Tải bản đầy đủ (.docx) (123 trang)

Dự báo thu thuế giá trị gia tăng tại tổng cục thuế bộ tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (541.88 KB, 123 trang )

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn thạc sỹ “Dự báo thu thuế Giá trị gia tăng
tại Tổng cục Thuế - Bộ Tài chính” là công trình nghiên cứu độc lập của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả, ý kiến nêu trong Luận văn là trung thực, có
nguồn gốc rõ ràng và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nghiên
cứu khoa học nào trước đây.

Hà Nội, ngày 08 tháng 01 năm 2020
Tác giả

Nguyễn Thị Thanh Nhàn


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN
LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................1
Chương 1:CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG VÀ DỰ BÁO
THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG.............................................................................7
1.1. Cơ sở lý luận chung về thuế giá trị gia tăng...............................................7
1.1.1. Khái niệm:...............................................................................................7
1.1.2. Vai trò của thuế giá trị gia tăng............................................................... 8
1.2. Cơ sở lý thuyết chung về dự báo thu thuế GTGT.................................... 12
1.2.1. Khái niệm dự báo thu thuế GTGT........................................................ 12
1.2.2. Vai trò của dự báo thu thuế GTGT........................................................12
1.2.3. Nguyên tắc trong dự báo thu thuế GTGT............................................. 14
1.2.4. Các phương pháp dự báo thu thuế GTGT.............................................15
1.2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng công tác dự báo thu thuế giá trị
gia tăng............................................................................................................27
1.3. Kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới về phân tích, dự báo thu


thuế GTGT và bài học cho Việt Nam..............................................................29
1.3.1. Dự báo thu thuế GTGT trên thế giới.....................................................29
1.3.2. ài học cho Việt Nam........................................................................... 33
Chương 2:THỰC TRẠNG CÔNG TÁC DỰ BÁO THU THUẾ GIÁ TRỊ GIA

TĂNG TẠI TỔNG CỤC THUẾ..................................................................... 35
2.1. Hệ thống chính sách thuế GTGT của Việt Nam hiện nay........................35
2.2. Phân tích, dự báo thu thuế GTGT hiện nay tại Tổng cục Thuế...............39
2.2.1. Vị trí, vai trò của thuế GTGT trong tổng thu NSNN............................ 39
2.2.2. Quy trình phân tích, dự báo thu thuế GTGT.........................................40


2.2.3. Phương pháp phân tích, dự báo thu thuế GTGT...................................42
2.3.1. Kết quả đạt được...................................................................................53
2.3.2. Một số hạn chế:.....................................................................................54
2.3.3. Nguyên nhân:........................................................................................58
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC DỰ
BÁO THU THUẾ THÔNG QUA VIỆC ỨNG DỤNG CÁC MÔ HÌNH DỰ
BÁO THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG................................................................. 65
3.1. Bối cảnh kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế, xu hướng đổi mới, cải
cách, hiện đại hoá trong công tác phân tích, dự báo thuế GTGT....................65
3.1.1. Tình hình kinh tế trên thế giới...............................................................65
3.1.2. Bối cảnh kinh tế xã hội trong nước.......................................................65
3.1.3. Xu hướng đổi mới, cải cách, hiện đại hóa công tác phân tích, dự báo thu

thuế GTGT trên thế giới..................................................................................68
3.2. Mục tiêu, yêu cầu đối với công tác phân tích, dự báo thu thuế GTGT
trong thời gian tới............................................................................................70
3.2.1. Mục tiêu chung về công tác dự báo thu trong chiến lược cải cách hệ
thống thuế của Tổng cục.................................................................................70

3.2.2. Mục tiêu cụ thể đối với công tác dự báo thuế GTGT............................70
3.3. Các giải pháp nâng cao chất lượng công tác dự báo thu thuế GTGT.......74
3.3.1. Nhóm giải pháp về đổi mới phương pháp dự báo thu thuế GTGT bằng
các mô hình dự báo tiên tiến........................................................................... 74
3.3.2. Nhóm giải pháp về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực làm công tác
dự báo thu thuế................................................................................................92
3.3.3. Nhóm giải pháp về Hệ thống hóa cơ sở dữ liệu về thuế GTGT phục vụ
cho phân tích, dự báo thu thuế GTGT.............................................................96
3.3.4. Nhóm giải pháp về hoàn thiện hệ thống chính sách thuế GTGT..........99


3.4. Lựa chọn mô hình phù hợp và ứng dụng một số mô hình dự báo thu thuế
GTGT tại Tổng cục Thuế..............................................................................101
3.4.1. Lựa chọn mô hình phù hợp cho Tổng cục và phạm vi ứng dụng các mô
hình................................................................................................................101
3.4.2. Lộ trình triển khai:.............................................................................. 103
3.5. Điều kiện để thực hiện các giải pháp.....................................................104
3.6. Kiến nghị:...............................................................................................106
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG

Ố, HỘI

THẢO, ĐÀO TẠO LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN..................................110
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................ 118


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN
AFTA

Khu vực thương mại tự do Đông Nam Á


ASEAN

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

BTC

Bộ Tài chính

CEPT

Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung

CNTT

Công nghệ thông tin

CPB

Trung tâm dự báo và phân tích chính sách kinh tế Hà Lan

CPI

Chỉ số giá

CQT

Cơ quan thuế

DN


Doanh nghiệp

DNNN

Doanh nghiệp nhà nước

DT

Dự toán

EU

Liên minh châu Âu

GDP

Tổng sản phẩm trong nước

GNI

Tổng thu nhập quốc gia

GST

Thuế tiêu dùng

GTGT

Giá trị gia tăng


HĐND

Hội đồng nhân dân

IMF

Quỹ tiền tệ quốc tế

I-O

Bảng cân đối liên ngành đầu vào - đầu ra

IRAS

Cơ quan thu nội địa Singapore

IRD

Cơ quan Thu Nội địa Newzealand

IRS

Cơ quan thuế Mĩ

KH-ĐT

Kế hoạch và Đầu tư

KTDL


Ứng dụng khai thác dữ liệu thuế

KTXH

Kinh tế - xã hội


NS

Ngân sách

NSD

Người sử dụng

NSNN

Ngân sách nhà nước

NNT

Người nộp thuế

NVV

Nhỏ và vừa

OECD


Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế

PIT

Thuế thu nhập cá nhân

QLT

Ứng dụng quản lý thuế cấp Cục

QTC

Ứng dụng quản lý thuế cấp Tổng cục

SX-KD

Sản xuất kinh doanh

TADAT

Bộ công cụ chẩn đoán đánh giá hiệu quả quản lý thuế (Tax
Administration Diagnostic Assessment Tool)

