ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
----- -----
BÀI TIỂU LUẬN
TÊN ĐỀ TÀI: VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC CON NGƯỜI TRONG TRIẾT
HỌC PHẬT GIÁO VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN ĐẠO
ĐỨC CON NGƯỜI VIỆT NAM
GV hướng dẫn: TS. Dương Đình Tùng
Người thực hiện: Hồ Thị Kim Liên
Tháng 8 năm 2017
Mục lục
Trang
I.
Mở đầu
1
I.1.
Tính cấp thiết
1
I.2.
Đối tượng, phương pháp nghiên cứu
I.3.
II.
Phạm vi nghiên cứu
Nội dung
2.1.Hoàn cảnh ra đời của Phật giáo và nội dung chủ yếu của đạo đức
1
1
con người trong Phật giáo.
2.1.1.Hoàn cảnh ra đời của Phật giáo
2
2.1.2. Nội dung chủ yếu của đạo đức con người trong Phật giáo
6
2.1.2.1. Vô minh và khổ
7
2.1.2.2. Nghiệp và nhân quả
8
2.1.2.3. Tu, giải thoát, từ bi
9
2.1.2.4. Quy định thực hành cho đạo đức
11
2.2.Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo đến đạo đức con người Việt
14
Nam
2.2.1. Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo đến đạo đức con người Việt
14
Nam ngày xưa.
2.2.2. Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo đến đạo đức người Việt
16
Nam hiện đại
2.2.3. Giải pháp để khắc phục tình trạng đạo đức trong giai đoạn hiện
18
nayIII.
Kết luận
19
Tài liệu tham khảo
20
I.
MỞ ĐẦU
I.1.
TÍNH CẤP THIẾT
Đạo Phật là một trong những học thuyết triết học – tôn giáo lớn nhất trên thế
giới tồn tại rất lâu đời. Hệ thống giáo lí đồ sộ và số lượng phật tử rộng khắp. Phật
giáo được truyền bá vào nước ta khoảng thế kì thứ II sau công nguyên và đã nhanh
chóng trở thành một tôn giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần, đạo
đức con người Việt Nam bên cạnh Nho giáo,đạo Lão,đạo Thiên chúa giáo.
Quá trình phất triển của Phật giáo tại Việt Nam gắn liền với quá trình hình thành,
phát triển tư tưởng đạo đức con người Việt Nam. Vì vậy khi nghiên cứu lịch sử, tư
tưởng đạo đức con người Việt nam không thể không nghiên cứu đến sự ảnh hưởng
của phật giáo đến đạo đức con người Việt Nam và những mối quan hệ tác động
qua lại giữu chúng.
Tóm lại, nghiên cứu vấn đề đạo đức con người trong phật giáo và ảnh
hưởng của Phật giáo đến đạo đức con người Việt Nam là một nội dung quan trọng
nhằm tìm hiểu lịch sử cũng như định hướng cho sự phát triển nhân cách ,tư duy
cho con người Việt nam trong tương lai.
1.2. ĐỐI TƯỢNG,PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
-Đối tượng nghiên cứu: Giá trị đạo đức trong Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến
đạo đức con người Việt Nam.
-Phương pháp nghiên cứu:Dựa trên phương pháp luận chung nhất là phương
pháp duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra còn sử dụng
phương pháp khác như: khái quát hóa, logic, phương pháp phân tích, phương
pháp tổng hợp, phương pháp quy nạp và phương pháp diễn dịch.
1.3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Nội dung của đạo đức con người trong quan niệm của Phật giáo.
II. NỘI DUNG
2.1
HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA PHẬT GIÁO VÀ NỘI DUNG CHỦ
YẾU CỦA ĐẠO ĐỨC CON NGƯỜI TRONG PHẬT GIÁO:
Trang 1
2.1.1. HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA PHẬT GIÁO:
Phật giáo xuất hiện ở Ấn Độ khoảng thế kỷ VI tr. CN. Người sáng lập ra
Phật giáo được tôn là Thích Ca Mâu Ni. Sự ra đời của Phật giáo chủ yếu dựa trên
những tiền đề sau :
Ấn Độ cổ đại là một đất nước rộng lớn thuộc bán đảo Nam Á , có lịch sử lâu
đời và có nền văn minh sớm phát triển đạt đến trình độ rực rỡ bao gồm cả
Pakistan, Bănglađet và Nepan ngày nay. Cư dân Ấn Độ rất đa dạng và phức tạp
với nhiều bộ tộc khác nhau nhưng về chủng tộc lại có hai loại chính là người bản
địa Đravia cư trú chủ yếu ở miền Nam và người Châu Âu (Arya) nhập cư từ Trung
Á tới chủ yếu sống ở miền Bắc. Vào khoảng thế kỷ thứ VI tr.CN, Ấn Độ cổ đại đã
là một quốc gia khá phát triển. Công cụ sản xuất bằng đồ sắt rất phổ biến, sự phân
công lao động đã tách thủ công nghiệp ra khỏi nông nghiệp, mặc dù nông nghiệp
vẫn là ngành sản xuất chủ yếu. Ngoài ra, thương nghiệp cũng có sự phát triển
mạnh mẽ. Các thư tịch cổ cho thấy lúc đó các nhà buôn đã có những đội quân vận
chuyển bằng cả đường bộ và đường biển với quy mô tương đối lớn. Hoạt động
thương mại ở Đông Bắc Ấn đã vượt Mianma, ở Tây Bắc đã vượt qua các nước Ba
Tư, Ảrập. Cùng với sự phát triển kinh tế hàng hóa, hàng loạt thành phố, thị trấn
mọc lên và nhà nước theo kiểu chế độ chủ nô đầu tiên đã được thành lập. Tuy
nhiên, do sự tồn tại dai dẳng của công xã nông thôn, toàn bộ ruộng đất đều thuộc
quyền sở hữu của các đế vương, nhà nước kết hợp với tôn giáo thống trị nhân dân
bóc lột nông nô công xã, tôn giáo bao trùm lên mọi mặt của đời sống xã hội, con
người sống nặng nề về tâm linh, tinh thần và khát khao được giải thoát nên chế độ
chiếm hữu nô lệ (CHNL) ở Ấn Độ không có dấu ấn điển hình như ở Châu Âu.Chế
độ đẳng cấp là một đặc điểm của Ấn Độ cổ đại. Trước khi Phật giáo ra đời, xã hội
tồn tại bốn đẳng cấp:
+Bàlamôn (Brahmanas): tức đạo sĩ học hành uyên bác, giới hạnh đoan nghiêm, là
đẳng cấp cao nhất, thống trị đời sống tinh thần của xã hội. Đẳng cấp này có đặc
quyền xã hội và chính trị, được tôn làm “ thần của nhân gian” bao gồm những
người hành nghề tế lễ.
Trang 2
+Sát đế lị (Ksastryas): là đẳng cấp vua quan, tầng lớp võ sĩ, quý tộc, người chấp
hành quyền lực thế tục và được coi là người bảo hộ nhân dân.
+Vệ xá (Vaisyas): là đẳng cấp của những người bình dân làm nghề như chăn nuôi,
làm ruộng, buôn bán, thợ thủ công, trong đó nhà buôn là lực lượng chính tạo ra
của cải, vật chất cho xã hội và có nghĩa vụ phải nộp thuế.
+Thủ đà la (Soudras): là đẳng cấp thấp nhất chiếm đại đa số, là con cháu của
những bộ lạc bại trận, những người bị phá sản hay không có tư liệu sản xuất hay
nói cách khác đó là những người nô lệ có nghĩa vụ phục tùng các đẳng cấp trên.
