BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
NGUYỄN THỊ NGỌC TRANG
ĐẶC TRƯNG VĂN XUÔI PHI HƯ CẤU
QUA BA TÁC PHẨM
HỒI ỨC LÍNH (VŨ CÔNG CHIẾN),
BIÊN BẢN CHIẾN TRANH 1-2-3-4.75
(TRẦN MAI HẠNH), KÍ ỨC VỤN
(NGUYỄN QUANG LẬP)
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
NGÀNH VĂN HỌC
Thừa Thiên Huế, 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
NGUYỄN THỊ NGỌC TRANG
ĐẶC TRƯNG VĂN XUÔI PHI HƯ CẤU
QUA BA TÁC PHẨM
HỒI ỨC LÍNH (VŨ CÔNG CHIẾN),
BIÊN BẢN CHIẾN TRANH 1-2-3-4.75
(TRẦN MAI HẠNH), KÍ ỨC VỤN
(NGUYỄN QUANG LẬP)
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN THÀNH
Thừa Thiên Huế, 2019
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU....................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề ................................................................................ 2
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ...................................................... 5
3.1. Đối tượng nghiên cứu .................................................................. 5
3.2. Phạm vi nghiên cứu .................................................................... 5
4. Lý thuyết tiếp cận và phương pháp nghiên cứu.............................. 5
4.1. Lý thuyết tiếp cận ........................................................................ 5
4.2 Phương pháp nghiên cứu .............................................................. 6
5. Đóng góp mới của Luận văn .......................................................... 6
5.1. Về mặt lí luận .............................................................................. 6
5.2. Về mặt thực tiễn .......................................................................... 7
6. Cấu trúc của Luận văn .................................................................... 7
B. NỘI DUNG ................................................................................... 8
CHƯƠNG 1: DIỆN MẠO VĂN XUÔI PHI HƯ CẤU TRONG
VĂN HỌC VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI............................................ 8
1.1. Văn xuôi phi hư cấu – Khái niệm và đặc điểm thể loại ............... 8
1.1.1 Khái niệm .................................................................................. 8
1.1.2 Đặc điểm thể loại ....................................................................... 8
1.2 Khái lược về diện mạo văn xuôi phi hư cấu trong văn học Việt Nam
hiện đại vàđương đại .......................................................................... 9
1.2.1 Khái lược về văn xuôi phi hư cấu trong văn học Việt Nam trước
1975...................................................................................................9
1.2.2 Khái lược về văn xuôi phi hư cấu từ 1975 đến nay ................. 10
CHƯƠNG 2. ĐẶC TRƯNG VĂN XUÔI PHI HƯ CẤU TRONG
HỒI KÍ HỒI ỨC LÍNH (VŨ CÔNG CHIẾN) .............................. 11
2.1. Đặc điểm nội dung phản ánh ..................................................... 11
2.1.1. Hiện thực chiến tranh và chiến trường với các sắc thái thẩm mỹ
.......................................................................................................... 11
2.1.2. Hình tượng người lính với số phận, vẻ đẹp và góc khuất trong
tâm hồn ............................................................................................. 12
2.2.Đặc điểm phương thức thể hiện.................................................. 12
2.2.1.Không gian, thời gian nghệ thuật ............................................ 12
2.2.2. Ngôn ngữ, giọng điệu ............................................................. 13
CHƯƠNG 3: ĐẶC TRƯNG CỦA VĂN XUÔI PHI HƯ CẤU THỂ
HIỆN TRONG TIỂU THUYẾT TƯ LIỆU LỊCH SỬ BIÊN BẢN
CHIẾN TRANH 1-2-3-4.75 (TRẦN MAI HẠNH) ....................... 15
3.1.Đặc điểm nội dung phản ánh ...................................................... 15
3.1.1 Chân dung tướng lĩnh quân đội Việt Nam Cộng hòa ............. 15
3.1.2. Chân dung một số thủ lĩnh chính quyền Việt Nam Cộng hòa 16
3.2.Đặc điểm phương thức thể hiện.................................................. 16
3.2.1. Kết cấu .................................................................................... 16
3.2.1.1 Kết cấu tuyến tính ................................................................. 16
3.2.1.2 Kết cấu liên văn bản ............................................................. 17
3.2.2. Ngôn ngữ ................................................................................ 17
3.2.2.1. Sự hòa trộn các loại ngôn ngữ ............................................. 17
3.2.2.2. Đặc sắc ngôn ngữ miêu tả.................................................... 17
CHƯƠNG 4: ĐẶC TRƯNG VĂN XUÔI PHI HƯ CẤU THỂ
HIỆNTRONG TẠP VĂN KÍ ỨC VỤN (NGUYỄN QUANG LẬP) 19
4.1.Đặc điểm nội dung phản ánh ...................................................... 19
4.1.1. Ghi chép những chuyện đời, chuyện người trong “muôn mặt đời
thường” ............................................................................................. 19
4.1.2.Bộc lộ tâm sự đời tư, suy tư, băn khoăn, trắc ẩn ..................... 20
4.2. Đặc điểm phương thức thể hiện................................................. 20
4.2.1. Ngôn ngữ ................................................................................ 20
4.2.2. Giọng điệu .............................................................................. 21
C. KẾT LUẬN ................................................................................ 23
A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Một nền văn học bao giờ cũng tồn tại và phát triển trong sự song
hành, phối hợp của văn xuôi hư cấu và phi hư cấu. Đặc điểm văn hóa
- xã hội từng giai đoạn ít nhiều tác động đến sự phát triển của văn xuôi
hư cấu hay phi hư cấu. Trong ba thập kỷ gần đây, văn học Việt Nam
chứng kiến sự “đơm hoa kết trái” của văn xuôi phi hư cấu. Có thể kể
đến hàng loạt các tác phẩm được bạn đọc chú ý, quan tâm như: Nhật
kí Nhật kí Đặng Thùy Trâm, Mãi mãi tuổi hai mươi (Nguyễn Văn
Thạc); tự truyện của các nghệ sĩ: Ngẫu hứng (Trần Tiến), Để gió cuốn
đi (Ái Vân); hồi ký, tạp văn, tiểu thuyết tư liệu lịch sử: Được sống và
kể lại (Trần Luân Tín), Lính Hà (Nguyễn Ngọc Tiến), Mùa chinh chiến
ấy (Đoàn Tuấn), Hồi ức lính (Vũ Công Chiến), Biên bản chiến tranh
1-2-3-4.75 (Trần Mai Hạnh), Kí ức vụn (Nguyễn Quang Lập)…
Dù xét ở phương diện người sáng tác hay người tiếp nhận thì
việc viết hay đọc những sáng tác văn xuôi phi hư cấu được coi là nhu
cầu tất yếu, đó là nhu cầu được cân bằng giữa hai yếu tố hư cấu và phi
hư cấu trong tác phẩm văn học. Nhà văn, sau rất nhiều trang viết về
thế giới tưởng tượng, hư cấu hẳn cũng có lúc muốn kể về những câu
chuyện có thật, con người có thật trong cuộc sống quanh mình, trong
kí ức của mình. Điều mong muốn ấy của nhà văn cũng chính là điều
muốn được đón nhận của bạn đọc. Trong bối cảnh thời đại thông tin
và toàn cầu hóa, con người hiện đại luôn mong muốn kiếm tìm sự thật
trên những trang viết. Bản thân sự thật có sức hấp dẫn riêng cả nó. Thể
loại văn xuôi phi hư cấu tất yếu được bạn đọc chào đón. Đó là một
trong những lý do căn bản của việc tái xuất hiện đầy ngoạn mục những
tác phẩm văn xuôi phi hư cấu có giá trị.