TCT

Tổng cục Thuế

TH-NV-DT

Tổng hợp - nghiệp vụ - dự toán


TNDN

Thu nhập doanh nghiệp

TPH

Ứng dụng tập trung cơ sở dữ liệu thuế

TTĐ

Tiêu thụ đặc biệt

TNDN

Thu nhập doanh nghiệp

UBND

Ủy ban nhân dân

VAT

Thuế giá trị gia tăng

WB

Ngân hàng thế giới



LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận văn
Thuế GTGT được áp dụng tại Việt Nam bắt đầu từ năm 1999 thay thế
cho thuế doanh thu đã tồn tại trong một thời gian dài. Kể từ khi áp dụng đến
nay, thuế GTGT đã phát huy tốt vai trò là một trong các sắc thuế chính của hệ
thống thuế hiện đại của Việt Nam. Góp phần tạo ra nguồn thu ổn định của
ngân sách Nhà nước, là một công cụ phân phối thu nhập quốc dân, thực hiện
điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Đặc điểm của thuế GTGT là loại thuế gián thu đánh vào phần giá trị tăng
thêm qua mỗi khâu từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Những chính sách về
thuế GTGT có tác động lớn đến đời sống xã hội và tăng trưởng kinh tế. Thuế
GTGT là công cụ điều tiết vĩ mô có hiệu quả nền kinh tế của Chính phủ. Đối với
ngân sách quốc gia, thuế GTGT là nguồn thu chủ yếu của Ngân sách nhà nước,
tính đến cuối năm 2016, tổng số thu từ thuế GTGT chiếm tỷ trong xấp xỉ 20%
trong tổng thu NSNN. Trong điều kiện kinh tế khó khăn hiện nay, cạnh tranh
giữa các quốc gia trên thế giới bằng chính sách thuế diễn ra ngày càng gay gắt,
thu ngân sách nhà nước còn nhiều khó khăn, yêu cầu phải sử dụng các công cụ
hiện đại về phân tích, dự báo thu để hoạch định chính sách thuế GTGT cũng như
dự báo số thu thuế giá trị gia tăng. Tại Việt Nam, hiện nay, việc nghiên cứu ứng
dụng các mô hình dự báo thu ngân sách nói chung mới được nghiên cứu ở mức
tổng quát vĩ mô như: “Mô hình kinh tế lượng thử nghiệm dự báo về thuế tiêu thụ
đặc biệt” - đề tài cấp Bộ do Vụ Chính sách thuế thực hiện năm 2003 hay “Thử
nghiệm áp dụng mô hình kinh tế lượng trong phân tích, dự báo thu ngân sách nhà
nước” - Đề tài cấp Bộ của Vụ chính sách thuế - năm 2005; Đề án phân tích dự
báo thu bằng các mô hình kinh tế năm 2005 của Tổng cục Thuế, đề tài cấp Bộ về
“ Đổi mới quy trình, phương pháp xây dựng dự toán thu NSNN” của Tổng cục
Thuế năm 2014... Chưa có một nghiên cứu chuyên sâu nào về các mô hình dự
báo thu riêng đối với thuế

1



GTGT. Những kết quả nghiên cứu cũng mới chỉ được áp dụng thử nghiệm để
kiểm nghiệm kết quả thu đã thực hiện trong quá khứ, chưa được nghiên cứu,
đánh giá toàn diện để triển khai ứng dụng rộng rãi trong công tác hoạch định
chính sách cũng như dự báo, lập dự toán thu NSNN. Yêu cầu đặt ra hiện nay
là cần có các công cụ, mô hình dự báo thu NSNN nói chung và thuế GTGT
nói riêng để nâng cao chất lượng hoạch định chính sách cũng như công tác dự
báo, lập dự toán thu ngân sách, đặc biệt trong bối cảnh phải thực hiện Luật
NSNN năm 2015, từ năm 2017 Việt Nam sẽ bắt đầu triển khai lập kế hoạch tài
chính trung hạn 3 năm và xây dựng kế hoạch tài chính 5 năm. Do đó, tôi đã
nghiên cứu đề tài “Dự báo thu thuế giá trị gia tăng tại Tổng cục Thuế - Bộ
Tài chính”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Ngoài nước: Phân tích, dự báo là hoạt động quan trọng, không thể tách
rời trong công tác xây dựng chính sách cũng như tổ chức quản lý thu ngân
sách ở các quốc gia. Hầu hết các nước phát triển trên thế giới như Mỹ, Hàn
Quốc, Hà Lan, Singapore,... đều sử dụng phương pháp mô hình hóa để dự báo
số thu trong đó có số thu thuế GTGT, phục vụ cho công tác lập kế hoạch chi
tiêu NS của chính phủ; đánh giá mức độ tuân thủ của người nộp thuế và đặc
biệt phục vụ cho công tác phân tích, hoạch định chính sách thu. Mức độ phức
tạp của các mô hình phụ thuộc vào mục tiêu sử dụng mô hình đó cho công tác
gì và hệ thống cơ sở dữ liệu hiện có của mỗi nước.
Trong nước: Tại Việt Nam chủ yếu vẫn sử dụng phương pháp phân tích
dự báo truyền thống, phân tích dự báo thu thông qua các mô hình mới chỉ ở
mức nghiên cứu, thử nghiệm. Việc áp dụng các phương pháp phân tích dự báo
truyền thống không đáp ứng được yêu cầu của công tác quản lý kinh tế tài
chính của đất nước trong giai đoạn hội nhập và thực hiện tiến trình cải cách,
đổi mới.