Theo luật Ba la môn thì chỉ có ba đẳng cấp trên có quyền học kinh học đạo mà
thôi, còn đẳng cấp dưới không có quyền gì và phải làm nô lệ cho ba đẳng cấp trên.
Sự phân biệt đẳng cấp thể hiện ở nhiều mặt từ địa vị xã hội, quyền lợi kinh
tế, giao tiếp, ăn mặc, đi lại, sinh hoạt tôn giáo… đẳng cấp Soudras ở địa vị dưới
đáy xã hội, làm nô lệ cho đẳng cấp trên. Sự phân biệt đẳng cấp trong xã hội Ấn Độ
cổ đại diễn ra vô cùng khắc nghiệt khiến cho tầng lớp đa số trong xã hội – những
người Soudras vô cùng căm tức chế độ đẳng cấp. Nó phản ánh các quy phạm xã
hội nhằm đề cao các tầng lớp trên và hợp thức hóa quyền được bóc lột của họ.
Buddha vốn là một thái tử tên là Tất Đạt Đa ( Siddharta), con trai của Trịnh
Phạn Vương ( Suđhodana) vua nước Trịnh Phạn, một nước nhỏ thuộc Bắc Ấn Độ (
nay thuộc đất Nê Pan ) ông sinh ra vào khoảng năm 623 trước công nguyên. Cuộc
đời của Phật Thích Ca được kể lại ở trong truyền thuyết như sau:
“ Vào một đêm Mahamaia, người vợ chính của Suđhodana, Vua của người
Saia mơ thấy mình được đưa tới hồ thiêng Anavatápta ở Himalaya. Sau khi các
thiên thần tắm rửa cho bà ở trong hồ thiêng, thì có một con voi trắng khổng lồ có
đoá hoa sen ở vòi bước tới và chui vào sườn bà. Ngày hôm sau các nhà thông thái
được vời tới để giải mơ của Hoàng hậu. Các nhà thông thái cho rằng giấc mơ là
điềm Hoàng hậu đang có mang và sẽ sinh hạ được một Hoàng tử tuyệt vời, người
sau này sẽ trở thành vị chúa tể của thế giới hoặc người thầy của thế giới. Đến ngày,
đến tháng, Hoàng hậu Mahamaia trở về nhà cha mình để sinh con. Thế nhưng vừa
đến khu vườn Lumbini, cách thủ đô Capilavastu của người Sakia không xa, Hoàng
hậu trở dạ và vị Hoàng tử đã ra đời. Vừa ra đời, vị Hoàng tử tí hon đã đứng ngay
Trang 3
dậy, đi bảy bước và nói: “ Đây là kiếp cuối cùng của ta, từ nay ta không phải luôn
hồi một kiếp nào nữa!”.
Đến ngày thứ năm, một nghi thức trọng thể được tổ chức và Hoàng tử được
đặt tên là Siđhartha. Để ngăn cản Hoàng tử không nghĩ tới việc tu hành, đức vua
cha đã tìm mọi cách tạo ra quanh người con trai mình một cuộc sống vương giả.
Hoàng tử được học mọi kiến thức để sau này trở thành một vị vua tài ba anh minh
trị vì một đất nước ấn Độ bao la. Thế rồi, nhà vua và quần thần đã kén cho Hoàng
tử một người vợ kiều diễm. Nhưng cuộc đời vương giả không cám dỗ được Hoàng
tử trẻ tuổi. Bốn sự việc do các thần tạo ra đã làm thay đổi hẳn cuộc đời Hoàng tử
Siddhartha. Đó là một lần khi đang dạo chơi trong vườn, Hoàng tử thấy một ông
già gày còm, ốm yếu rồi nhận ra một điều rằng mọi người rồi ai cũng phải già yếu
như thế. Íít lâu sau ,Hoàng tử lại được chứng kiến người ốm và người chết. Ba
hoàn cảnh trên làm cho Hoàng tử băn khoăn, lo nghĩ về kiếp người và muốn cứu
con người khỏi những trầm luôn đau khổ của kiếp luôn hồi: Sinh, lão, bệnh, tử
chính sự việc thứ tư đã đem đến cho Hoàng tử niềm hi vọng và an ủi. Lần đó,
Hoàng tử nhìn thấy một vị hành khất dáng vẻ bần hàn nhưng lại ung dung tự tại.
Vừa nhìn thấy vị hành khất Hoàng tử như bừng tỉnh và quyết định sẽ ra đi trở
thành nhà hành khất như thế.
Được tin, đức vua Suddhôđana tìm mọi cách ngăn cản Hoàng tử. Thế nhưng
Hoàng tử không thể nào xua đi được bốn sự kiện mà mình đã chứng kiến khiến
lòng dạ của Hoàng tử không lúc nào được thanh thản. Ngay cả tin mừng công chúa
Yashôdhara sinh cho chàng một Hoàng nam cũng không làm cho Hoàng tử
Sidhartha vui. Ngay đêm khi đứa con ra đời, khi mọi người ngủ say, Hoàng tử lặng
lẽ đến nhìn vợ và con lần cuối rối đánh thức người đánh xe dậy cùng mình cưỡi
con ngựa Canthaca yêu quý rời khỏi cung. Khi đã rời khỏi đô thành Hoàng tử trút
bộ áo Hoàng tộc và mặc lên người bộ quần áo thường dân. Hoàng tử dùng kiếm
cắt bộ tóc dài của mình và nhờ người đánh xe mang mớ tóc và quần áo về trao lại
cho đức vua. Còn con ngựa Canthana vì đau khổ phải chia tay với ông chủ của nó
nên đã lăn ra chết ngay tại chỗ. Rời hoàng cung, dứt áo ra đi, Hoàng tử Sidhartha
đã trở thành nhà tu hành.
Trang 4
Thoạt đầu, Hoàng tử đi lang thang đây đó, sống theo kiểu khổ hạnh. Sau đó,
ngài vào rừng tu. Nhà hiền triết Alara Calama dạy cho chàng các phép thiền định
và những triết lý của upanishad. Học thuyết và thực hành giải thoát cá nhân của
Upanishad không hấp dẫn Hoàng tử. Chàng đi tiếp và nhập vào nhóm năm người
tu khổ hạnh. Suốt sáu năm trường ép xác Hoàng tử gần như chỉ còn bộ xương khô
mà vẫn chưa tìm ra chân lý của sự giải thoát. Ngài bèn bỏ cuộc sống tu hành khổ
hạnh và trở lại ăn uống bình thường.
Khi Hoàng tử Sidhartha 35 tuổi, một hôm ngài đến ngồi dưới gốc cây bồ đề
ở ngoại vi thành phố Gaia thuộc vùng đất của vua Bimbisura, vua nước Magadha.
Cho đến một hôm có nàng Sudjata, con gái của một nông dân trong vùng đem cho
ngài một bát cơm to nấu bằng sữa. Ăn xong, ngài xuống sông tắm rửa, rồi trở lại
gốc cây bồ đề. Ngài ngồi thiền định và nguyện sẽ không đứng dậy nếu không tìm
ra sự giải thoát về điều bí ẩn của sự đau khổ. Và Hoàng tử đã ngồi dưới gốc cây bồ
đề suốt 49 ngày đêm. Bảy tuần lễ đó là cả một chuỗi ngày đầy thử thách. Để phá
sự thiền định của Hoàng tử, con quỹ dữ Mara tìm mọi cách làm chàng nản chí.
Thoạt đầu, quỷ Mara biến thành một sứ giả đến báo cho Hoàng tử một tin bịa đặt
là em trai Hoàng tử là Đevađatta nổi loạn, bắt nhốt đức vua cha vào ngục và chiếm
nàng Yashodrara làm vợ. Thế nhưng tin dữ đó không làm cho Hoàng tử bận tâm.