Ba tác phẩm Hồi ức lính (Vũ Công Chiến); Biên bản chiến tranh
1-2-3-4.75 (Trần Mai Hạnh), Kí ức vụn (Nguyễn Quang Lập) là những
1
tác phẩm tiêu biểu về thể loại của văn xuôi phi hư cấu đầu thế kỉ XXI
ở Việt Nam. Để thấy rõ hơn đặc trưng của văn xuôi phi hư cấu trong
văn học Việt Nam đương đại thể hiện trong từng thể loại, chúng tôi đã
lựa chọn nghiên cứu ba tác phẩm tiêu biểu trên trong khuôn khổ một
luận văn tốt nghiệp.
2. Lịch sử vấn đề
Hồi ức lính (Vũ Công Chiến); Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75
(Trần Mai Hạnh), Kí ức vụn (Nguyễn Quang Lập) là những tác phẩm
nổi bật trong dòng văn xuôi phi hư cấu. Xoay quanh những tác phẩm
này, đã có một số công trình, bài viết bàn luận, đánh giá.
- Về tác phẩm Hồi ức lính
Trong “Lời giới thiệu” của tác phẩm Hồi ức lính, nhà nghiên
cứu Lưu Khánh Thơ đã viết: “Những câu chuyện và chi tiết tươi ròng
sự sống, được nhìn với cự li sát gần của người trong cuộc có sức lôi
cuốn riêng, nó chinh phục chúng ta bằng sức mạnh của sự chân thực,
bằng những trải nghiệm cá nhân, rất riêng tư nhưng lại gắn liền với cả
một thế hệ thanh niên mà bước chân đầu tiên của họ khi vào đời là
cuộc sống quân ngũ.”.
Nhà văn Phạm Ngọc Tiến chia sẻ: “Nhà văn chúng tôi học được
ở cuốn sách này bài học về sự chân thành và sự thật”. Khi đọc những
trang viết của Vũ Công Chiến, Phạm Ngọc Tiến thấy được trong đó
“đời lính của anh mà cũng là đời lính của tôi” [57]
Bài tổng hợp các ý kiến nhận xét về Hồi ức lính của Dương Tử
Thành - “Hồi ức lính làm sống dậy kỉ niệm của một thế hệ cầm bút”
đã cho chúng ta thấy sự khẳng định giá trị tác phẩm của các nhà văn,
nhà phê bình, nhất là những người từng khoác áo lính hướng đến.
Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên cho rằng Hồi ức lính là một
trong những cuốn sách cần cho quá khứ, cần cho hiện tại và cần cho
tương lai. [57]
2
Nhà văn Bảo Ninh trong một buổi phỏng vấn của báo Tiền
Phong “Câu chuyện chiến tranh với tác giả Hồi ức lính đã khẳng định:
“Muốn tìm hiểu chiến tranh thì đọc của Chiến chứ không phải cuốn
nào khác. Nỗi buồn chiến tranh chỉ nói được một phần. Kể về chiến
tranh, ông thì tô hồng ông thì viết đọc sợ. Nhưng thực chất thế nào?
Chiến đã kể được chuyện người lính sống như thế, chiến đấu như thế,
suy nghĩ như thế một cách chân thực. Ðồng ngũ nhiều người cũng
nói Hồi ức lính đáng đọc nhất trong tất cả sách về chiến tranh, và họ
thấy mình trong đó. Có người vốn là lính quân đội Sài Gòn viết cho tôi
rằng Hồi ức lính là cuốn hay nhất về chiến tranh và đặc biệt cả hai phe
đều đọc được” [67]
Tiếp đến, bài viết “Hồi ức lính - Một cuốn sách hay” đăng tải
trên trang VOV.VN đã nhận xét “Vũ Công Chiến đã chọn lọc rất kỹ
“hồi ức” của mình những ngày chiến đấu ở Nam Lào. Không lên gân,
không “bôi đen”, những cái tốt cái dở đều phô ra. [41]
- Về tác phẩm Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75
Tác phẩm Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 của Trần Mai Hạnh
ngay từ khi mới xuất bản đã có sức hút lớn.