2


Hiện nay, trong cơ quan ộ Tài chính đã có Viện chiến lược chính sách tài
chính, Viện Khoa học Tài chính (thuộc Học viện Tài chính) và Vụ Chính sách
thuế nghiên cứu và xây dựng một số mô hình phân tích, dự báo thu bằng mô
hình kinh tế lượng sử dụng trong công tác dự báo thu và hoạch định chính
sách thu khi tham gia hội nhập…
Một số đề tài, đề án, hội thảo khoa học nghiên cứu về phân tích, dự báo
của Bộ Tài chính gần đây như: (i) Đề tài “Xây dựng mô hình kinh tế lượng vĩ
mô của Việt Nam”, 2012 Đề tài NCKH cấp Bộ, Đặng Ngọc Tú, nhóm phân
tích dự báo của Viện CL& CSTC. (ii) Đề tài “Xây dựng phương pháp tính
toán và dự báo số thu ngân sách đối với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng
hoá ngành hải quan”, Đề tài NCKH cấp Bộ năm 2013, TS Nguyễn Ngọc Túc,
Tổng cục Hải quan. (iii) Tọa đàm khoa học: Xây dựng mô hình dự báo thu
ngân sách nhà nước, do Viện Chiến lược và Chính sách tài chính tổ chức
6/2013. (iv) Hội thảo khoa học: “Xây dựng hệ thống dữ liệu phục vụ công tác
phân tích dự báo và hoạch định chính sách, chiến lược tài chính” do Viện
Chiến lược và Chính sách tài chính và Cục Tin học và Thống kê tài chính tổ
chức 9/2013.
Tại Tổng cục Thuế, công tác nghiên cứu xây dựng mô hình dự báo thu
NSNN được bắt đầu triển khai nghiên cứu từ năm 2006. Một số đề tài nghiên
cứu và ứng dụng các mô hình dự báo thu NSNN được triển khai tại Tổng cục
Thuế như: (i) Đề án “Thực hiện phân tích dự báo thu thuế bằng mô hình kinh
tế lượng”, an Dự toán thu thuế, 2006. (ii) Đề tài Luận văn thạc sỹ “Phân tích,
dự báo thu NSNN, thực trạng và giải pháp”, 2005, Phạm Thị Tuyết Lan.
(iii) Tài liệu giáo trình bồi dưỡng nghiệp vụ Phân tích dự báo thu NSNN của Vụ
Dự toán thu thuế, Tổng cục Thuế, 2011. Tổng cục Thuế đã thông qua tại Quyết
định số 530/QĐ-TCT ngày 2/5/2012. (iv) Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ Tài
chính năm 2013, “Hoàn thiện quy trình, phương pháp xây dựng dự


3


toán thu NSNN”, ùi Văn Nam, Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế, đơn vị thực
hiện: Vụ Dự toán thu thuế, 2014.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích: Nghiên cứu cơ sở lý thuyết về thuế GTGT và dự báo thuế
GTGT, xây dựng, ứng dụng các mô hình dự báo thuế GTGT phục vụ cho
công tác phân tích, đánh giá, điều hành thu, chi NS và xây dựng dự toán thu
NSNN hàng năm; phục vụ cho công tác đánh giá mức độ tuân thủ đối với thuế
GTGT; phục vụ cho công tác hoạch định chính sách thuế GTGT. Xây dựng
được các mô hình dự báo thu thuế GTGT tiên tiến, hiện đại phục vụ cho công
tác dự báo thu ngân sách hàng năm, hàng quý, hàng tháng.
- Nhiệm vụ: Nhiệm vụ đặt ra đối với công tác nghiên cứu đề tài là phân
tích, đánh giá toàn diện về cơ sở thu thuế GTGT của Việt Nam so với chuẩn
quốc tế, nguyên lý quản lý, phát sinh nguồn thu của sắc thuế GTGT của Việt
Nam, nghiên cứu các quy định của chính sách, pháp luật thuế GTGT hiện
hành của Việt Nam, sử dụng các kỹ thuật, mô hình dự báo hiện đại để đưa ra
những nhận định, đánh giá về công tác quản lý thu thuế GTGT hiện nay đảm
bảo tính khoa học, tiên tiến. Từ đó đổi mới công tác dự báo thu thuế GTGT.
Đây là điểm nhấn quan trọng trong đổi mới, hiện đại hóa công tác dự báo thu
thuế, đồng thời cũng tạo điều kiện để chuyên nghiệp hóa công tác hoạch định
chính sách thông qua việc đánh giá tác động cụ thể đối với nền kinh tế - xã
hội khi sửa đổi, bổ sung hay xây dựng chính sách thuế GTGT.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của Đề tài là công tác dự

báo thu thuế GTGT tại Tổng cục Thuế, số thuế GTGT được sử dụng trong đề
tài là tổng số thuế GTGT của ngành Thuế (tức là cộng từng số thuế GTGT của

từng Cục Thuế các tỉnh, thành phố để lên tổng thể số thuế GTGT của toàn
ngành thuế).

4


- Phạm vi nghiên cứu: Các số liệu, báo cáo được sử dụng để nghiên cứu
trong đề tài giới hạn trong khoảng thời gian từ năm 2011-2018 khi mà Việt
Nam chuyển từ thuế doanh thu sang áp dụng thu thuế giá trị gia tăng theo
Luật thuế GTGT.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Phương pháp luận: Trên cơ sở tổng kết, đánh giá nhận xét toàn bộ về
thực trạng công tác dự báo thu thuế GTGT trong những năm qua, đối chiếu
với cơ sở lý thuyết chung về thuế GTGT, phân tích, dự báo thu thuế GTGT và
kinh nghiệm quốc tế về vấn đề dự báo thuế GTGT của các nước trên thế giới,
xu hướng phát triển chung của thế giới và thực tiễn đòi hỏi của Việt Nam
trong những năm tới để định hướng đổi mới phương pháp dự báo thu thuế
GTGT ở Việt Nam nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dự báo, xây
dựng dự toán và hoạch định chính sách thuế GTGT.
- Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp luận chủ yếu được sử dụng là

phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử được thực
hiện xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu lí luận và thực tiễn liên quan đến
đề tài nghiên cứu. Phương pháp cụ thể được sử dụng chủ yếu là phương pháp
suy diễn thống kê kết hợp với một số mô hình kinh tế để có thể ứng dụng
trong phân tích, dự báo thu thuế GTGT. Kỹ thuật sử dụng với sự trợ giúp của
các phần máy tính để rút số liệu, thu thập thông tin về người nộp thuế trên
mạng thông tin nội bộ ngành thuế hiện nay, đồng thời tiến hành thu thập
nguồn dữ liệu thông tin thực tế ngoài ngành thuế như các chỉ tiêu tăng trưởng
kinh tế GDP, chỉ số giá, giá trị sản xuất của các ngành…, số thuế thu được qua

các năm và phương pháp đánh giá, tổng kết thực tiễn công tác quản lý thu
thuế ở Việt nam để đưa ra những nhận định ban đầu, bước tiếp theo là tiến
hành phân tích sâu hơn về nguyên nhân và kết quả, điều chỉnh, loại trừ… từ
đó đưa ra những kết luận, nhận định sau cùng.