Mara bèn cho gọi các quỷ dữ tới làm ra mưa to, gió lớn gây ra động đất, lụt lội
nhưng Hoàng tử vẫn ngồi bình thản dưới gốc cây bồ đề, cảm phục trước ý chí kiên
định của Hoàng tử, rắn thần Naga dùng thân làm tán cho mưa gió cho Hoàng tử
ngồi. Thấy thế quỷ dữ Mara bèn dùng biện pháp quyết liệt và tinh tế hơn để công
phá vào thành trì kiên định của Hoàng tử Sidhartha. Nó cho gọi ba cô con gái xinh
đẹp của mình là các nàng Khát vọng, khoái lạc và Dục vọng tới múa nhảy mê hoặc
nhà tu hành trẻ tuổi. Thế nhưng biện pháp cuối cùng của quỷ Mara cũng thất bại
và lũ quỷ phải dời khỏi gốc cây bồ đề. Rạng sáng ngày 49, Siddhartha đã tìm ra bí
mật của sự đau khổ, đã tìm ra được vì sao thế giới lại tràn đầy khổ đau và đã tìm ra
được cách để chiến thắng sự đau khổ. Siddhartha đã hoàn toàn giác ngộ và trở
thành Buddha (Đấng giác ngộ). Sau khi giác ngộ Đức phật còn ngồi tiếp bảy ngày
nữa dưới cây bồ đề suy ngẫm về những chân lý diệu kỳ mà mình đã khám phá.
Trang 5
Ngài phân vân không biết có nên phổ biến đạo pháp của mình cho thế giới không
vì có huyền diệu quá khó hiểu quá đối với mọi người. Chính thượng đế Brahma
phải giáng trần để khích lệ Đức phật truyền bá đạo pháp của mình cho thế gian.
Chỉ khi đó Phật mới rời khỏi gốc cây bồ đề đi đến khu vườn Lộc Uyển gần
Varanasi để giảng bài thuyết pháp đầu tiên cho năm người bạn tu khổ hạnh của
mình. Sự kiện này được ghi chép lại như một sự kiện quan trọng nhất của Đạo
phật và được gọi là Phật quay bánh xe Đạo pháp ( chuyển Pháp Luân ). Giáo pháp
mới của Đạo phật đã gây ấn tượng mạnh đối với năm nhà tu, họ nhanh chóng trở
thành những môn đồ đầu tiên của Đức Phật. Vài ngày sau số môn đồ của Phật đã
tăng lên 60 người, theo thời gian số môn đồ Đạo Phật ngày càng tăng và các tổ
chức tăng gia đã ra đời.
Từ đó Phật truyền bá đức tin, thành lập các đoàn truyền giáo. Đạo Phật ra
đời trên thực tế là phủ nhận chế độ đẳng cấp của đạo Bàlamôn. Giáo lý Phật giáo
sâu sắc, đề cao sự bình đẳng, hướng tới sự giải thoát, lễ nghi đạo Phật đơn giản,
không tốn kém như đạo Bàlamôn nên nhanh chóng thu hút được đông đảo tín đồ.
Sau 49 năm thuyết pháp tư tưởng của đức Phật đã lan rộng khắp xứ Ấn Độ. Đạo
Phật từ đó đã ăn sâu bám rễ trên khắp bán đảo Ấn Độ và trở thành tôn giáo chính ở
các xứ lớn, nhỏ ở Ấn Độ thời bấy giờ.
Đến năm 80 tuổi, biết mình tuổi cao, sức yếu, Đức Phật cùng các môn đồ trở
về chân núi Hymalaya nơi ngài sinh ra và lớn lên. Trên đường Phật đã chuẩn bị
mọi thứ cho các môn đồ để họ có thể tự lập được sau khi ngàu viên tịch. Và, tại
một nơi thuộc ngoại vi thành phố Cusinagara, Phật đã ra đi. Câu nói cuối cùng của
Phật là: “ Hỡi các tì kheo, tất cả những gì đang tồn tại rồi sẽ qua đi. Vậy các người
càng không nên ngừng gắng sức!”.
2.1.2. NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA ĐẠO ĐỨC TRONG PHẬT GIÁO:
Trước khi đi tìm hiểu quan điểm Phật giáo về đạo đức, chúng ta cần tìm
hiểu ý nghĩa tổng quát của từ “đạo đức”. Từ này gắn liền với sự phân biệt giữa
đúng và sai, thiện và ác trong hành động, ý muốn và tính tình. Nó liên quan đến
bản chất và sự áp dụng luân lý trong đời sống. Ý thức đạo đức là khả năng hiểu
được sự khác biệt giữa đúng và sai.
Trang 6
Đạo đức Phật giáo cung cấp cho con người những hướng dẫn về cách cư xử,
nêu ra những điều nên làm và những điều không nên làm với mục đích đem đến
lợi ích cho bản thân và cho người khác. Nó hướng dẫn con người đạt được và vui
hưởng những tiến bộ vật chất trong sự hài hòa với niềm vui và sự thăng hoa về
tinh thần. Nó dẫn con người đến một đời sống thanh tịnh, hóa giải mâu thuẫn giữa
khối óc và con tim giúp, con người thành công trong công việc, nhiệm vụ, bổn
phận với tâm bình an và hỷ lạc. Giới luật được đức Phật đưa ra không khó hiểu và
khó thực hành trong mỗi giây phút, ý thức của cuộc sống con người. Giới luật đó
không cần phải chờ đợi đến khi con người thấy bất mãn với cuộc sống, nó cần
thực hiện trong ý nghĩ lời nói, và hành động trong đời sống tu tập hàng ngày của
con người. Đạo đức Phật giáo là nếp sống đề cao vị trí con người và chứng minh
rằng con người có khả năng đạt đến giải thoát tối thượng nếu con người có đủ ý
chí và nỗ lực, nếu con người thực hiện tốt niệm lực, định lực, thiền lực, nếu con
người phát huy được tuệ lực giải thoát.
Đạo đức Phật giáo có những nội dung chủ yếu:
2.1.2.1.Vô minh và khô
Vô minh là không sáng suốt, là mề lầm, không nhận được bản tính duyên
khởi chân thật. Vô minh nghĩa là không nhìn thấy cái thật cái đúng của vạn vật,
của sự việc. Chính vì không biết như thế, nên lầm Vô minh tức là do không nhận
định được chân lý về sự khổ, nguyên nhân của sự khổ, sự diệt khổ và con đường
đưa đến sự diệt khổ. Cái không thấy, không nhận định được đó chính là nguyên
nhân làm động lực thúc đẩy bánh xe đời sống chuyển động.
Bản chất của nhân sinh là khổ, con người khi sinh ra đã khổ. Nỗi khổ là do
con người tự gây nên trong cuộc sống của mình. Và một khi mà con người đều
chịu cùng như nhau rồi thì quả thực nó chẳng là nguyên ủy của khổ nữa. Nói cách
khác, theo quan niệm của Phật giáo không phải theo định nghĩa thông thường về
khổ vật chất, khổ tinh thần, gọi chung là khổ thọ.
Khổ là ý thức được sự tương đối, bất định và chuyển dịch của mọi thực tại,
mọi giá trị. Sinh không còn là tuyệt đối nữa vì có tử, lão, bệnh; tử cũng không còn
là tuyệt đối vì có sinh, lão, bệnh… Mọi sự chỉ là “tuồng ảo hóa” là sắc sắc không
Trang 7
không, là có đó rồi mất đó. Tất cả những gì được xem là chân xác nhất, xét cho
cùng cũng chỉ là ảo tưởng, là ước định.