Nhà phê bình Bùi Việt Thắng đã tinh tế khi nhận xét: "Biên bản
chiến tranh 1-2-3-4.75" là một "hiện tượng" vì lần đầu tiên trong văn
học tư liệu có cái nhìn "ngược sáng" về "phía bên kia". [58]
Dịch giả Mạnh Chương chia sẻ: “Trong cuộc đời dịch thuật,
“Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75” là cuốn tiểu thuyết đặc biệt và hấp
dẫn đối với tôi. Dựa trên những sự kiện và những tài liệu nguyên bản
tuyệt mật về cuộc chiến của phía bên kia (phía Việt Nam Cộng hòa và
cả phía Hoa Kỳ) đã kỳ công thu thập được, tác giả đã phục dựng thành
công sự sụp đổ của chính quyền Sài Gòn trong những những ngày
tháng cuối cùng của chiến tranh trong khuôn khổ một cuốn tiểu thuyết
lịch sử vô cùng đặc sắc và hấp dẫn.” [35]
3
Dịch giả Mạnh Chương cũng chia sẻ: cuốn sách không chỉ có ý
nghĩa với những người đã trải qua chiến tranh như tác giả, như dịch
giả mà còn có ý nghĩa lớn với độc giả trẻ: “Khi đọc cuốn sách, độc giả
thấy “sáng lên” về cuộc chiến tranh đã qua…chính cuốn sách này, chỉ
với 4 tháng của cuộc chiến nhưng đã tạo nên bức tranh sinh động và
rất thật rằng vì sao chúng ta thắng và phía bên kia thua” [35]
Ông Phạm Chí Thành, Giám đốc NXB Chính trị Quốc gia và Sự
thật, đơn vị ấn hành cuốn sách nhận xét: “Tác phẩm “Biên bản chiến
tranh 1-2-3-4.75” là tác phẩm duy nhất thuộc thể loại văn xuôi được
trao Giải thưởng Văn học năm 2014. Tác giả đã nhìn sự việc bằng con
mắt khách quan, không thiên kiến, trung thực với lịch sử, cùng với một
khối lượng khổng lồ tư liệu từ chính quyền Sài Gòn và Hoa Kỳ” .[43]
Nhà phê bình Nguyễn Thành trong bài “Đặc điểm tiểu thuyết tư
liệu lịch sử và phương thức trần thuật trong tiểu thuyết Biên bản chiến
tranh 1-2-3-4.75 của Trần Mai Hạnh” (tạp chí Lý luận phê bình văn
học - nghệ thuật, số 10/2018) đã chỉ ra một số đặc điểm thi pháp của
tiểu thuyết tư liệu lịch sử trên cơ sở phân tích tiểu thuyết Biên bản
chiến tranh 1-2-3-4.75 của nhà văn Trần Mai Hạnh.
- Về tác phẩm Ký ức vụn
Tạp văn Kí ức vụn của Nguyễn Quang Lập với những nét độc
đáo riêng đã thu hút sự quan tâm chú ý của các nhà phê bình, đồng
nghiệp, bạn đọc. Trong bài viết “Ghép lại những mảnh vụn ký ức”,
Tiểu Quyên cho rằng: “Kí ức vụn giống như một khoảng đời mênh
mông mà nhà văn đã góp nhặt trong suốt hành trình sống và trăn trở”
và “Kí ức vụn còn là hình ảnh của những con người rất gần, một hành
trình rất thật của cuộc đời tác giả”. [51]
Hà Tùng Sơn trong Kí ức vụn – Món đặc sản mang tên Nguyễn
Quang Lập đã nói: “Điều khiến Kí ức vụn trở nên hấp dẫn bạn đọc là
ở chỗ tính chân thật của tác phẩm…Chính cái chất thật của những bài
4
viết trong Kí ức vụn đã mang đến cho độc giả sự tò mò vô biên về
những câu chuyện” [54]
Nguyễn Thị Minh Thương khi đọc Kí ức vụn cũng khẳng định:
“Kí ức vụn của Nguyễn Quang Lập rất thật, và Nguyễn Quang Lập là
người cầm bút thành thật”. [63]
Các bài viết Ký ức vụn: khối tình lớn, đọc đã đời (Nguyễn Ái
Học), Kí ức vụn và chất cười đã giọng điệu (Nguyễn Anh Thế) đã phát
hiện được cái tâm người viết ẩn sau mỗi câu chuyện. Tác giả Nguyễn
Ái Học nhận ra “Kí ức vụn của Lập được bảo hành bởi khối tình lớn
đại thể”. [40]. Nguyễn Anh Thế cũng khẳng định: “Văn Nguyễn Quang
Lập có tình, đau đáu về tình và vật vã vì tình”.[60]
Các công trình, bài viết trên đây đã nghiên cứu khá chuyên sâu,
tuy nhiên chưa có công trình, bài viết nào đi sâu nghiên cứu đặc trưng
của văn xuôi phi hư cấu trên cơ sở phân tích đồng thời ba tác phẩm
trên.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng khảo sát của đề tài là ba tác phẩm: Hồi ức lính (Vũ
Công Chiến) , Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 (Trần Mai Hạnh), Kí
ức vụn (Nguyễn Quang Lập). Qua ba tác phẩm này, chúng tôi phân
tích đặc trưng của văn xuôi phi hư cấu thể hiện qua từng tác phẩm cụ
thể để từ đó hướng đến cái nhìn tổng thể về văn xuôi phi hư cấu.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi đề tài, luận văn tập trung phân tích đặc trưng
thể loại của mỗi tác phẩm trên nền tảng thi pháp văn xuôi phi hư cấu,
thông qua một số bình diện tiêu biểu thuộc phương thức thể hiện: nhân
vật, kết cấu, ngôn ngữ, giọng điệu.
4. Lý thuyết tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Lý thuyết tiếp cận
5
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng lý thuyết thi pháp
học, cụ thể là thi pháp thể loại.
4.2 Phương pháp nghiên cứu
Để triển khai luận văn, chúng tôi sử dụng kết hợp nhiều phương
pháp và thao tác nghiên cứu sau:
4.1.1. Phương pháp loại hình: Đây là phương pháp vận dụng
những nguyên tắc loại hình học giúp chúng tôi chỉ ra các kiểu, dạng
của thể loại văn học.
4.1.2. Phương pháp cấu trúc - hệ thống: Phương pháp này giúp
xem xét mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành nên cấu trúc theo tư
duy hệ thống, cụ thể là những dấu hiệu lặp lại có tính quy luật của
những yếu tố ấy. Trên cơ sở hệ thống hóa các yếu tố này, tính chỉnh
thể sẽ được bộc lộ rõ nét.
4.1.3. Phương pháp so sánh: Phương pháp này nhằm tập trung
đối sánh những tác phẩm cùng thể loại, với những tác phẩm trước và
cùng thời, qua đó thấy được sự khác biệt trong tư duy/phương thức thể
hiện của mỗi nhà văn, nhằm khẳng định cá tính sáng tạo cũng như vị
trí, vai trò của họ trong quá trình vận động và phát triển của thể loại.