5


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Đối với công tác xây dựng dự toán thu thuế: Kết quả mô hình dự báo số
thu NS được sử dụng làm căn cứ để thực hiện xây dựng dự toán, thảo luận và
giao dự toán thu NS hàng năm cho các địa phương.
- Đối với công tác hoạch định chính sách: Sử dụng mô hình dự báo thuế
GTGT phục vụ cho công tác hoạch định chính sách thuế GTGT đáp ứng yêu
cầu điều tiết vĩ mô nền kinh tế và phát triển KTXH trong giai đoạn hội nhập
và phát triển.
- Đối với công tác quản lý: Kết quả của mô hình dự báo thu được sử
dụng trong đánh giá mức độ tuân thủ của người nộp thuế và chất lượng công
tác quản lý thu đối với thuế GTGT.
7. Kết cầu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
Luận văn được kết cấu gồm 3 chương như sau:
- Chương 1: Cơ sở lý thuyết về thuế GTGT và dự báo thuế GTGT.
- Chương 2: Thực trạng công tác dự báo thu thuế GTGT tại Tổng cục Thuế.

- Chương 3: Định hướng nâng cao chất lượng công tác dự báo thu thuế
GTGT trong thời gian tới.

6



Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG VÀ DỰ BÁO THUẾ
GIÁ TRỊ GIA TĂNG
1.1. Cơ sở lý luận chung về thuế giá trị gia tăng
1.1.1. Khái niệm:
Thuế giá trị gia tăng là loại thuế gián thu đánh trên phần giá trị tăng thêm
của hàng hóa, dịch vụ qua các khâu từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Vào
năm 1954, Pháp là nước đầu tiên trên thế giới ban hành Luật Thuế giá trị gia
tăng -Taxe sur la Valeur Ajou tée (viết tắc là TVA), tiếng Anh gọi là Value
Added Tax (viết tắt là VAT) . Ngày nay, thuế giá trị gia tăng đã được nghiên
cứu và áp dụng rộng rãi tại hơn 150 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới
như: khối Liên minh Châu Âu (EU), châu Phi, châu Mỹ La Tinh và một số
quốc gia Châu Á trong đó có Việt Nam.
Tại Việt Nam, Luật thuế GTGT được xây dựng và thông qua tại kỳ họp
lần thứ 11 Quốc hội khoá 9 và có hiệu lực thi hành bắt đầu từ ngày 1/1/1999
và đã dần được hoàn thiện qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung nhiều lần vào các
năm 2003, 2008, 2013, 2014, 2016 theo hướng ngày càng minh bạch, đơn
giản, và công bằng, qua quá trình triển khai thực hiện, Luật thuế GTGT đã có
những đóng góp tích cực cho ngân sách nhà nước cũng như phát triển kinh tế
- xã hội của Việt Nam.
Theo quy định của Luật thuế giá trị gia tăng thì thuế giá trị gia tăng là
một loại thuế gián thu đánh trên giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát
sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
Ðây là một loại thuế đánh vào mỗi giai đoạn từ khâu sản xuất, lưu thông
sản phẩm hàng hoá, từ khi còn là nguyên liệu thô sơ cho đến sản phẩm hoàn
thành và cuối cùng là khâu tiêu dùng sản phẩm hàng hóa, dịch vụ và do người
tiêu dùng chịu khi mua hàng hoá, sử dụng dịch vụ.

7



1.1.2. Vai trò của thuế giá trị gia tăng
Cũng như các sắc thuế khác, Thuế giá trị gia tăng thực hiện hai chức
năng cơ bản của thuế là huy động nguồn lực cho ngân sách quốc gia và điều
tiết vĩ mô nền kinh tế. Tuy nhiên, trong tổng số các khoản thu, sắc thuế hiện
hành của Việt Nam, thuế GTGT có vai trò đặc biệt, là sắc thuế chiếm tỷ trọng
cao nhất trong tổng thu ngân sách quốc gia và là loại thuế có tác động sâu
rộng nhất đối với nền kinh tế.
1.1.2.1. Đối với thu ngân sách nhà nước
Thuế giá trị gia tăng thuộc loại thuế gián thu và được áp dụng rộng rãi
đối với mọi tổ chức, cá nhân có tiêu dùng sản phẩm hàng hoá hoặc được cung
ứng dịch vụ, nên tạo được nguồn thu lớn và tương đối ổn định cho ngân sách
nhà nước. Nếu không kể số thuế thu từ dầu thô thì thuế GTGT hiện là sắc thuế
chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng thu NSNN và đang có xu hướng tăng cả về
quy mô và tỷ trọng thu trong tổng thu NSNN (giai đoạn 2006-2010 chiếm
22,6% tổng thu NSNN, giai đoạn 2011-2015 tăng lên 25,6%, giai đoạn 20162018 chiếm 24,3% tổng thu NSNN). Hiện tại, số thu từ thuế GTGT là khoản
thu có điều tiết về NS trung ương theo tỷ lệ nhất định đối với một số địa
phương có số thu lớn, do đó, đây là nguồn thu quan trọng giúp đảm bảo cân
đối NS trung ương, góp phần đáp ứng các nhiệm vụ chi của Chính phủ.
1.1.2.2. Đối với việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế
Thuế GTGT là công cụ rất quan trọng để Nhà nước thực hiện chức năng
quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế. Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, do đó thuế giá trị
gia tăng có vai trò rất quan trọng như sau:
- Thuế giá trị gia tăng đã góp phần ổn định giá cả, mở rộng lưu
thông hàng hoá, đẩy mạnh xuất khẩu. Năm 1998 trở về trước, Luật thuế
doanh thu quy định doanh thu phát sinh là cơ sở để thực hiện chế độ thu nộp