Nói cách khác, thấy được mọi sự vô thường, vô ngã là thấy được nỗi khổ
uyên nguyên, thấy được khổ đế, không thấy được mọi sự chỉ là vô thường, vô ngã
tức là vô tình chịu lấy các khổ thọ vì sinh ra, già đi, bệnh tật, chết chóc, chia lìa,
thù oán, thích mà không được, muốn bỏ mà không được.
Căn bản đạo đức của Phật giáo như vậy là một căn bản tri thức, một hiểu
biết chứ không phải là một lòng tin, hoặc một mặc khải. Thấy được và hiểu được
nguyên ủy của “ khổ” thì phải tự tìm được những phương thức thoát khổ.
2.1.2.2. Nghiệp và luật nhân quả
Nội dung của nghiệp bao quát rất rộng không gian và thời gian, đặc điểm
nên tính chất nó rất phức tạp…cái quan trọng ở đây là quả báo của nghiệp có sự
vay trả, nó giống như một cuốn sổ ghi công nợ của ta, cho nên chủ yếu con người
hay chúng sinh phải tái sinh để giải quyết công nợ của mình. Đó là sự chiêu cảm
quả khổ hay sướng của mỗi con người hay chúng sinh nói chung. Như vậy giải
thoát cũng có ý nghĩa là trả nghiệp cũ vay thêm nghiệp mới bắt đầu từ ý nghiệp,
khi nào chúng sinh trả hết nghiệp, không lạc vào nghiệp không muội vào nghiệp
thì chúng sinh được tự do hoàn toàn.
Muc đích thiết thực của thuyết nghiệp trong Phật giáo là mong muốn ai ai
cũng làm việc thiện, tránh làm việc ác và thuyết Nghiệp đánh giá đạo đức của
hành động, đồng thời cho thấy sự nghiêm khắc của luật nhân quả. Do vậy, thuyết
Nghiệp trong Phật giáo liên quan trực tiếp đến hệ thống đạo đức cũng như chuẩn
mực, hành vi của đạo đức Phật giáo.
Đạo Phật xem quy luật này như là cái chìa khóa, giúp lý giải tất cả mọi sự
vật và hiện tượng diễn biến trong tự nhiên và xã hội. Đạo Phật bác bỏ Thần ý luận,
cũng như Ngẫu nhiên luận. Nếu mọi diễn biến trong xã hội đều do ý của thần
linh hay của đấng sáng tạo sắp xếp sẵn rồi, thì mọi cố gắng sống đạo đức của
người đều là vô ích.
Quan niệm về Nghiệp báo cũng không vì thế mà khuyên con người buông
xuôi cuộc đời theo dòng luân lưu bất tận do Nghiệp lực trong quá khứ, ngược lại,
Trang 8
Nghiệp có thể chuyển, nghĩa là con người có đủ toàn quyền quyết định đời sống
hiện tại và tương lai của chính mình thông qua những hành động chuyển hóa và
xây dựng những hạt giống tốt cho đời sống hiện tại và tương lai.
2.1.2.3. Tu, giải thoát và từ bi
Mục đích của tu là dứt nghiệp, chính báo – và một khi tất cả mọi người đều
đã dứt được nghiệp báo, chính báo rồi thì cũng không còn cộng nghiệp và y báo
nữa. Người ta có thể tự cải tạo cá nhân mình mà không cần biết đến cải tạo xã hội
nhưng người ta sẽ không thể nào cải tạo xã hội nếu không khởi sự bằng “tu thân”.
Tu để chuyển hóa nghiệp ác thành nghiệp thiện và đi vào con đường đạo đức, đem
lại niềm vui hạnh phúc cho cá nhân. Việc chủ trương lấy thiện diệt ác, chỉ là bước
đầu trong quá trình tu tập để đi đến giải thoát, giác ngộ. Triết lý trong nhà Phật
luôn kết hợp tính chất tri thức và khả năng tu tập để thức ngộ giải thoát.
Giải thoát nghĩa là thoát khỏi sự ràng buộc của vật chất và ý thức vươn đến
hạnh phúc tự do theo nguyên nghĩa. Giải thoát theo Phật giáo có nhiều tiền đề
khác nhau nhưng cũng có nghĩa giải phóng ra khỏi khổ bằng cách tìm nguyên
nhân của khổ và tận diệt nó. Danh từ “giải thoát” được dùng như nghĩa giác ngộ.
Xác nhận không có cái khổ chắc thật hay hiện hữu khi cuộc sống sinh diệt tương
tục. Tuy nhiên giải thoát được định nghĩa một cách hệ thống như sau: “Giải thoát
tức là trạng thái đời sống tinh thần của con người vượt ra khỏi mọi sự ràng buộc
của thế giới nhục dục, là sự “diệt” hết mọi dục vọng, hay dập tắt ngọn lửa dục
vọng và đạt tới cảnh giới Niết bàn với cái tâm tuyệt đối thanh tịnh không vọng
động, an lạc, bất sinh, bất diệt và tự do tự tại bằng con đường tu luyện đạo đức, giữ
nghiêm giới luật và tu luyện tri thức, thiền định, thực nghiệm tâm linh để đạt tới
giác ngộ theo Tam học (Giới, Định, Tuệ)”. Giải thoát không giới hạn trong phạm
vi tiêu cực mà còn có một ý nghĩa tích cực và tiến bộ phát triển. Trong quyển “ Đại
cương triết học Phật giáo”, tác giả Tưởng Duy Kiều cho rằng: trong giải thoát gồm
có thực chất và hình thức. Hình thức là chỉ cho các phương pháp hay thủ đoạn của
giải thoát; thực chất là chỉ cho nguyên nhân tức xuất phát điểm của giải thoát và
cảnh giới của giải thoát đó là đạt đáo điểm. Giải thoát được chia trên nghĩa thực
chất của giải thoát và hình thức giải thoát. Thực chất của giải thoát dựa vào các
Trang 9
hình thái ý thức quan niệm về cuộc sống nhân sinh đa khổ, luân hồi, thân năm uẩn,
xoá các phiền não, và những sợi dây luyến ái,vô minh trói buộc tâm thức làm mê
mờ tính giác, hướng đến nhất thiết trí hay thực tại giải thoát, tức đạt đáo điểm của
giải thoát. Cũng bởi vậy, nền tảng đạo đức của Phật giáo là nền tảng Bát chính đạo
chứ không phải là những tín điều tiên quyết để xây dựng xã hội hay xây dựng nhân
loại.
Bát chính đạo cũng như tất cả các giáo lý khác trong đạo Phật đều hướng đến
chức năng giáo dục, đánh giá khả năng tiềm ẩn “thành Phật” nơi mỗi con người,
mà bản chất của chức năng này đã hàm chứa một ý nghĩa cao đẹp, vì đó là sự kết
tinh, cô đúc một cách sinh động đạo lý tự nhiên là tính khách quan tuyệt đối trong
việc tìm cầu và tuyên bố chân lý với trí tuệ và tình cảm của loài người để phục vụ
đời sống con người.
Con người muốn giải thoát khỏi sự đau khổ và sợ hãi thì hãy luyện tập trí tuệ
và từ bi. Đạo Phật coi trí tuệ như một thanh gươm và chỉ nó mới chặt được kẻ thù
(đó là vô minh). Như vậy, là đạo Phật đặt vai trò của trí tuệ, chiếm một vị trí then
chốt. Chỉ có trí tuệ con người mới diệt được khổ, đem vui cho mọi loài, đưa đến an
lạc và hạnh phúc. Mặc dù trí tuệ rất cần thiết để đạt đến giải thoát, chính nó cũng
sẽ không đủ. Nó phải kết hợp với từ bi. Từ bi có thể so sánh như một chiếc xe chở
con người đến ngưỡng cửa giải thoát, nhưng chìa khóa thật sự mở cửa là trí tuệ.
