Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Quan hệ bang giao và những sứ thần tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam: Phần 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.3 MB, 103 trang )

NHÓM TRÍ THỨC VỆT
Biên soạn

V lỆ ỈN aiĩỊ

Đ ât nước - C(M1 ngiiời ^

Quan QỆbang giao
vã nliựng sụ lliần
llBU biểu
Trong lịch sử Việt Nam


Qu an k í kang Ị^ao và các sứ thần tiỀu kiểu
trong bch sứ V iit Nam


TỦ SÁCH "VIỆT
lỆT NAM •- ĐẤT N
NUỚC,
ư ớ c , CON NGƯỜI"
N
,

tí'

ỌUAN HỆ BANG GIAO
VÀ CÁC Sứ THẦN TIÊU BIỂU
TRONG LỊCH sử VIỆT NAM
NHÓM TRÍ THỨC VIỆT
Biên soạn



NHÀ XUẤT BẢN THỜI ĐẠI


Lời nói đẩu
Đảy là một cuốn trong bộ sách “Việt Nam - Đất nước con
người”gồm nhiều cuốn về các chủ đề khác nhau. Trong cuốn sách
này nêu lên những quan hệ bang giao của các triều đại phong kiến
Việt Nam với các nước Trung Quốc, Chămpa, Ai Lao..., mứu tả
các cách ứng xử ngoại giao đĩnh đạc, tự tin và tinh tế của các
vưcmg triều Việt Nam nhằm thể hiện tính độc lập, tự tôn, có văn
hóa với sứ giả nước người, đồng thời lựa chọn một số sứ thần có
những cống hiến xuất sắc trong việc thiết lập mối quan hệ bang
giao của các vương triều phong kiến Việt Nam với các nước láng
giềng {chủ yếu là với phong kiến Trung Hoa) trong chiều dài lịch
sử từ xưa đến trước Cách mạng tháng Tám 1945. Gương mặt của
những người đi sứ ưu tú, đại diện cho tài năng và đạo đức của
dân tộc ta, những tấm gương về sự uyên bác, đức độ của nhà
ngoại gmo, dù ở hoàn cảnh nào của xã hội cũng ngời sáng vẻ đẹp
tâm hồn và trí tuệ, thể hiện bản chất cao đẹp “không làm nhục
mệnh vua” trước uy quyền thiên tử luôn ngạo mạn và ké cả.
Chúng tôi cố gắng tránh sự trùng lắp với các danh nhân đã
được giới thiệu trước dãy, như Mạc Đĩnh Chi với biết bao giai
thoại đi sứ đã được nói tới trong cuốn “Những Trạng nguyên đặc
hiệt trong lịch sử ỉ-^iệt Nam” hay Phan Huv Chú đã giới thiệu
trong “Những nhà bác học nổi tiếng trong lịch sứ Việt Nam ”, tuy
vậy có một vài trường hợp bất khả kháng nếu không nêu tên như
một sứ thần lỗi lạc, ví dụ trạng nguyên Nguyễn Đăng Đạo hay Lê
Quý Đón, tuy nhiên, ỏ đây chúng tôi tiếp cận họ từ góc độ nhà
ngoại giao là chính.



ó

T ù sàcỉì

V ii't

A'am

- íỉằt mrớí', con n^ười

Trải qua hàng nghìn nám lịch sứ dán tộc ta phải còn nhiều
hơìt những người đi sứ các nước, nhưng vĩ khuôn khổ sách có hạn,
chúng tôi chi chọn những người, theo đánh giá chủ quan của
mình, xứng đáng là đại diện tiêu biêu cho giới ngoại giao dưới thời
phong kiến.
Xin trăn trọng giới thiệu cuốn “Quan hệ bang giao và những
sứ thần tiéu biểu trong lịch si’t Việt Nam” với các dộc giả.
NHÓM TUYỂN CHỌN