8



thuế. Do đó Nhà nước đánh thuế trên toàn bộ doanh thu phát sinh của sản
phẩm qua mỗi lần chuyển dịch từ khâu sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Nếu
các sản phẩm, hàng hoá chịu thuế càng qua nhiều khâu thì số thuế Nhà nước
thu cũng tăng thêm qua các khâu nên việc áp dụng thuế doanh thu dẫn đến
tình trạng thuế thu trùng lặp đối với phần doanh thu đã chịu thuế ở công đoạn
trước. Ðiều đó mang tính bất hợp lý, tác động tiêu cực đến sản xuất và lưu
thông hàng hoá.
Với tính đặc điểm của thuế giá trị gia tăng là Nhà nước chỉ thu thuế đối
với phần giá trị tăng thêm của các sản phẩm ở từng khâu sản xuất, lưu thông
mà không thu thuế đối với toàn bộ doanh thu phát sinh như thuế doanh thu.
Trong điều kiện nền kinh tế ổn định có sự tăng trưởng bình thường, việc áp
dụng thuế giá trị gia tăng thay cho thuế doanh thu sẽ không ảnh hưởng gì đến
giá cả các sản phẩm tiêu dùng, mà trái lại giá cả càng hợp lý hơn, chính xác
hơn vì tránh được việc đánh thuế chồng lên thuế, do đó, thuế GTGT có tác
dụng khuyến khích sản xuất cũng như tiêu dùng trong nền kinh tế thị trường.
Ðối với hoạt động xuất nhập khẩu, số thuế giá trị gia tăng đầu vào của
hàng hóa xuất khẩu được khấu trừ, hoàn thuế có tác dụng giảm chi phí, hạ giá
thành sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng xuất khẩu, khuyến
khích, thúc đẩy xuất khẩu.
Theo nghiên cứu và thống kê của ngân hàng thế giới (W ) và Quỹ tiền tệ
quốc tế (IMF) thì phần lớn các nước trong đó có cả Việt Nam sau khi áp dụng
thuế giá trị gia tăng, giá cả các loại hàng hoá, dịch vụ đều không thay đổi hay
chỉ thay đổi một tỷ lệ không đáng kể và mức sản xuất của các doanh nghiệp,
mức tiêu dùng của dân chúng không sút giảm, hay chỉ suất giảm một tỷ lệ nhỏ
trong thời gian đầu, kể cả các trường hợp điều chỉnh tăng thuế suất thuế giá trị
gia tăng đối với một số mặt hàng theo định kỳ. Như vậy ta có thể thấy rằng
thuế giá trị gia tăng không phải là một nhân tố gây ra lạm phát, gây


9


khó khăn trở ngại cho việc phát triển sản xuất, lưu thông hàng hoá mà trái lại,
việc áp dụng thuế giá trị gia tăng đã góp phần ổn định giá cả, mở rộng lưu
thông hàng hoá, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển và đẩy mạnh xuất khẩu.
- Thuế GTGT khuyến khích đầu tư, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh
doanh. Việc thực hiện luật thuế GTGT tạo điều kiện cho giá thành các công
trình đầu tư xây dựng cơ bản, giảm so với trước đây, toàn bộ thuế GTGT của
công trình xây dựng cơ bản được hạch toán riêng không tính vào giá thành công
trình như thuế doanh thu, vì vậy chi phí khấu hao tài sản cũng giảm thấp hơn.
Các doanh nghiệp mua sắm tài sản cố định có thuế GTGT đều được khấu trừ
hoặc hoàn thuế. Thực hiện thuế GTGT còn thúc đẩy sản xuất kinh doanh, lưu
thông hàng hóa phát triển do thuế GTGT chỉ thu thêm giá trị tăng thêm của hàng
hóa, dịch vụ qua các khâu sản xuất, lưu thông đến khâu tiêu dùng cuối cùng với
2 phương pháp tính thuế: phương pháp khấu trừ và phương pháp trực tiếp trong
đó áp dụng chủ yếu là phương pháp khấu trừ thuế đã khắc phục được nhược
điểm của thuế doanh thu là thuế chồng lên thuế, đã thúc đẩy công nghiệp hóa,
hiện đại hóa sản xuất như: lắp ráp xe máy, ô tô , điện tử...

- Thuế GTGT góp phần minh bạch hóa trong các giao dịch kinh tế,
thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh, thúc đẩy nền kinh tế triển lành mạnh.
Do tính chất của thuế GTGT là chỉ đánh trên phần giá trị tăng thêm của các khâu
sản xuất kinh doanh, thuế đánh ở khâu sau được phép khấu trừ phần đã nộp ở
khâu trước, nên đã nâng cao được tính tự giác trong việc thực hiện mua bán hàng
hoá có hoá đơn chứng từ. Việc tính thuế đầu ra được khấu trừ số thuế đầu vào là
biện pháp kinh tế góp phần thúc đẩy cả người mua và người bán cùng thực hiện
tốt hơn chế độ hoá đơn, chứng từ. Việc kiểm tra thuế giá trị gia tăng cũng có mặt
thuận lợi vì đã buộc người mua, người bán phải nộp và lưu giữ chứng từ, hoá
đơn đầy đủ nên việc thu thuế tương đối sát với hoạt động kinh doanh từ đó tập

trung được nguồn thu thuế giá trị gia tăng vào ngân

10


sách nhà nước ngay từ khâu sản xuất và thu thuế ở khâu sau còn kiểm tra
được việc tính thuế, nộp thuế ở khâu trước nên hạn chế thất thu về thuế.
1.1.3. Nguyên tắc đánh thuế của thuế giá trị gia tăng:
Nguyên tắc đánh thuế GTGT là đánh trên khoản giá trị tăng thêm của
hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu
dùng và được nộp vào ngân sách Nhà nước theo mức độ tiêu thụ hàng hóa,
dịch vụ.
Một trong những nguyên tắc cơ bản của thuế giá trị gia tăng là sản phẩm,
hàng hoá dù qua nhiều khâu hay ít khâu từ sản xuất đến tiêu dùng, đều chịu
thuế như nhau. Người bán hàng (hoặc cung cấp dịch vụ) chỉ phải nộp thuế
trên phần giá trị tăng thêm. Thuế giá trị gia tăng là loại thuế duy nhất thu theo
phân đoạn chia nhỏ, trong quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá (hoặc dịch
vụ) từ khâu đầu tiên đến người tiêu dùng cuối cùng. Ðến cuối chu kỳ sản xuất,
kinh doanh hoặc cung cấp dịch vụ, tổng số thuế thu được ở các công đoạn sẽ
khớp với số thuế tính trên giá bán hàng hoá hoặc giá dịch vụ cho người tiêu
dùng cuối cùng.
Thuế giá trị gia tăng không chịu ảnh hưởng bởi kết qủa sản xuất, kinh
doanh của đối tượng nộp thuế, không phải là yếu tố của chi phí mà chỉ đơn
thuần là một khoản được cộng thêm vào giá bán của đối tượng cung cấp hàng
hóa, dịch vụ.
Thuế giá trị gia tăng do người tiêu dùng chịu nhưng không phải do người
tiêu dùng trực tiếp nộp mà là do người bán sản phẩm (hoặc dịch vụ) nộp thay vào
NSNN, do trong giá bán hàng hoá (hoặc trong giá dịch vụ) đã bao gồm cả thuế
giá trị gia tăng. Vì qua từng công đoạn, thuế giá trị gia tăng đã được người bán
đưa vào giá hàng hoá, dịch vụ cho nên thuế này được chuyển toàn bộ cho người

mua hàng hoá hoặc sử dụng dịch vụ cuối cùng chịu.

