.0
Trong bối cảnh hiện nay, khi cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 bùng nổ, để giải quyết
được nhiệm vụ công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, ta phải giải quyết được các vấn đề
sau:
Con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta có thể rút ngắn thời gian nếu
chúng ta sẵn sàng và chủ động hơn nữa trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 phát
triển và lan tỏa mạnh mẽ. Phát triển những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để
đạt trình độ tiên tiến, đặc biệt công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và tự động hóa (trí
tuệ nhân tạo), tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức độ cao hơn và phổ biến hơn
những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước tiến hành cuộc cách mạng công
nghiệp 4.0.
Phải nắm bắt thời cơ, khẩn trương chuẩn bị mọi điều kiện để phát triển kinh tế, từng
bước tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Công nghiệp hóa ở nước ta phải thực hiện
đồng thời hai nhiệm vụ cơ bản: chuyển từ kinh tế nông nghiệp truyền thống sang kinh tế
nông nghiệp công nghệ cao và kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức và công nghiệp 4.0.
Hai nhiệm vụ đó phải phát triển đồng thời, lồng ghép vào nhau, hỗ trợ cho nhau, bổ sung cho
nhau. Để làm được nhiệm vụ đó, tri thức và công nghệ mới của thời đại phải được áp dụng
triệt để, các ngành công nghiệp và dịch vụ dựa vào tri thức cũng cần đẩy mạnh phát triển.
Chủ động hội nhập quốc tế kết hợp với năng lực nội sinh của dân tộc. Yếu tố quyết định
đối với năng lực nội sinh là văn hóa, giáo dục, khoa học, cũng tức là sức mạnh tinh thần và trí
tuệ dân tộc. Đặc biệt đổi mới tư duy kinh tế theo kịp sự phát triển của thời đại. Phát triển
kinh tế phải lấy hiệu quả làm đầu, sản xuất những gì có hiệu quả cao nhất do có lợi thế so
sánh để đổi mới và sẵn sàng thay đổi để hội nhập. Phải kết hợp chặt chẽ các yếu tố tài
nguyên, con người với tri thức và công nghệ hiện đại để chọn những ngành, những sản phẩm
có nhiều lợi thế cạnh tranh, đem lại hiệu quả cao nhất. Công nghiệp hóa là sử dụng tri thức
và khoa học công nghệ mới nhất để hiện đại hóa nền kinh tế, chuyển nền kinh tế từ chất
lượng, hiệu quả thấp sang nền kinh tế chất lượng, hiệu quả cao và trên cơ sở tiếp cận với
công nghiệp 4.0. Vì vậy, công nghiệp hóa phải đi liền với hiện đại hóa. Công nghiệp hóa ngày
nay phải là công nghiệp hóa dựa vào tri thức và từng bước thực hiện cuộc cách mạng công
nhiệp 4.0.
Nhanh chóng phát triển hạ tầng công nghệ thông tin, hình thành mạng xa lộ thông tin
quốc gia, ứng dụng công nghệ thông tin và tự động hóa rộng khắp trong tất cả các lĩnh vực,
phát triển công nghệ thông tin, nhất là công nghệ phần mềm và tự động hóa (trí tuệ nhân
tạo) để phát triển tất cả các lĩnh vực, dịch chuyển nhanh cơ cấu kinh tế. Công nghệ thông tin
là chìa khóa để đi vào kinh tế tri thức và công nghiệp 4.0.
24
Tiếp thu những thành tựu khoa học công nghệ mới của thế giới vào nước ta phải chọn
lọc và vận dụng phù hợp với hoàn cảnh của nước nhà, nhằm đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao
nhất. Phải có bước đi thích hợp, đi nhanh nhưng thận trọng, vừa có nhảy vọt vừa có tuần tự,
cân nhắc kỹ nhảy vọt, phát triển tuần tự, tận dụng công nghệ truyền thống một cách tối ưu,
để có thể phát triển chung cả mạng lưới các ngành, hiện đại nhưng phải đồng bộ, hài hòa
nhằm thúc đẩy nhanh quá trình phát triển.
Quá trình thu hút vốn FDI phải đi đôi với quá trình chuyển giao công nghệ và nhanh
chóng nội địa hóa công nghiệp hỗ trợ, đáp ứng đòi hỏi của nhà đầu tư và đồng thời phát
triển công nghệ trong nước. Trường hợp Samsung là một điển hình, doanh nghiệp trong
nước phải tranh thủ đáp ứng những đòi hỏi của Samsung để trở thành nhà cung cấp linh kiện
cấp 1 cho tập đoàn. Chúng ta phải nhanh chóng thay đổi, học hỏi, tiếp thu công nghệ, làm
chủ công nghệ cuối cùng là sáng tạo công nghệ.
Tăng cường hội nhập và hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học và chuyển giao công
nghệ, nội địa hóa các sản phẩm hợp tác nghiên cứu và chuyển giao công nghệ từ các nước
phát triển phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa đất nước. Tranh thủ thu hút lực lượng
khoa học công nghệ việt kiều từ các nước tiên tiến phục vụ công cuộc đổi mới đất nước. Điển
hình như Tập đoàn Vingroup tận dụng công nghệ và thu hút các nhân sự am hiểu công nghệ
của nước ngoài để rút ngắn thời gian tiếp cận công nghệ mới của thế giới trong dự án Vinfast.
Kết hợp tốt việc tăng năng lực nội sinh về khoa học công nghệ với tiếp thu tri thức, công
nghệ của thế giới là hết sức cần thiết. Không đủ năng lực khoa học trong nước thì không thể
tiếp thu làm chủ công nghệ nhập từ ngoài, hơn nữa do điều kiện đặc thù của mỗi nước, có
những công nghệ nhập từ nước ngoài nếu không cải tiến thì sẽ không phù hợp, thậm chí gây
lãng phí.
Các chương trình nghiên cứu khoa học phải tập trung vào những vấn đề cơ bản và có
tính đặc thù của Việt Nam để có thể tiếp thu nhanh và làm chủ các công nghệ nhập. Công
nghệ thông tin cần được áp dụng triệt để trong tất các lĩnh vực. Tăng cường công tác đào tạo
và đào tạo lại cán bộ khoa học kỹ thuật và cán bộ quản lý ngành.
Chuyển giao công nghệ là khâu quan trọng để nâng cao trình độ công nghệ trong nước,
vì vậy việc chuyển giao cần được tổ chức thật tốt, có phương pháp, đảm bảo hiệu quả cao.
Chuyển giao công nghệ phải đạt được mục tiêu là nắm vững công nghệ, làm chủ được công
nghệ, biến thành công nghệ của mình. Tức là phải nắm được nguyên lý công nghệ, phương
pháp, trình tự, qui trình thực hiện công nghệ, cách xử lý các vấn đề phát sinh, các bí quyết
công nghệ. Chuyển giao công nghệ phải được thực hiện nghiêm túc đi đôi với hợp tác đầu tư,
có hợp đồng chuyển giao công nghệ rõ ràng, đầy đủ các quy định của pháp luật về bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ. Không làm tốt việc này thì sẽ hạn chế việc chuyển giao công nghệ. Đó là
những vấn đề cần chú trọng để nâng cao trình độ công nghệ ở nước ta trong quá trình thực
hiện công ngiệp hóa hiện đại hóa và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
25