4.1.4. Phương pháp liên ngành: Vận dụng kiến thức của các
ngành khoa học xã hội khác như: sử học, triết học, văn hóa học,... để
góp phần làm sáng tỏ những vấn đề nghiên cứu trong các tác phẩm.
5. Đóng góp mới của Luận văn
5.1. Về mặt lí luận
- Luận văn hướng đến cung cấp cái nhìn tổng thể về đặc trưng
văn xuôi phi hư cấu, trên cơ sở giới thuyết ngắn gọn những quan niệm
đã được các học giả trình bày trong các công trình lý luận và chuyên
luận, đồng thời từ việc phân tích các trường hợp cụ thể (qua ba tác
phẩm tiêu biểu cho văn xuôi phi hư cấu đương đại) chúng tôi bổ sung
và làm sáng tỏ thêm những đặc điểm đặc trưng này.
6
5.2. Về mặt thực tiễn
- Góp phần phác họa diện mạo của văn xuôi phi hư cấu trong
đời sống văn học Việt Nam đương đại. Từ đó có cái nhìn đối sánh với
các tác phẩm giai đoạn trước nhằm tìm ra những đổi mới trong tư duy
về thể loại, nghệ thuật thể hiện cũng như vai trò sáng tạo của nhà văn.
- Từ những kết quả đã đạt được, chúng tôi bước đầu nhận diện,
đánh giá thành công cũng như hạn chế của văn xuôi phi hư cấu trong
văn học Việt Nam đương đại qua ba tác phẩm: Hồi ức lính (Vũ Công
Chiến) và Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 (Trần Mai Hạnh), Kí ức vụn
(Nguyễn Quang Lập).
6. Cấu trúc của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn
được cấu trúc trong bốn chương:
Chương 1: Diện mạo văn xuôi phi hư cấu trong văn học Việt
Nam đương đại.
Chương 2: Đặc trưng văn xuôi phi hư cấu trong hồi ký Hồi ức
lính (Vũ Công Chiến)
Chương 3: Đặc trưng văn xuôi phi hư cấu trong tiểu thuyết tư
liệu lịch sử Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75(Trần Mai Hạnh)
Chương 4: Đặc trưng văn xuôi phi hư cấu trong tạp văn Kí ức
vụn (Nguyễn Quang Lập)
7
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: DIỆN MẠO VĂN XUÔI PHI HƯ CẤU TRONG
VĂN HỌC VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
1.1 . Văn xuôi phi hư cấu – Khái niệm và đặc điểm thể loại
1.1.1 Khái niệm
Thuật ngữ “phi hư cấu” thường được dùng trong văn học, đặc
biệt là văn xuôi. Nội dung trong tác phẩm phi hư cấu là nội dung có
thật, bao gồm những sự kiện, nhân vật được kể lại bởi một người đã
từng chứng kiến, trải nghiệm hoặc bởi một người có đủ tư liệu, bằng
chứng khách quan đảm bảo câu chuyện là hoàn toàn xác thực.
Nội dung “phi hư cấu” được sử dụng ở nhiều lĩnh vực và có
nhiều thể loại. Lịch sử văn học giao thoa với lịch sử báo chí ở thể loại
này.
1.1.2 Đặc điểm thể loại
Trước hết, trong văn bản phi hư cấu, tác giả chính là chủ thể trần
thuật. Người trần thuật là người kể lại câu chuyện mà mình chứng kiến
hoặc trực tiếp tham dự. Thứ hai, văn xuôi phi hư cấu đòi hỏi khắt khe
về tính xác thực của tư liệu.
Một trong những thể loại tiêu biểu của văn xuôi phi hư cấu là
hồi kí. Hồi kí giống với thể loại tự truyện ở hình thức kể chuyện từ
ngôi thứ nhất, người kể chuyện từ thời điểm hiện tại, quay về quá khứ
kể lại câu chuyện do mình trải nghiệm. Sự khác biệt ở chỗ, trong hồi
kí trung tâm trần thuật không phải là câu chuyện cá nhân của anh ta,
mà song song với đó là bức tranh thời đại xã hội, là sự kiện, biến cố,
nhân vật mà anh ta đã từng chứng kiến hoặc có mối quan hệ.
Nhắc đến văn xuôi phi hư cấu thì không thể không nhắc đến tiểu
thuyết tư liệu lịch sử. Trong tiểu thuyết tư liệu lịch sử, tỉ lệ hư cấu rất
thấp.
8
Một thể loại phổ biến nữa của văn xuôi phi hư cấu là tạp văn.
Tạp văn thuộc thể loại kí; là một thể văn ngắn gọn, hàm súc; nội dung
của tạp văn rất phong phú.
Như vậy, văn xuôi phi hư cấu phong phú về thể tài, thể loại. Để
làm nên giá trị, phẩm chất và ưu thế của dòng văn xuôi phi hư cấu nhà
văn cần phải tuân thủ chặt chẽ tính trung thực và chính xác sự vật, sự
việc được nhắc đến.
1.2 Khái lược về diện mạo văn xuôi phi hư cấu trong văn học
Việt Nam hiện đại vàđương đại
1.2.1 Khái lược về văn xuôi phi hư cấu trong văn học Việt
Nam trước 1975
Trong tiến trình văn học, đời sống thể loại luôn có sự vận động
biến đổi.
Từ 1945 đến 1975, hồi ký phong phú hơn nhưng chỉ là thành tựu
bước đầu. Đáng chú ý là sự xuất hiện những tác phẩm hồi ký của các
tướng lĩnh, các nhà hoạt động cách mạng. Trong dòng chảy chung của
nền văn học mang khuynh hướng sử thi (1945-1975), trên nền cảnh
kháng chiến vệ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc; độ lùi
thời gian và yêu cầu chính trị hiện tại đã hội đủ để ra đời hàng loạt hồi
ký của tướng lĩnh, nhà quân sự.
Cũng như thể hồi ký, trước 1975, tạp văn cũng đang trong trạng
thái định hình chứ chưa có những thành tựu nổi bật.
Tùy bút là một thể loại văn xuôi phái sinh từ ký. Từ 1930 – 1945,
diện mạo của tùy bút mới thực sự hoàn chỉnh, vị thế của thể tài mới
được khẳng định. Từ 1945 – 1975, với ưu thế là một thể loại linh hoạt,
tùy bút lại nhanh chóng thích nghi với bối cảnh mới, đáp ứng nhu cầu
lịch sử.