Lòng từ bi đem đến sự hạnh phúc lớn nhất cho con người, đơn giản là vì lòng từ bi
vượt lên trên tất cả những cái khác. Nhu cầu tình thương nằm trong sự sống còn
của con người. Đó là kết quả của sự phụ thuộc vào nhau không thể thiếu được, khả
năng và kỹ năng của một cá nhân có đó, nhưng để họ sống riêng lẻ thì họ sẽ không
tồn tại. Sự phụ thuộc lẫn nhau là một quy luật cơ bản của tự nhiên. Từ bi là động
lực làm cho tâm rung động trước sự đau khổ của kẻ khác, là cái gì xoa dịu lòng
đau khổ của con người. Đạo Phật là đạo giải thoát đưa con người vượt qua bể khổ
luân hồi với kiếp nhân sinh. Trong đau khổ con người đủ tâm trí và can đảm để
chế ngự nó. Ý chí vượt qua mọi khổ đau là một năng lực tinh thần, sức khỏe của
nội tâm, là sự nỗ lực không ngừng sự hoạt động tích cực của tâm trí và mọi hành
động nhằm vào mục đích giải thoát cho mình và cho kẻ khác. Con người cần phải
Trang 10
có ý chí để vượt qua mọi trở ngại, chướng ngại, nghịch cảnh chỉ có thể làm cho
con người thêm nghị lực và ý chí phấn đấu. Không nên sống thụ động trong lo âu
sợ sệt hay chờ mong một tha lực nào đến cứu vãn. Phải luôn kiên trì, phấn đấu liên
tục, cho đến kỳ cùng để tự giải thoát lấy ta.
Có thể thấy rằng trí tuệ, từ bi hiệp với ý chí nơi bản thân mình ngoài xã hội đã
tạo thành một năng lực vô cùng trọng yếu có thể hoàn tất mọi việc để giải thoát
khỏi khổ đau đưa con người đạt đến an lành và hạnh phúc. Trí tuệ, từ bi hiệp với ý
chí sắt đá là những phẩm chất cao quý của người Phật tử, nó giúp con người trở
nên hoàn thiện và có được một lối sống an bình và hạnh phúc cho sự tồn tại của
họ.
Phật giáo cho rằng con người là hơn cả vì có thể thực hiện được tất cả sự tốt
đẹp để có thể sống hài hòa. Để giáo dục, đạo Phật đã đưa ra bốn chân lý kỳ diệu
với yếu tố biện chứng, kết cấu chặt chẽ khi đưa ra lý thuyết “ngũ uẩn”, chỉ rõ căn
nguyên của khổ đau do tham, sân, si cùng với lý luận về “Thập nhị nhân duyên”,
đồng thời khẳng định con đường diệt khổ đó là “trung đạo”, “bát chính đạo”…
chứa đựng những lý luận đầy sức thuyết phục và hướng con người đến nếp sống
thiện lánh xa cái ác. Dạy con người sống cảm thông, hỷ xả với nhau, dạy mỗi
người sống vì người khác bao dung độ lượng đó là phương pháp giúp con người
đạt được đức hạnh. Đây là động lực nảy sinh mọi điều tốt lành. Phật giáo khẳng
định tất cả mọi người đều có “Phật tính” sẽ đạt được nếu thực hành theo giáo lý
trau dồi đạo đức trong cuộc sống của chính mình sẽ được hạnh phúc.
Từ đó, ta thấy giá trị tinh thần đạo đức toàn diện của Phật giáo là trình bày sự
thật về những mối tương quan giữa sự vật hiện hữu trong cuộc đời giúp con người
có được chính kiến để tạo lập cuộc sống của mình và chuyển đổi hoàn cảnh, để có
thể chinh phục và cảm hóa mọi người xung quanh hoàn thiện bản thân mình.
2.1.2.4. Quy định thực hành cho đạo đức
Đạo Phật không phải là một tôn giáo đặt con người và số phận của họ dưới sự
điều khiển của thần linh, thượng đế. Đạo Phật đòi hỏi người Phật tử thực hiện trí
tuệ, tình thương và ý chí nơi bản thân mình và ngoài xã hội. Đạo Phật là đạo giải
thoát và giác ngộ. Chỉ có trí tuệ mới là phương tiện duy nhất đưa con người đến bờ
Trang 11
giải thoát và giác ngộ. Đạo đức Phật giáo hình thành những tiêu chuẩn nguyên tắc
về cách cư xử tốt thể hiện trong lời nói và hành động theo con đường chân chính
và tự chủ.
Giới luật là nền tảng đạo đức Phật giáo. Giới luật của Phật giáo thì rất nhiều,
bao gồm cả giới xuất gia và tại gia. Nhưng năm giới vẫn là nguyên tắc cơ bản của
sự tu tập, là căn bản đạo đức làm người, là đức tính cơ bản của luân lý, là chiếc
cầu nối đưa đến an lạc Niết bàn. Đó cũng là yếu tố để xây dựng nền tảng đạo đức
cho mỗi người và mọi người. Người tu hành dù là xuất gia hay tại gia, phải thực
hiện đủ ngũ giới và thập thiện.
Thứ nhất, không được sát sinh. Người Phật tử không được tự tay mình giết
hại, không được sai bảo người khác giết hại hay tán thành trong việc giết hại sự
sống của con người, động vật ngay cả thiên nhiên. Ngược lại, từ trong tâm tưởng,
người Phật tử phải thực tập hạnh từ bi, ngăn ngừa sự giết hại, đem tâm yêu thương
tôn trọng, bảo vệ, nâng cao giá trị sự sống và giữ gìn môi trường sống của mọi
người và mọi loài [13;tr.9].
Thứ hai, không được trộm cướp. Người Phật tử không được xâm phạm đến
tài sản, của cải của người khác dù là cây kim, sợi chỉ hay bất cứ thứ gì, người khác
không vui lòng cho thì không được lấy. Các hành vi như lường gạt, trốn thuế, tham
nhũng, buôn lậu, chiếm dụng của công… đều thuộc phạm trù giới này. Vì vậy, để
trị lòng tham lam và tôn trọng quyền tư hữu của người khác, người Phật tử không
những phải học hạnh từ bi, mở rộng tấm lòng, bố thí, san sẻ, giúp đỡ người thiếu
thốn bằng vật chất lẫn tinh thần, mà còn tích cực ngăn ngừa các hành vi chiếm
đoạt tài sản, các lối làm giàu không chính đáng, phi đạo đức gây đau khổ cho
người khác.
Thứ ba, không được tà dâm. Để tránh gây đổ vỡ hạnh phúc gia đình người,
người Phật tử không được ngoại tình, không được xâm phạm tiết hạnh của người
khác. Khi người Phật tử có tinh thần trách nhiệm, sống chung thủy một vợ một
chồng và bảo vệ tiết hạnh của người khác, thì không nhũng giữ cho mối quan hệ
trong gia đình ổn định, vững vàng mà còn giúp ổn định, lành mạnh xã hội góp
phần giáo dục thế hệ tương lai.