11


1.2. Cơ sở lý thuyết chung về dự báo thu thuế GTGT.
1.2.1. Khái niệm dự báo thu thuế GTGT
Dự báo là quá trình tìm kiếm các xu hướng vận động và phát triển của
các hiện tượng kinh tế, xã hội trong tương lai dưới tác động của những nhân
tố mới. Nói cách khác, đó chính là sự khái quát xu hướng, từ đó nhận định,
ước lượng, tính toán về khả năng phát triển của các nội dung kinh tế, xã hội
dưới tác động của các yếu tố mới xuất hiện trong tương lai.
Muốn dự báo được tương lai phải có phân tích về quá khứ, hiện tại. Vì
vậy, cũng có thể hiểu, dự báo kinh tế nói chung là một quá trình nhận thức,
đánh giá quá khứ để đề xuất ra mô hình cho tương lai dưới tác động của các
yếu tố dự kiến sẽ xuất hiện trong tương lai.
Dự báo thu thuế GTGT là sự tiên đoán có căn cứ khoa học, mang tính
chất xác suất về mức độ, nội dung, các mối quan hệ, trạng thái, xu hướng phát
triển của số thu thuế GTGT trong 1 khoảng thời gian nhất định ở tương lai.
Thực chất dự báo thu thuế GTGT là quá trình sử dụng các phương pháp thích
hợp để phân tích các dữ liệu thống kê; mối quan hệ giữa số thu và các biến số
kinh tế, chính sách... có liên quan trong quá khứ, hiện tại; trên cơ sở dự kiến
về các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô và những thay đổi về cơ chế chính sách, mức độ
tuân thủ, chấp hành của người nộp thuế trong tương lai để tính toán, ước
lượng số thu thuế GTGT trong 1 khoảng thời gian nhất định ở tương lai. Thực
chất dự báo thu thuế GTGT là việc dự kiến, tính toán toán, ước lượng quá
trình phân phối và các biện pháp động viên một bộ phận GDP của xã hội cho
nhà nước thông qua công cụ là thuế GTGT.
1.2.2. Vai trò của dự báo thu thuế GTGT
- Đưa ra kết quả dự báo số thu thuế GTGT trong tương lai: Dự báo thu thuế

GTGT đưa ra kết quả trong dự báo ngắn hạn hoặc trung hạn. Đây là khâu

đầu tiên phục vụ cho quá trình xây dựng dự toán, lập kế hoạch thu thuế GTGT

12


hàng năm và trong trung hạn. Trong điều kiện nguồn lực tài chính khan hiếm,
ngân sách còn khó khăn, kết quả phân tích đúng và dự báo thu thuế GTGT sát
thực tế sẽ góp phần giúp cho việc cân đối thu-chi ngân sách chủ động, tích
cực, có hiệu quả cao, đảm bảo cho ngân sách Nhà nước được thực hiện một
cách có kế hoạch. Việc bội thu hoặc bội chi ngân sách ngoài dự kiến do phân
tích, dự báo không chính xác có thể gây ra các tác động kinh tế vĩ mô tiêu
cực. Ví dụ, bội thu ngân sách ngoài kế hoạch sẽ dẫn đến tình trạng sử dụng
vốn kém hiệu quả, hạn chế sự phát triển của nền kinh tế đất nước, nhưng nếu
bội chi thì tác động sẽ là thúc đẩy hơn nữa lạm phát và còn có thể gây nên các
vấn đề về dòng luân chuyển tiền tệ cho Nhà nước.
- Dự báo thu thuế GTGT cung cấp các cơ sở, điều kiện cần thiết cho quá
trình hoạch định chính sách: Việc hoạch định chính sách thuế phải dựa trên
những nhận định về xu thế, quy luật phát triển của các nội dung kinh tế và tài
chính. Những quy luật đúc rút được từ hoạt động phân tích kết quả thu sẽ
cung cấp các cơ sở, điều kiện cần thiết cho quá trình hoạch định chính sách
thuế GTGT. Chất lượng công tác phân tích, dự báo càng cao, các chính sách
được ban hành càng có cơ sở khoa học và sẽ đi vào cuộc sống. Do vậy, phân
tích, dự báo có ý nghĩa rất quan trọng đối với hiệu quả và vòng đời của một
chính sách thu đối với thuế GTGT. Thông qua phân tích, dự báo sẽ xác định
được các giải pháp tối ưu trong hoạch định chính sách thuế GTGT: phân tích,
dự báo sẽ cung cấp các cơ sở để đánh giá, so sánh các giải pháp, chính sách
khác nhau, để từ đó xác định được các giải pháp tối ưu (phát huy tác dụng
mạnh mẽ nhất và sử dụng ít nguồn lực nhất). Dự báo thu thuế GTGT cũng

giúp người hoạch định chính sách nhận biết và giải quyết những vấn đề phát
sinh khi vận hành chính sách thu đối với thuế GTGT trong thực tế, việc áp
dụng các phương pháp và mô hình dự báo thu có thể giúp ích cho việc đánh
giá và lựa chọn các chính sách và giải pháp thu phù hợp, xây dựng được hệ

13


thống chính sách thuế hiệu quả. Trong quá trình hoạch định và lựa chọn giải
pháp tài chính, phân tích, dự báo định lượng sẽ là một nội dung quan trọng
giúp các cấp quản lý lường trước được những tác động do các cơ chế chính
sách tài chính mang lại khi được triển khai áp dụng.
- Phân tích, dự báo thu thuế GTGT còn là công cụ quan trọng để đánh
giá đúng chất lượng công tác quản lý thu thuế GTGT đối với một quốc gia:
bằng các mô hình phân tích, dự báo thu, người ta sẽ có cơ sở để đánh giá đúng
sự tác động của chính sách thu, của tăng trưởng kinh tế đến kết quả thu thuế
GTGT và từ đó sẽ đánh giá đúng chất lượng công tác quản lý thu ngân sách.
Phân tích, dự báo càng sâu, độ chính xác càng cao, sẽ đánh giá đúng chất
lượng công tác quản lý thu thuế GTGT. Kết quả phân tích, dự báo thu sẽ là cơ
sở để chủ thể quản lý ra các quyết định trong việc: Hoàn thiện các qui trình
quản lý thu cho phù hợp với thực tế; hoàn thiện tổ chức, bộ máy quản lý thu
nhằm khắc phục những hạn chế trong công tác quản lý thu, nâng cao hiệu quả
quản lý thu thuế; Giúp cho việc định hướng, phân loại đối tượng nộp thuế cần
thanh tra, kiểm tra, hạn chế thất thu thuế.
1.2.3. Nguyên tắc trong dự báo thu thuế GTGT
Cũng như tất cả các loại hình dự báo khác, dự báo thu ngân sách nói
chung và dự báo thuế GTGT nói riêng phải được tiến hành trên cơ sở những
nguyên tắc sau đây:
- Phải trung thực khách quan, không áp đặt, việc phân tích, đánh giá thuế
GTGT phải được tiến hành một cách toàn diện, kèm theo những đánh giá xác