9
Du kí đã được manh nha trong văn học trung đại Việt nhưng
phải đến những thập niên đầu của thế kỉ XX, du kí mới thực sự trở
thành một thể tài với đặc trưng về nội dung và hình thức.
Tóm lại, trước 1975, dòng văn xuôi phi hư cấu tồn tại như những
mạch ngầm nhỏ, khi liên tục, khi đứt quãng; khi phất lên như cao trào,
khi chìm xuống yên ắng. Tất cả đều là quá trình chuẩn bị cho sự trở lại
rực rỡ hơn trong giai đoạn tiếp theo.
1.2.2 Khái lược về văn xuôi phi hư cấu từ 1975 đến nay
Những năm sau chiến tranh là một thời kỳ dài khủng hoảng, xã
hội bất ổn, lòng người bất yên, tiếp theo đó là quá trình đổi mới đất
nước. Tất cả những năm tháng ấy được tái hiện trong những tác phẩm
văn xuôi phi hư cấu sau 1975.
Trước hết phải kể đến những trang hồi kí. Hồi kí trở thành một
thể loại độc lập, có đời sống riêng, diện mạo riêng. Diện mạo hồi ký
sau 1975 khá phong phú với nhiều phong cách.
Về thể loại tạp văn, giai đoạn sau 1975, đặc biệt từ sau năm
1986, đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Mỗi tác giả lại góp một
sắc thái riêng làm nên diện mạo chung của thể loại tạp văn giai đoạn
này.
Thể loại kí cũng tiếp tục có những đóng góp và dấu ấn nổi bật.
Văn xuôi phi hư cấu nở rộ trong bầu không khí hội nhập, mở
cửa.
Tiểu kết
Văn xuôi phi hư cấu mang những đặc trưng riêng khu biệt với
văn xuôi hư cấu trên nhiều phương diện: người trần thuật, thế giới nhân
vật, tính xác thực về tư liệu, tính chân thực trong sự nhìn nhận, đánh
giá của người viết. Dòng văn xuôi phi cấu đã thực sự trải qua những
thăng trầm cùng tiến trình của lịch sử văn học.
10
CHƯƠNG 2. ĐẶC TRƯNG VĂN XUÔI PHI HƯ CẤU
TRONG HỒI KÍ HỒI ỨC LÍNH (VŨ CÔNG CHIẾN)
2.1. Đặc điểm nội dung phản ánh
2.1.1. Hiện thực chiến tranh và chiến trường với các sắc thái
thẩm mỹ
Đọc Hồi ức lính, người đọc sẽ có những cảm nhận chân thật nhất
về hiện thực chiến tranh. Chiến tranh, chiến trường được tái hiện toàn
diện với những góc nhìn khác nhau.Với ưu thế về dung lượng, hồi kí
đã có khả năng bao quát không gian chiến trận với tất cả sự khốc liệt
và ngồn ngộn cảm xúc.
Bằng đôi mắt của chàng trai đôi mươi “xếp bút nghiên” lên
đường ra trận để Tổ quốc “quyết sinh”, Vũ Công Chiến đã tái hiện một
cuộc chiến tranh khốc liệt, hào hùng dưới góc nhìn, cảm hứng sử thi –
cảm hứng chủ đạo trong những tác phẩm viết về chiến tranh trước
1975.
Đọc Hồi ức lính, bạn đọc hình dung rõ hơn về không khí của
những cuộc ra quân hùng hậu một thời. Ngoài ra, Vũ Công Chiến còn
tập trung miêu tả con đường hành quân gian nan với khí thế vui tươi,
rộn rã, tràn ngập tiếng cười. Không khí hồ hổi, căng tràn tinh thần
quyết chiến quyết thắng còn bật lên trong từng trang hồi kí miêu tả
những trận chiến lớn trải dài trên những không gian dài rộng của đất
nước. Hơi thở chiến trường với cảm hứng hào hùng phả ra từ từng
trang hồi kí của tác giả.
Hồi ức lính còn tái hiện chiến tranh và chiến trường qua cái nhìn
đời tư, thế sự. Qua góc nhìn đời tư chiến tranh và hiện thực chiến
trường còn được vẽ lên qua những cảnh sinh hoạt đời thường của người
lính, đời sống nhân dân ở vùng chiến, cảnh sắc thiên nhiên dữ dội và
tươi đẹp…
11
Hiện thực chiến trường còn hiện lên qua những suy nghĩ, nỗi
niềm mang tính văn hóa tâm linh trong mỗi người lính. Khi ranh giới
giữa sự sống và cái chết quá mong manh, họ tất yếu tin vào sức mạnh
của “một thế giới khác.
2.1.2. Hình tượng người lính với số phận, vẻ đẹp và góc
khuất trong tâm hồn
Giữa hiện thực chiến trường khốc liệt, số phận cá nhân, đời sống
thế sự và vẻ đẹp phẩm chất của hầu hết những người lính dường như
cứ thế hiện lên rõ nét, qua từng trang sách, đưa người đọc sống lại
những khoảnh khắc thời chinh chiến.
Người lính trong Hồi ức lính là những chàng trai đại diện cho
một thế hệ mới tràn đầy sức trẻ, trí tuệ và tâm hồn nhạy cảm, căng tràn
nhựa sống. Họ dũng cảm, mưu lược trong mọi tình huống. Đối diện và
vượt lên tất cả, họ vẫn sống đời sống rất lính; giữa chết chóc lại cháy
bừng mãnh liệt, tha thiết tình quê hương, tình đồng chí.
Trong Hồi ức lính, Vũ Công Chiến còn thể hiện ý hướng thay
đổi trong việc tiếp cận và miêu tả về chân dung người lính. Ở họ còn
có những giây phút yếu lòng, những khoảnh khắc của bản năng nguyên
sơ, những tình cảm hồn hậu, nhỏ bé. Bên cạnh các người lính mang vẻ
đẹp hào hoa, trong đoàn quân ấy cũng xuất hiện những con người ích
kỉ, bảo toàn tính mạng bằng mọi giá.
2.2.Đặc điểm phương thức thể hiện
2.2.1.Không gian, thời gian nghệ thuật
Trong Hồi ức lính, không gian hiện thực gắn liền với thời gian
tuyến tính vẫn là cách thức tổ chức kết cấu được Vũ Công Chiến sử
dụng.