Trang 12
Thứ tư, không được nói dối. Người Phật tử không được nói những lời sai với
sự thật, chuyện không nói có, chuyện có nói không; chuyện ít phóng đại ra thành
nhiều; đến bên này thì nói bên kia, đến bên kia thì nói bên này; nói lời thô ác,
mắng nhiếc, chửi rủa gây đau khổ, chia rẽ, oán thù, giữa mình và người, và giữa
mọi người với nhau, làm ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định xã hội. Trái lại, người
Phật tử phải nói những lời chân thật, khiêm tốn, có đạo lý, có ích lợi để củng cố
niềm tin, tạo thêm sự hiểu biết, an vui và hạnh phúc cho mọi người.
Thứ năm, không được uống rượu và các chất cay khác. Để nâng cao nhân
cách con người, giúp phát triển trí và tránh sự tàn hại thân tâm, gây phạm các điều
tội lỗi khác, làm mất an sinh xã hội, người Phật tử không được uống rượu và sử
dụng các chất làm say người, gây mê mờ tâm trí, đảo lộn tinh thần như thuốc
phiện ma túy và các độc tố khác. Người Phật tử ý thức được những khổ đau và do
tác hại do các độc tố đó gây ra mà phát nguyện tránh xa để giữ gìn cho bản thân,
gia đình và xã hội.
Thập thiện: là mười nghiệp lành, cội gốc của tất cả các pháp lành. Trong đó
ba điều thiện về “thân”: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm” Bốn điều
thiện về “khẩu”: không nói dối, không nói lời thêu dệt, không nói lời hai chiều,
không ác khẩu. Ba điều thiện về “ý”: không tham lam, không thù hận, không si mê
. Trái ngược hẳn với “mười điều thiện” là “mười điều ác”. Nếu không loại trừ
mười nghiệp ác này thì sẽ đem lại khổ đau ngay trong đời sống hiện tại và sau khi
thân này kết thúc phải đọa vào trong cõi dữ, ác thú, địa ngục. Như thế, chúng ta có
thể xem xét mười ác nghiệp là các nhân tố của vô minh đưa con người đến hố sâu
tội lỗi, gây ra khổ đau cho bản thân, cho gia đình và làm rối loạn cho xã hội được
gọi là “thập ác nghiệp”. Có thể chia ra mười điều ác này thành ba nhóm: ba điều
ác của “thân” là “ sát sinh, trộm cắp, tà dâm”; bốn điều ác của “khẩu” là “nói dối,
nói thêu dệt, nói độc ác và nói hai chiều”; ba điều ác của “ý” là “tham lam, sân hận
và si mê”.
Ngoài ra còn có Tứ ân: ân tam bảo, ân người giúp đỡ, ân cha mẹ, ân quốc gia.
Từ những lợi ích bản thân do sự hành trì giới luật mang lại, người giữ giới đã
góp phần không nhỏ vào việc tạo dựng một gia đình hạnh phúc, một đất nước thái
Trang 13
bình thịnh vượng. Phật giáo đưa ra những chuẩn mực cụ thể để con người tụ tập,
phấn đấu. Phật giáo chủ trương hoàn thiện đạo đức con người theo hình mẫu của
nó. Những chuẩn mực đạo đức trong đạo Phật, nếu lược bỏ màu sắc mang tính tôn
giáo, sẽ là những nguyên tắc ứng xử phù hợp giữa người với người, rất có ích cho
việc duy trì đạo đức xã hội. Phật giáo không chỉ đơn thuần chuyển tải, hòa nhập
văn hóa và văn minh mà còn góp phần duy trì đạo đức xã hội nơi trần thế.
2.2. Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo đến đạo đức con người Việt Nam
2.2.1. Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo đến đạo đức con người Việt Nam ngày
xưa.
Trước khi Phật giáo du nhập, nước ta đã có một hệ thống tín ngưỡng, phong
tục trong dân gian vô cùng phong phú. Người Việt quan niệm rằng: “ Ông trời có
mắt có thể nhìn thấy mọi việc dưới đất, gieo nhân nào gặp quả ấy, ở hiền gặp
lành… Ông Trời có thuộc hạ gần xa, gần thì có ông Sấm, bà Sét, xa hơn có Sơn
Tinh, Thủy Tinh, thần Núi, Tản Viên, thần cây Đa, ông Táo… linh hồn con người
không hẳn là bất diệt, nhưng có thể tồn tại một thời gian khá lâu quanh quẩn bên
xác người chết và có thể ở chung với người thân thích còn sống trong một thời
gian để che chở, bảo hộ”. [3, tr.50]. Khi Phật giáo vào Viện Nam, tuy là giáo lý
nhà Phật không chấp nhận có một đấng ở trên cao, có thể nhìn thấy mọi vật ở dưới
đất, nhưng thuyết nhân quả nghiệp báo của nhà Phật phù hợp với quan niệm ông
Trời trừng phạt kẻ ác, thuyết luân hồi phù hợp với quan niệm tồn tại sau khi thân
xác tiêu hoại. Vì vậy, Phật giáo ứng hợp ngay với quan niệm văn hóa nhân gian.
Từ khi du nhập Việt Nam đến nhau, Phật giáo đã tồn tại và gắn liền với lịch
sử dân tộc, nó ngấm sâu vào tư duy và trở thành một bộ phận văn hóa, nếp sống
của người Việt. Về giáo lý nghiệp báo hay nghiệp nhân quả của Phật đã được
truyền vào nước ta rất sớm. Giáo lý này đương nhiên đã trở thành nếp sống tín
ngưỡng hết sức sáng tỏ đối với người Việt Nam có hiểu biết, có suy nghĩ. Nghiệp
báo luân hồi đã in dâu đậm nét trong văn chương bình dân, trong văn học chữ
Nôm, chữ Hán từ xưa cho đến nay để dẫn dắt từng thế hệ con người biết soi sáng
tâm trí mình vào lý nhân quả nghiệp báo mà hành động sao cho tốt đẹp hơn đem
lại hòa bình an vui cho con người. Mặt khác, họ hiểu rằng nghiệp nhân quả không
Trang 14
phải là định nghiệp mà có thể thay đổi, do đó họ tự biết sửa chữa, tu tập cải ác
tùng thiện. Sống ở đời, đột nhiên những tai họa, biến cố xảy ra cho họ, thì họ nghĩ
rằng kiếp trước mình vụng đường tu nên mới gặp khổ nạn này. Không than trời
trách đất, cam chịu và tự cố gắng tu tỉnh để chuyển hóa dần ác nghiệp kia.
Đạo lý ảnh hưởng nhất là giáo lý từ bi, tinh thần hiếu hòa, hiếu sinh của Phật
giáo đã ảnh hưởng và thấm nhuần sâu sắc trong nếp sống và tâm hồn người Việt.
Họ không những vị tha với nhau, mà còn vị tha với cả kẻ thù. Lịch sử đã từng ghi
lại rất nhiều rằng, với những tù binh chiến tranh, họ luôn được đối xử tử tế, được
mở đường hiếu sinh, được cấp đầy đủ quân trang khi trở về
Đặc biệt trong đạo lý tứ ân, ta thấy ân cha mẹ là nổi bật và ảnh hưởng rất sâu
đậm trong tình cảm và đạo lý người Việt. Đạo Phật rất chú trọng đến hiếu hạnh, và
đức Phật thuyết giảng đề tài này trong nhiều kinh khác nhau như kinh Báo Phụ
Mẫu Ân, kinh Thai Cốt, kinh Hiếu Tử, kinh Đại Tập, kinh Nhẫn Nhục, kinh Vu
Lan… nhắc đến công lao dưỡng dục của cha mẹ, Là người Việt Nam không thể
không kính hiếu cha mẹ, niềm tri ân hay báo ơn ấy đã trở thành bản tính tự nhiên,
ăn sâu vào tư tưởng tình cảm của người dân Việt. Tinh hoa và tinh thần cao đẹp
này không phải tự nhiên mà có, mà chính là nhờ ảnh hưởng của cả một nền giáo
dục, một tổ chức văn hóa từ ngàn xưa để lại, tương xứng với tư tưởng và phong
tục của dân tộc Việt. Trong tất cả những ảnh hưởng, lớn nhất và sâu rộng nhất
cũng vẫn là sự ảnh hưởng của đạo Phật, một tôn giáo, một nền giáo dục đã có mặt
với dân tộc từ buổi đầu của công nguyên, mà đạo Phật là đạo hiếu, lời dạy Phật về
việc nhớ ơn và báo ơn cha mẹ là những cảm giác suy tư in đậm trong lòng người
Việt.