đáng, phân định được những nhân tố ảnh hưởng khách quan, chủ quan, chính
yêu và thứ yếu. Trên cơ sở đó dự báo chính xác nguồn thu thuế GTGT phục
vụ cho công tác chỉ đạo, điều hành thu có hiệu quả và đề xuất được những
biện pháp cần thiết phục vụ cho việc hoàn thiện qui trình quản lý thu và cơ
chế, chính sách thu của nhà nước.

14


- Phải thừa nhận và tôn trọng mối quan hệ và tác động qua lại của các
biến số tác động đến nguồn thu ngân sách. Trong quá trình phát triển, mỗi
biến số hay hiện tượng kinh tế đều chịu tác động của nhiều nhân tố. Khi tiến
hành phân tích, dự báo thuế GTGT cần phải đặt tất cả các biến số trong một
thể thống nhất và trong một mối quan hệ qua lại.
- Phải thể hiện được tính kế thừa lịch sử các thông tin trong quá khứ.
Hiểu rõ sự phát triển, vận động của thuế GTGT trong quá khứ sẽ là cơ sở để
tìm ra được những nội dung mang tính quy luật, đó là cơ sở cho việc phân
tích, đánh giá để xây dựng mô hình dự báo thích hợp. Cần xem xét, nhận thức
rõ bản chất, quy luật vận động của các chỉ tiêu kinh tế có liên quan và số thu
thuế GTGT trong quá khứ làm cơ sở cho phân tích, đánh giá hiện tại và dự
báo sự phát triển số thu thuế trong tương lai.
- Phải tôn trọng đặc thù của các đối tượng, biến số được phân tích, dự
báo có liên quan đến thu thuế GTGT vì mỗi biến số phản ánh, chứa đựng một
nội dung khác nhau và có đặc thù riêng của nó. Ví dụ trong GDP, khu vực
nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản; khu vực công nghiệp và xây dựng hay khu
vực dịch vụ đều có đặc trưng riêng về đầu tư, tăng trưởng ... và có sự khác
biệt lớn về đóng góp vào thu ngân sách nhà nước.
1.2.4. Các phương pháp dự báo thu thuế GTGT
Hiện nay có rất nhiều phương pháp dự báo khác nhau dựa trên nguồn
thông tin được sử dụng, cơ chế xây dựng dự báo, về độ tin cậy, độ xác thực

của dự báo. Phần này sẽ giới thiệu một số nhóm phương pháp dự báo thu thuế
GTGT nói chung, từ đó phân tích, lựa chọn các phương pháp phù hợp cho dự
báo thuế GTGT. Có thể chia các phương pháp dự báo thu thành 3 nhóm chính:
nhóm phương pháp mô hình hóa, nhóm phương pháp chuyên gia và nhóm
phương pháp kết hợp.

15


1.2.4.1. Nhóm các phương pháp mô hình hóa:
a) Nhóm phương pháp mô hình vĩ mô:
(1) Mô hình hồi quy:
Là phương pháp dựa trên lý thuyết kinh tế lượng để lượng hóa các quá
trình kinh tế - xã hội thông qua phương pháp thống kê; dựa trên việc mô tả
các mối quan hệ giữa số thu thuế với các chỉ tiêu kinh tế xã hội có liên quan ví
dụ: GDP, tỷ lệ lạm phát, lãi suất ngân hàng,... bằng một phương trình hoặc
một hệ phương trình, từ đó, ước lượng và dự báo giá trị của số thuế sẽ thu
được trong tương lai.
Từ giả định thuế GTGT phụ thuộc vào GDP hoặc các cấu phần của GDP
người ta xây dựng các mô hình hồi quy biểu thị sự phụ thuộc giữa GDP với số
thu của thuế GTGT. Sử dụng chuỗi số liệu GDP danh nghĩa và số liệu thu từ
thuế qua các năm để thực hiện hồi quy và kiểm định mô hình hồi quy. Để dự
báo số thuế GTGT thu được của năm tiếp theo hoặc trong trung hạn, dài hạn,
người ta sẽ căn cứ trên dự báo về tốc độ tăng trưởng GDP danh nghĩa trong
tương lai, từ đó áp vào mô hình để tính toán số thuế GTGT dự kiến thu được.
Theo phương pháp này số thu thuế GTGT được dự báo theo các bước như
sau:
(i) Nêu ra các giả thuyết về mối tương quan giữa các biến kinh tế với
từng loại thuế. Đối với thuế GTGT là tương quan giữa GDP danh nghĩa (hoặc
các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô có liên quan) với số thuế thu được hàng năm, hàng

quý,...
(ii) Thu thập dữ liệu, thiết lập các mô hình toán học để mô tả mối quan
hệ giữa các biến số này. Ví dụ một mô hình đơn giản phản ánh mối quan hệ
giữa GDP và số thuế GTGT thu được trong 1 năm như sau
Log T=β1 +β2Log GDP.
Trong đó : + T là số thuế thu được trong năm.