Hồi ức lính được kết cấu trong bốn phần, mỗi phần gắn với bước
chân hành quân và cuộc đời quân ngũ của người lính. Không - thời
gian được mở ra theo bước chân hành quân của người lính, đồng thời
12
cũng là hành trình trưởng thành, trải nghiệm của nhân vật tôi và đồng
đội. Mỗi phần, chương không chỉ gắn với thời gian sự kiện, mà còn là
thời gian sinh mệnh của con người.
Không những phục dựng không gian thiên nhiên, không gian
sinh hoạt, Vũ Công Chiến còn khắc họa bối cảnh của các trận đánh ác
liệt, những chiến dịch gian khổ.
Tác phẩm của Vũ Công Chiến không đơn thuần là một bản tốc
ký hay nhật ký chiến trường tường thuật lại mọi diễn biến của chiến
tranh; mà ẩn đằng sau là những sự kiện đã được chiêm nghiệm, suy tư.
Về cơ bản, Hồi ức lính có kết cấu theo kiểu truyền thống bởi lớp
tuyến tính bao trùm. Tuy vậy, ẩn dưới lớp thời gian tuyến tính, tác giả
đã tạo nên những sự thay đổi trong trật tự kể, trong nhịp điệu hay tốc
độ kể và trong tần suất kể. Nhằm chiếm lĩnh hiện thực và khám phá
con người trong nhiều góc độ, nhà văn đã mở ra không gian tâm tưởng
với sự chuyển dịch của các chiều kích thời gian.
Việc tạo dựng lại không - thời gian đa tuyến, nhiều chiều là cách
để nhà văn khám phá bản chất hiện thực chiến tranh và chiều sâu bản
thể của con người.
2.2.2. Ngôn ngữ, giọng điệu
Chất hiện thực, đời thường trong ngôn ngữ tác phẩm được thể
hiện qua ngôn ngữ đối thoại của nhân vật. Nhiều tiết đoạn đối thoại
được các nhà văn xây dựng rất bình dị, thậm chí là thông tục, suồng
sã, đầy “chất lính”.
Không chỉ thể hiện qua đối thoại của nhân vật, chất hiện thực
còn ánh xạ qua ngôn ngữ trần thuật của người kể chuyện. Nhà văn
thông qua lớp diễn ngôn này để thiết kế, phục dựng lại quá khứ, dẫn
dắt người đọc trở về/sống cùng với những thời khắc quan trọng của
dân tộc.
13
Trong Hồi ức lính, Vũ Công Chiến đã khắc họa nên bức tranh
bi tráng về chiến tranh biên giới. Tác giả đã sử dụng nhuần nhuyễn
giọng hào sảng, ngợi ca một thời trong những hồi ức chiến tranh của
mình.
Giọng văn của Vũ Công Chiến mạnh mẽ, đầy sinh lực, khỏe
khoắn nhịp theo từng bước chân của các chàng trai thanh niên năm đó
trong những ngày đầu ra trận với khí thế vui tươi.
Có những lúc giọng điệu hào sảng phải nhường lại cho sự xót
xa, đau đớn khi nhà văn viết về cái chết của đồng đội mình. Bên cạnh
đó, giọng điệu hào sảng, ngợi ca còn được xây dựng trên nền sắc thái
giọng điệu khác. Đó là những giọng điệu hài hước, lãng mạn khi viết
những cuộc sống đời thường của lính nơi chiến trường. Giọng điệu
triết lý, suy nghiệm cũng được Vũ Công Chiến sử dụng trong các hồi
nhớ về kí ức của mình. Ở đó người đọc nhận thấy sự từng trải, trầm
tĩnh, khách quan trong mỗi lời kể, miêu tả hay nhận định của nhà văn
về nhiều vấn đề trong và sau cuộc chiến.
Tiểu kết
Với sự đa dạng trong nghệ thuật ngôn ngữ, giọng điệu, không
gian, thời gian nghệ thuật, nhà văn đã thể hiện chân thực, sinh động và
đầy sức ám gợi về chiến tranh. Nhờ đó, hiện thực chiến tranh được soi
rọi, phân tích, luận giải sâu sắc và chân thực.
14
CHƯƠNG 3: ĐẶC TRƯNG CỦA VĂN XUÔI PHI HƯ CẤU
THỂ HIỆN TRONG TIỂU THUYẾT TƯ LIỆU LỊCH SỬ
BIÊN BẢN CHIẾN TRANH 1-2-3-4.75 (TRẦN MAI HẠNH)
3.1.Đặc điểm nội dung phản ánh
3.1.1 Chân dung tướng lĩnh quân đội Việt Nam Cộng hòa
Trong Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75, tác giả Trần Mai Hạnh
đã tái hiện bức tranh về quân đội Việt Nam Cộng hòa trước 1975 thông
qua chân dung những tướng lĩnh. Tất cả những nhân vật lịch sử ấy đều
được nhà văn miêu tả khách quan, trung thực, không thiên kiến.
Trước hết là chân dung của trung tướng Ngô Quang Trưởng.
Trung tướng Ngô Quang Trưởng là Tư lệnh Quân đoàn 1, Quân khu 1
của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, được xem là một ông tướng cứng
rắn, kỉ luật và khá “sạch sẽ”. Song khi bị đẩy vào hoàn cảnh thử thách
tâm, tài của một vị tướng thì nhân vật này lại lộ rõ bản chất của một vị
tướng “miệng hùm, gan sứa”.
Sau Ngô Quang Trưởng là chân dung trung tướng Nguyễn Văn
Toàn. Nguyễn Văn Toàn là tên “bẩn và đểu giả nhất”, hủ bại, háo sắc
nhất của quân đội Việt Nam Cộng hòa.
Bằng cái nhìn khách quan về phía bên kia, tác giả Trần Mai
Hạnh không chỉ xây dựng chân dung những tướng lĩnh hữu dũng, vô
mưu của quân đội Việt Nam Cộng hòa mà còn có sự nhìn nhận, đánh
giá đúng mực, không thiên kiến đối với những tướng lĩnh nhân văn, tự
trọng trong hàng ngũ quân đội Việt Nam Cộng hòa.