Về sự ảnh hưởng quan niệm nhân quả, người Việt Nam thường nhắn nhủ
nhau chớ có danh lợi phù hoa, làm ác hại người để rồi chuốc lấy đau khổ. Hãy ăn
ở cho lương thiện rồi thế nào cũng gặp điều tốt lành, may mắn và hạnh phúc. Mọi
người phải ăn ở có đức có nhân, khi gặp người hoạn nạn khó khăn thì phải dang
Ngoài việc đi chùa sám hối, ở nhà vào ngày rằm, mùng một, họ sắm đèn,
nhang, hương hoa để dâng cúng tam bảo và tổ tiên, ông bà thể hiện lòng tôn kính,
thương nhớ đến những người quá cố và cụ thể hóa hành vi tu tâm dưỡng tính của
Trang 15
họ. Đây là một tập tục, nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống tinh thần, đạo
đức của người dân Việt. Bên cạnh đó, ăn chay và thờ Phật là hai việc đi đôi với
nhau của người Việt, nên người Việt dù không phải là Phật tử cũng thích ăn chay
và tập tục này đã ảnh hưởng sâu rộng trong mọi giai tầng xã hội Việt Nam từ xưa
đến nay. Đến ngày rằm và mùng một, người Việt thường hay mua chim, cá, rùa…
để đem về chùa chú nguyện rồi đi phóng sinh. Người Việt cũng thích làm phúc bố
thí và sẵn sàng giúp đỡ kẻ nghèo khó hoạn nạn, vào các ngày lễ lớn họ thường tập
trung về chùa để làm công đức.
Văn hóa Phật giáo Việt Nam được thể hiện trên rất nhiều phương diện mà
trọng tâm của văn hóa Phật giáo Việt Nam đó chính là đạo đức. Đạo đức Phật giáo
nhấn mạnh đến cách sống của con người trong môi trường xã hội Việt Nam. Nó
định hướng cho con người tư duy và hành động để đạt đến mục đích sống cao nhất
cho bản thân và cộng đồng xã hội, thậm chí là môi trường thiên nhiên. Đó là tính
thiện, tính hướng thiện. Phật giáo cũng củng cố cách sống nhân nghĩa, chân tình và
phù hợp với đạo đức truyền thống của người Việt Nam.
2.2.2. Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo đến đạo đức người Việt Nam hiện đại
Cùng với sự phát triển kinh tế, một loạt hiện tượng tiêu cực xuất hiện như
nghiện hút, cướp giật, trộm cắp, lừa đảo. Nhiều tăng ni, Phật tử cùng với nhân dân
không sợ khó khăn, nguy hiểm vẫn đến tận cùng ngõ hẻm của các gia đình có con
em lầm lỡ để giáo dục, thăm hỏi, động viên, tặng quà. Những nghĩa cử cao đẹp
mang nặng triết lý nhân sinh ấy giúp nhiều con người lầm lỡ, đau khổ được an ủi,
động viên, hướng thiện. Trong làm ăn kinh tế, một số người bằng tài năng nhạy
bén của mình đã tạo dựng nên của cải vật chất không nhỏ. Với quan niệm tiêu
dùng của cải vật chất hợp lý, không quá coi trọng tài sản đến mức trở thành nô lệ
của nó, không ăn của người, cuộc sống an vui giải thoát chỉ đạt được khi con
người đạt được chân, thiện, mỹ, hạnh phúc của người này có được không phải
bằng cách giẫm đạp lên hạnh phúc của người khác, phải đem an vui đến cho mọi
người, các doanh nhân đã chia sẻ cho những mảnh đời bất hạnh hơn để cuộc sống
của họ được tốt đẹp hơn. Phật giáo đã phần nào tác động tốt tới nhân cách lối sống
các tín đồ. Vào những ngày rằm, lễ tết các tín đồ thường đi dâng hương để cầu
Trang 16
chúc những điều may mắn cho gia đình và người thân qua đó các Phật tử cảm thấy
gắn bó với nhau hơn, nảy sinh lòng vị tha bao dung đối với mọi người, biết kính
trên nhường dưới… mang ý nghĩa giáo dục rất lớn.
Tuy nhiên, nước ta đang mở cửa giao lưu với thế giới, tham gia vào quá trình
hợp tác phân công lao động quốc tế và trong nước có nhiều diễn biến phức tạp, tuy
có nhiều thời cơ thuận lợi, nhưng cũng rất nhiều khó khăn thử thách tác động đến
nền tảng đạo đức dân tộc. Những tư tưởng tư sản như chủ nghĩa thực dụng, chủ
nghĩa tự do mới, chủ nghĩa đa nguyên chính trị và các thứ văn hóa phẩm đồi trụy
cũng xâm nhập vào nước ta. Mặt khác, lợi dụng ta mở cửa nền kinh tế, các thế lực
phản động quốc tế đang thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, tập trung vào
lĩnh vực tư tưởng văn hóa, đạo đức, nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam.Trong cơ chế thị trường, tiền bạc được dùng làm thước đo giá trị, người nào
kiếm được nhiều tiền thì càng thì càng được coi trọng, do vậy, nếu cha mẹ không
kiếm tiền được bằng con cái thì cũng rất khó dạy bảo con. Khi tiền bạc trở thành
mục tiêu của cuộc sống thì việc định hướng mục tiêu, lý tưởng của thanh niên
cũng bị phụ thuộc vào đồng tiền, sinh viên chỉ mong kiếm được việc làm và ngành
nghề hấp dẫn, có thể giúp họ mau chóng trở nên giàu có, những ngành nghề cao
quý hoặc được xã hội trọng vọng nhưng không đưa lại những cơ hội kiếm được
nhiều tiền không còn hấp dẫn thế hệ trẻ… Trong điều kiện kinh tế thị trường, đời
sống vật chất của con người ngày một nâng cao, và theo đó cũng xuất hiện những
điều kiện “thuận lợi” cho sự “thăng tiến” về đạo đức và tinh thần của con người
theo hướng “phú quý sinh lễ nghĩa” cùng với khả năng nảy sinh những giá trị đạo
đức tiêu cực. Khi vật chất được nâng cao, ở con người thường nảy sinh tâm lý
muốn hưởng thụ, tham lam, ích kỷ, làm giàu bằng mọi thủ đoạn… Đối với Phật
giáo, hiện tượng lạm dụng dân chủ, lạm dụng tín ngưỡng đã xảy ra. Chùa chiền
được mở rộng với quy mô trên mức bình thường. Bên cạnh những nhà tu hành
chân chính, nảy sinh hiện tượng một số kẻ lợi dụng thần Phật để mưu cầu hạnh
phúc cá nhân “trốn việc quan đi ở chùa”, coi tu hành là một nghề bất chính. Một số
vị trụ trì các chùa, trong hoạt động tôn giáo nặng nề kinh doanh hơn là đạo lý,
nhiều hành vi tôn giáo nặng về mê tín hơn là chính.