16


+ GDP là Tổng thu nhập quốc dân trong năm.
+ β1 là hệ số chặn, là giá trị trung bình của T khi GDP =0.
+ β2 là hệ số góc phản ánh mối tương quan giữa GDP với số thuế thu
được. Với mô hình hồi quy trên, β2 cho biết khi GDP tăng 1% thì thuế (T) sẽ
tăng bao nhiêu %.
(iii) Ước lượng các tham số của mô hình nhằm nhận được số đo về mức
ảnh hưởng của các biến với các số liệu hiện có. Các ước lượng này là các
kiểm định thực nghiệm cho các lý thuyết kinh tế.
(iv) Phân tích kết quả: Dựa trên lý thuyết kinh tế để phân tích và đánh
giá kết quả nhận được. Xét xem các kết quả nhận được có phù hợp với lý
thuyết kinh tế không, kiểm định các giả thiết thống kê về các ước lượng nhận
được. Ví dụ trong mô hình trên, nếu ước lượng của β2 là số dương thì ước
lượng này hợp lý về mặt kinh tế (tức là số thuế thu được tỷ lệ cùng chiều với
GDP). Ngược lại (nếu β2 < 0) thì không phù hợp về mặt kinh tế. Trong trường
hợp này, cần phần tìm ra một mô hình khác phù hợp.
(v) Dự báo: Khi đã xác định được mối tương quan giữa các biến số, với
các giả thiết, nhận định về những yếu tố sẽ tác động trong tương lai, người ta
có thể định lượng được mức độ ảnh hưởng hay kết quả của biến số cần dự
báo. Ví dụ khi đã định lượng được mối tương quan giữa số thuế thu được với
GDP, với mức tăng trưởng GDP dự kiến trong kỳ dự báo, người ta sẽ tính toán

được số thuế sẽ thu được trong kỳ dự báo đó.
Phương pháp này có ưu điểm là số liệu không nhiều, phương pháp đơn giản
và có thể sử dụng để dự báo cho trung và dài hạn. Tuy nhiên, mô hình đòi hỏi
chuỗi số liệu đầu vào phải đủ dài để xác định được xu hướng chung (ít nhất 1520 quan sát) và cần phải được lọc sạch ảnh hưởng của các chính sách cũng như
các biện pháp quản lý, điều hành thu để có chuỗi số liệu sạch phản ánh đúng mối
tương quan giữa GDP danh nghĩa và số thuế GTGT thu được.

17


Mô hình này đòi hỏi người làm phải am hiểu sâu về kinh tế lượng để kiểm
định, điều chỉnh mô hình. Kết quả dự báo thu được chỉ là số tổng thể, không
đáp ứng được yêu cầu phân tích, đánh giá khi hoạch định chính sách.
(2) Các mô hình dự báo thu thuế GTGT gắn kết với kinh tế vĩ mô.
Thu ngân sách Nhà nước có mối quan hệ chặt chẽ với tình hình kinh tế,
trong đó, đặc biệt là số thu thuế GTGT phụ thuộc lớn vào tình hình tăng
trưởng kinh tế do thuế GTGT là khoản thuế được tính trên phần giá trị tăng
thêm của hàng hóa, dịch vụ qua các khâu từ sản xuất đến thương mại...đến
người sử dụng cuối cùng.
Nguyên tắc chung của các mô hình dự báo thu thuế GTGT gắn kết với
kinh tế vĩ mô dựa trên việc xây dựng mối tương quan giữa chỉ số kinh tế vĩ
mô của nền kinh tế (được khai thác trên hệ thống tài khoản quốc gia) với số
liệu thu thuế GTGT do cơ quan thuế quản lý. Từ mối tương quan đó, xây
dựng mô hình dự báo thu thuế GTGT căn cứ trên những dự báo về chỉ tiêu
kinh tế vĩ mô có liên quan. Việc sử dụng chuỗi số liệu kinh tế vĩ mô căn cứ
trên đặc điểm tình hình hiện có của hệ thống cơ sở dữ liệu thống kê tại Việt
Nam hiện nay.
Qua phân tích chuỗi dữ liệu lịch sử của các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô và
chuỗi số liệu về số thu thuế GTGT đã được lọc sạch các ảnh hưởng bên ngoài
tác động đến số thu thuế GTGT để khẳng định về mối tương quan giữa các chỉ

tiêu này. Trên cơ sở hệ số biểu thị mối tương quan giữa các chỉ tiêu kinh tế vĩ
mô và dự báo về các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô để tính toán, dự báo số thu thuế
GTGT. Ví dụ: giữa số thuế GTGT với GDP (tổng thu nhập quốc nội), số thuế
GTGT với GNI (tổng thu nhập quốc gia), số thuế GTGT với tiêu dùng cuối
cùng của nền kinh tế,...
(3) Mô hình tính toán trên giá trị gia tăng của nền kinh tế:

18


Thuế GTGT là loại thuế gián thu, được đánh vào việc tiêu dùng các sản
phẩm hàng hóa, dịch vụ, như vậy, đối tượng chịu thuế là người tiêu dùng hàng
hóa, dịch vụ. Cơ sở tính thuế GTGT chính là giá trị hàng hóa tiêu dùng trong
nền kinh tế. Khi tiếp cận phương pháp dự báo thu thuế GTGT theo phương
pháp kinh tế vĩ mô thì cơ sở tính thuế sẽ bao gồm: Tiêu dùng cuối cùng của hộ
gia đình; Đầu tư của hộ gia đình; một phần tiêu dùng của Chính phủ, tiêu
dùng trung gian; Giá trị kim ngạch xuất/nhập khẩu (hàng hóa, dịch vụ xuất
khẩu chịu thuế giá trị gia tăng là 0%, tuy nhiên lại được hoàn thuế GTGT đối
với đầu vào, do đó, khi dự báo cũng cần được tính đến); Dự báo giá cả thị
trường...
Theo phương pháp tính trên giá trị gia tăng của nền kinh tế, ta sử dụng
GDP danh nghĩa và loại trừ những yếu tố gây giảm thu cũng như tính thêm
những yếu tố dẫn đến tăng thu thuế GTGT trong nền kinh tế như sau:
* Các yếu tố được loại từ khỏi cơ sở tính thuế GTGT bao gồm:
- Giá trị kim ngạch xuất khẩu: do hàng hóa dịch vụ xuất khẩu chịu thuế
0% nhưng đầu vào chịu thuế GTGT lại được khấu trừ toàn bộ.
- Giá trị đầu tư của các ngành chịu thuế GTGT: do toàn bộ phần giá trị
đầu tư của các doanh nghiệp thuộc diện chịu thuế sẽ được khấu trừ hoặc hoàn
lại thuế GTGT
- Giá trị gia tăng của những ngành hàng, sản phẩm, dịch vụ được miễn

thuế theo Luật.
- Giá trị gia tăng của khu vực hộ, doanh nghiệp nhỏ dưới ngưỡng phải
chịu thuế GTGT.
- Tiêu dùng của người nước ngoài tại thị trường trong nước: tương tự
trường hợp xuất khẩu
- Phần thất thu do công tác quản lý không bao quát được toàn bộ nguồn
thu, do người nộp thuế vi phạm pháp luật, trốn thuế, tránh thuế...

19


×