Trước hết là thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam. Ông là một vị
tướng có tấm lòng nhân hậu, sống hết mình vì người khác, luôn đặt
tính mạng người khác hơn cả tính mạng mình. Ông đã chọn cho mình
một cái chết không hèn hạ.
15
Tác giả Trần Mai Hạnh đã rất trung thực và khách quan khi miêu
tả chân dung chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ, Tư lệnh Sư đoàn 5. Lê
Nguyên Vỹ là một trong những vị tướng hiếm hoi có tinh thần tự trọng
cao độ, không bao giờ ỷ lại vào sự trợ giúp từ phía Hoa Kỳ.
3.1.2. Chân dung một số thủ lĩnh chính quyền Việt Nam
Cộng hòa
Không chỉ xây dựng chân dung các tướng lĩnh của Quân đội
Việt Nam Cộng hòa với thái độ khách quan, không thiên kiến; tác giả
Trần Mai Hạnh dựa trên sự khảo sát các tài liệu xác thực, còn tái hiện
chân dung của các vị thủ lĩnh chính quyền Việt Nam Cộng hòa và các
vi đại sứ, cố vấn, chuyên gia an ninh Mỹ. Từ đó giúp người đọc hình
dung về chế độ Việt Nam Cộng hòa, về bối cảnh chính trị, quân sự
miền Nam Việt Nam những tháng đầu tiên của năm 1975.
Chân dung Nguyễn Văn Thiệu được nhà văn khắc họa thành
công. Ở Thiệu, người đọc cảm nhận được sự đối lập giữa bên ngoài là
một kẻ chuyên quyền, độc đoán nhưng bên trong lại yếu thế, mê tín,
bất an. Hắn gian manh, lật lọng nhưng cũng rất sợ hãi, cô độc.
Trần Văn Đôn cũng là tướng lĩnh của chính quyền Việt Nam
Cộng hòa được tác giả Trần Mai Hạnh khắc họa rõ nét. Suốt một đời
điên cuồng chạy theo danh vọng, quyền lực nhưng cho tới cuối đời,
Trần Văn Đôn vẫn bị dư luận Sài Gòn coi là một anh Tây con, ăn chơi
đàng điếm. "Dấu ấn của quỷ" gắn lên trán ông ta từ thời trẻ đã không
bao giờ mờ phai. Đó hẳn là cái kết xứng đáng với một kẻ như Trần
Văn Đôn.
3.2.Đặc điểm phương thức thể hiện
3.2.1. Kết cấu
3.2.1.1 Kết cấu tuyến tính
Trần Mai Hạnh viết Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75mang tính
chất của một biên bản lịch sử, ghi chép tình thế của quân đội Việt Nam
16
Cộng hòa trong bốn tháng 1-2-3-4 năm 1975 theo trình tự thời gian.
Tác giả đã tái hiện cuộc chiến như một bản tường trình với đầy đủ bằng
chứng lịch sử được ghi chép tỉ mỉ và công khai qua các tư liệu quan
trọng có tính chính chân thực cao, làm cho người đọc dễ dàng nhận
diện. Với kết cấu tuyến tính, kiểu kết cấu phù hợp với thể loại tiểu
thuyết tư liệu, tác giả Trần Mai Hạnh giúp người đọc hình dung cụ thể
về diễn biến của cuộc chiến ở giai đoạn cuối cùng.
3.2.1.2 Kết cấu liên văn bản
Là một tiểu thuyết tư liệu lịch sử được viết dựa trên khối lượng
tư liệu, nguyên bản đồ sộ, trong đó có nhiều tài liệu tuyệt mật về cuộc
chiến của phía chính quyền Sài Gòn và tài liệu phía Hoa Kỳ, tác giả đã
khéo léo lồng ghép các tư liệu lịch sử vào văn bản tiểu thuyết. Biên
bản chiến tranh 1-2-3-4.1975 được cấu thành bởi nhiều loại văn bản
khác nhau. Bên cạnh văn bản truyện là các văn bản hành chính, công
vụ: biên bản cuộc họp, thư tín, công văn, điện khẩn, tờ trình, báo
chí....Các văn bản này góp phần tăng tính xác thực cho tiểu thuyết tư
liệu lịch sử.
3.2.2. Ngôn ngữ
3.2.2.1. Sự hòa trộn các loại ngôn ngữ
Trong tiểu thuyết Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75, tính chất ký
sự đan xen tính chất tiểu thuyết, do vậy đặc điểm ngôn ngữ trần thuật
của nó chính là sự đan xen của hai loại ngôn ngữ đó.
Mặt khác, trong tác phẩm, có sự dung hợp thể loại rất rõ, nổi bật
là sự kết hợp của ngôn ngữ tiểu thuyết (miêu tả nhân vật), ngôn ngữ
hành chính, báo chí, chính luận (các trích dẫn từ văn bản, công điện,
diễn văn, thư từ, điện tín,…). Các phụ lục có chức năng tạo tính xác
thực của sự kiện, càng tăng thêm tính chất ký sự của ngôn ngữ.
3.2.2.2. Đặc sắc ngôn ngữ miêu tả
Tiểu thuyết Trần Mai Hạnh nổi bật nhất là ngôn ngữ miêu tả,
17
tả thiên nhiên, tả nhân vật, chi tiết các sự kiện, sự việc, gần giống với
ngôn ngữ phóng sự hoặc kí sự chiến trường.
Tiểu kết
Biên bản chiến tranh 1-2-3-4,75 của Trần Mai Hạnh đã xây
dựng thành công hệ thống nhân vật dựa trên cái nhìn trung tính. Hệ
thống các nhân vật, sự kiện, các biến cố được bố cục chặt chẽ. Trần
Mai Hạnh đã sử dụng phối hợp hai hình thức chủ yếu là kết cấu tuyến
tính và kết cấu liên văn bản. Tác phẩm có tính chất ký sự đan xen tính
chất tiểu thuyết, có sự dung hòa nhiều loại ngôn ngữ trong tác phẩm
tiểu thuyết: ngôn ngữ hành chính, báo chí, chính luận
18
CHƯƠNG 4: ĐẶC TRƯNG VĂN XUÔI PHI HƯ CẤU THỂ
HIỆNTRONG TẠP VĂN KÍ ỨC VỤN (NGUYỄN QUANG LẬP)
4.1.Đặc điểm nội dung phản ánh
4.1.1. Ghi chép những chuyện đời, chuyện người trong
“muôn mặt đời thường”
Từng trang Kí ức vụn dẫnngười đọc đến với mọi khía cạnh của
cuộc sống từ cảnh sắc thân thuộc của quê hương đến từng số phận con
người trong cuộc sống đời thường.