Trang 17
Xã hội trong giai đoạn hiện nay bên cạnh có nhiều tín đồ tiến bộ làm cho đạo
đạo đức xã hội ngày càng tốt đẹp thì cũng còn đó bao nhiêu thách thức khó khăn.
Điều đó đòi hỏi đạo Phật cần có sự phối hợp với các cơ quan hành chính nhà nước
với tuyên truyền thuyết giảng để mọi người hiểu hơn về Phật giáo mà quan trọng
là mọi người thấm nhuần tử tưởng tốt đẹp trong đạo đức Phật giáo để xã hội ngày
càng tốt đẹp hơn, giúp thế hệ trẻ vững bước trước những cám dỗ đời thường. Có
như thế chính là Phật giáo đã đóng góp giá trị văn hóa đạo đức trong việc xây
dựng nhân sinh, xây dựng lớp trẻ trong hiện tại cũng như trong tương lai hoàn mĩ.
2.2.3. Giải pháp để khắc phục tình trạng đạo đức trong giai đoạn hiện nay
Một thực tế không thể phủ nhận trong bối cảnh xã hội hiện nay là hiện trạng
một bộ phận lớn người dân Việt đang dần đánh mất những chuẩn mực đạo đức căn
bản như tham nhũng, mua bán chức quyền, đạo đức y tế xuống cấp, đạo đức giáo
dục băng hoại, đạo đức kinh doanh giảm sút, thái độ cửa quyền trong các tổ chức,
hành xử thô bạo giữa người với người, bạo lực học đường, các giá trị thiêng liêng
bị xâm phạm…
Và đâu là nguyên nhân đưa đến tình trạng đạo đức như hiện nay? Có nhiều ý
kiến cho vấn đề này: hậu quả của chính sách giáo dục xem nhẹ đạo đức, các văn
hóa ứng xử truyền thống đã không được coi trọng và tiếp nối trong một thời gian
dài, xã hội chưa tạo được nền tảng đạo đức văn hóa vững vàng cân bằng với sự
phát triển kinh tế, dẫn đến một đời sống hưởng thụ, ích kỷ; kỷ cương giáo dục gia
đình không được chú trọng; ảnh hưởng sâu nặng lối sống hưởng thụ và chủ nghĩa
cá nhân Phương Tây…
Chính vì lẽ đó, việc xây dựng đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường phải
là sự kết hợp một cách tổng thể giáo dục đạo đức và thi hành pháp luật. Nếu như
nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật thì tôn giáo quản lý con người bằng niềm
tin và đạo đức. Có nghĩa là, luật pháp chỉ trừng phạt, khi con người vi phạm pháp
luật, bằng hành vi cụ thể được biểu hiện bên ngoài, nhưng luật pháp không thể
cấm con người suy tư phi pháp ở bên trong. Cách giáo dục của Phật giáo không
những khuyên con người không được làm ác mà còn khuyên con người không
được suy nghĩ bất thiện từ trong ý thức. Như vậy,lối giáo dục Phật giáo không
Trang 18
những giúp con người có suy tư tốt, làm cơ sở cho sự phát triển mà còn giúp cho
sinh hoạt trong sự hòa bình tương thân, tương ái.
III.
KẾT LUẬN
Phật giáo là một trong những tôn giáo lớn của thế giới, sau khi Phật giáo
truyền vào Việt Nam được đa số người dân tin theo và mau chóng thành một tôn
giáo của đại bộ phận dân tộc. Cho đến nay, văn hóa Phật giáo trở thành một bộ
phận văn hóa của dân tộc. Phật giáo có ảnh hưởng rất lớn về mặt đạo đức, lối sống
của con người Việt Nam xưa và nay. Do vậy, tạo điều kiện cho Phật giáo phát
triển, điều đó đồng nghĩa tạo điều kiện cho nền văn hóa phát triển. Giữ gìn văn hóa
truyền thống của dân tộc có nghĩa là giữ gìn văn hóa Phật giáo, lấy con người làm
trung tâm và thấy được nỗi thống khổ của chúng sinh, mong muốn chúng sinh
được giải thoát khỏi vòng trầm luân biển khổ. Bằng chủ trương cứu nhân độ thế,
từ bi, hỷ xả, vô ngã, vị tha đạo Phật hướng con người tu tập nhân tâm vượt qua
mọi cám dỗ của cuộc sống đời thường để hoàn thành nhân cách.
Những chuẩn mực trong giá trị đạo đức của đạo Phật mang tính triết lý nhân
văn sâu sắc. Ngoài việc hoàn chỉnh đạo đức, nó còn ăn sâu và suy nghĩ, hành vi,
lối sống của mỗi con người góp phần nâng cao đạo đức truyền thống của dân tộc
ta. Ngày nay phương châm của Giáo hội Phật giáo Việt Nam là: “Đạo pháp – Dân
tộc – Chủ nghĩa xã hội” càng khẳng định tính chất gắn bó giữa Phật giáo với dân
tộc Việt Nam. Nền văn hóa dân tộc Việt Nam có những thay đổi hết sức căn bản và
theo đó bản thân Phật giáo cũng vận động theo xu thế vừa dân tộc vừa hiện đại
hóa, bắt nhịp, dung hòa với đời sống tư tưởng, tinh thần thế giới hiện đại.
Trong bối cảnh quốc tế phức tạp hiện nay, các thế lực chính trị thù địch lợi
dụng một số phần tử cực đoan trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam để chống phá
cách mạng, đi ngược lại với lợi ích dân tộc ,âm mưu sử dụng ngọn cờ nhân quyền
gắn với tôn giáo hòng xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Vì vậy, một mặt phải duy
trì được những mặt tích cực trong tôn giáo, mặt khác phải đề cao cảnh giác để
chống lại âm mưu của kẻ địch. Phật giáo thay đổi sao cho phù hợp với hoàn cảnh ở
nước ta, phát huy hết vai trò tích cực của mình để góp phần thúc đẩy xã hội phát
triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trang 19
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lưu Trường Cửu (2009), Nền văn hóa Phật giáo Trung Quốc, Nxb Đồng Nai,
Đồng Nai.
2. Đỗ Quang Hưng (10/1997), Tôn giáo và khoan dung, trường hợp Việt Nam, Tạp
chí triết học, số 5.
3. Nguyễn Lang (1992), Việt Nam Phật giáo sử luận, Nxb Văn Hóa, Hà Nội.
4. PGS, TS Nguyễn Đức Lữ (2007), Lý luận về tôn giáo và chính sách tôn giáo ơ
Việt Nam, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
5. Trần Đăng Sinh (2002), Những khía cạnh triết học trong tín ngưỡng thờ cúng tô
tiên của người Việt ơ đồng bằng Bắc Bô, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6. Lê Mạnh Thát (2002), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb Tp. Hồ Chí Minh, Tp.
Hồ Chí Minh.
7. Thích Chơn Thiện (1993), Hôi thảo “Đạo đức Phật giáo”, Viện nghiên cứu
Phật học Việt Nam, Tp. Hồ Chí Minh.
8. TS. Nguyễn Ngọc Thu (2003), Giáo trình Đại cương lịch sử triết học, Nxb
Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.
9. Thích Thanh Từ 92005), Bước đầu Phật học, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
10. Nguyễn Hữu Vui (1993), Tôn giáo và đạo đức - nhìn từ mặt triết học, Tạp chí
triết học, số 4.
11. Nguyễn Hữu Vui – Trương Hải Cường (2003), Tập bài giảng tôn giáo học,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Trang 20