Đọc tạp văn Kí ức vụn, người đọc như được sống trong không
gian làng quê nên thơ, trù phú của làng Đông – nơi ông cùng gia đình
đến đây sơ tán.
Không chỉ nhớ cảnh quê hương, ông còn lưu giữ nguyên vẹn cái
hồn quê qua những nét sinh hoạt văn hóa cộng đồng, đời sống tâm linh
của người dân quê.
Trong Kí ức vụn, nhà văn dành nhiều trang viết để phản ánh
cuộc sống đói nghèo, cực khổ của những người dân quê trong chiến
tranh.
Không chỉ thế, trong Kí ức vụn, tác giả Nguyễn Quang Lập còn
giúp người đọc, nhất là bạn đọc trẻ tuổi hình dung về cuộc sống thời
bao cấp với đủ chuyện cười ra nước mắt.
Hướng ngòi bút đến muôn mặt đời thường nên nhà văn Nguyễn
Quang Lập cũng không thể không viết về những gì đang xảy ra quanh
ông, những vấn đề nóng bỏng của thời cuộc.
Xã hội ngày càng hiện đại, thì tất yếu kéo theo đó những vấn
nạn, hệ lụy bởi tác động của kinh tế thị trường. Thói háo danh, đố kị,
chơi ngông, bệnh thành tích, mê tín…cũng theo đó mà gia tăng.
Cái nhìn của nhà văn đã bao quát được hiện thực rộng lớn.
Nguyễn Quang Lập đã nhìn thẳng, nói thật, bám sát hiện thực bằng
19
ngòi bút giễu nhại sâu cay, chua chát. Nhưng đích đến của những mẫu
chuyện đời thường ấy là muốn hướng con người đến một cuộc sống
đáng sống hơn, đẩy lùi những phần “chưa người” trong mỗi con người.
Không chỉ phản ánh cuộc sống đời thường ở cái nhìn bao quát,
nhà văn còn đi sâu vào từng số phận con người, xây dựng chân dung
con người sống động, sắc nét, rất “đời”.
4.1.2.Bộc lộ tâm sự đời tư, suy tư, băn khoăn, trắc ẩn
Trong Kí ức vụn, Nguyễn Quang Lập có những trang viết mang
đậm dấu ấn đời tư, thể hiện nỗi niềm tâm sự của nhà văn về bản thân,
về gia đình.
Không chỉ là nỗi niềm trong tình yêu đầu, nhà văn còn trải lòng
về nghề nghiệp, về ngày đầu nhà văn đến với truyện ngắn. Trong Kí
ức vụn, người đọc còn cảm nhận được tình cảm của tác giả dành cho
gia đình, người thân qua những trang viết đong đầy cảm xúc.
Kí ức vụn còn chạm đến trái tim người đọc bởi nỗi niềm băn
khoăn trắc ẩn về thế sự nhân sinh, day dứt, ưu tư về số kiếp con người,
về những bất hạnh mà số phận mang lại cho họ.
4.2. Đặc điểm phương thức thể hiện
4.2.1. Ngôn ngữ
Trong Kí ức vụn, người đọc thực sự hứng thú với phương diện
ngôn ngữ của văn bản. Đó là kiểu ngôn ngữ “khẩu văn”, tức là văn
nói, nói thoải mái, cởi mở nhưng không phải là nói lung tung; “khẩu
nhưng lại “văn”, đó là sự hòa hợp giữa đời thường và nghệ thuật. Ngôn
ngữ trong Kí ức vụn vì thế mà tự do, phóng khoáng, rất lôi cuốn. Tác
giả sử dụng hiệu quả lớp từ địa phương và có sự kết hợp giữa ngôn
ngữ tinh tuyển và thông tục.
Thành công của ngôn ngữ Kí ức vụn trước hết phải kể đến sự
xuất hiện của phương ngữ.
20
Từ địa phương có thể xuất hiện xen kẽ trong ngôn ngữ của người
kể chuyện hoặc đậm đặc hơn trong ngôn ngữ nhân vật.
Nghệ thuật sử dụng khẩu ngữ trong Kí ức vụn còn thể hiện ở
việc ông sử dụng cách nói lặp từ, dùng những từ, tổ hợp từ trong lời
nói hàng ngày.
Trong Kí ức vụn, nhà văn Nguyễn Quang Lập còn kết hợp lớp
từ thông dụng và lớp từ tinh tuyển. Thành công của nhà văn là đã sử
dụng từ ngữ thông tục để tạo ra tiếng cười thoải mái, qua đó nêu bật
được sự thật cuộc sống, hết thảy các cung bậc cảm xúc của con người:
yêu, ghét, giận hờn, đố kị… của người dân quê; để họ được sống thật
với tính cách của mình.
4.2.2. Giọng điệu
Trong Kí ức vụn, người đọc nhận ra giọng điệu hết sức đa dạng,
linh hoạt; đó là sự đan xen giữa giọng hài hước, tếu táo, hóm hỉnh và
giọng trữ tình cảm thương.
Giọng điệu nổi trội trong Kí ức vụn là giọng hài hước, tếu táo,
hóm hỉnh. Sự hài hước ấy sẽ biến tấu theo từng đối tượng xuất hiện
trong trang viết của ông.
Giọng điệu châm biếm được nhà văn sử dụng với mục đích phơi
bày, phê phán cái tầm thường, cái đáng cười.
Đọc Kí ức vụn, nhiều lúc người người đọc bật cười trước giọng
hài hước, hóm hỉnh của tác giả. Nhưng đằng sau tiếng cười ấy là những
nối niềm nhân sinh sâu sắc; sau tiếng cười là một nỗi đau, một số
phận… Giọng điệu trữ tình cảm thương cũng đã góp phần làm nên giá
trị nghệ thuật trong tạp văn Kí ức vụn. Giọng trữ tình, cảm thương thể
hiện trong những trang văn viết về thiên nhiên, tả cuộc sống thường
ngày hay những cảm xúc bất chợt khiến tâm hồn lặng đi trong suy nghĩ.
Tiểu kết
21