I - VIỆT N A M THỜ I PHONG KIẾN
TRONG Q U A N HỆ BANG G IA O
V Ớ I CÁC NƯỚ C LÁNG GIỀNG

VẤN Đ Ề "SÁCH P H O N G ” TR O N G QUAN HỆ
BANG GIAO GIỮA CÁC TR lỀU ĐẠI PH O N G KIẾN
VIỆT NAM VỚI TR U N G Q U ố C
Phan Huy Chú trong Lịc/ỉ triầi hiến chương loại chí đã nhận

xét rất đúng khi nói rằng: “Trong việc trị nước, hoà hiếu với
nước láng giềng là việc lớn... Nước Việt ta có cả cõi đất phía
Nam mà thông hiếu với Trung Hoa, tuy nhân dân dựng nước
có quy mô riêng, nhưng ở trong thì xưng đế, mà đối ngoại thì
xưng vương, vẫn chịu phong hiếu, xét lý thế lực phải như thế”
[1; 135r.
“Xét lý thực phải như thế” - đó là cách nói của Phan Huy
Chú. Nếu chúng ta nói theo cách nói ngày nay thì có thể hiểu
đó là chủ nghĩa hiện thực trong chính sách đối ngoại với đại đế
quốc phong kiến Trung Quốc thuở trước. Cái “lý” mà Phan
Huy Chú đề cập đến ở đây thực chất là: nếu con “cá lớn”
Trung Quốc mà định “nuốt” con “cá bé” Việt Nam thì chúng
ta sẵn sàng “tiếp đón” và “tống tiễn” nó đi. Khi nó ra đi rồi thì
chúng ta lại cư xử mềm mỏng, mềm mỏng nhưng ngoan
cường, không yếu hèn để buộc các triều đại phong kiến Trung
n Sách tham kháo để cuối bài viết nên đổ trong ngoặc [1. 135]: sách tham
khào I. trang 135. không để lừng chú thích để tránh lặp lại. (NTC)


8

T ú sách

V i ỉ t ĩ^ a n i - íỉất nước, con iiỊỊirời

Quốc phải tôn trọng mình. Đây như đã thành một nguyên tắc
chi phối quan hệ ngoại giao của Việt Nam với Trung Quốc
suốt các triều đại phong kiến. Nguyên tắc ấy là xuất phát điểm
cho mọi hoạt động ngoại giao của nước ta thời bấy giờ, trong
đó có hoạt động cầu phong của các triều đại phong kiến Việt

Nam vởi Trung Quốc.
Có thể nói, trong thờĩ đại phong kiến, vấn đề “sách
phong” là một trong hai cơ sở chủ yếu (bên cạnh việc “triều
cống”) để xây dựng nên quan hệ ngoại giao giữa các vương
triều phong kiến Việt Nam và Trung Quốc. Chúng ta có thể
xem đây là “một kiểu quan hệ đặc biệt, kinh nghiệm trên
thế giới chỉ thấy có trong quan hệ giừa Trung Quốc với các
nước láng giềng mà Việt Nam thường được xem là một thí
dụ điển hình, với tất cả tính chất phức tạp, nhiều mặt của
no”[3; 49].
Nói đến vấn đề “sách phong” giữa các triều đại phong
kiến Việt Nam với Trung Quốc nhưng thực tế hoạt động cầu
phong ấy chỉ thực sự bắt đầu thực hiện rừ thế kỷ X (từ thời
Ngô Xương Ngập), sau khi Việt Nam đã thoát ra khỏi ách đô
hộ của phong kiến Trung Quốc, giành lại được nền độc lập
hoàn toàn. Điều này cũng đồng nghĩa với việc là, chỉ khi nào bị
thất bại về mặt quân sự, phải trao trả chủ quyền đất nước cho
Việt Nam thì Trung Quốc mới chịu phong vương cho nước ta.
Chính Phan Huy Chú trong Lkh triều hiến chương loại chí cũng
đã chỉ rõ đặc điểm này: “Nước ta từ thời Hùng Vương mới bắt đầu
thông hiếti với Trung Quốc, nhmg danh hiệu còn nhỏ, không được
dự vào hàng chư hầu triầi hội của nhà Minh đường. Rồi bị Triệu
Đà kiêm tính, nhà Hán phong Đà làm Nam Việt Vưcmg, chi được
sánh với chư hầu của'Trung Quốc, chứ chưa từng được nêu là một
nước. Đến sau nội thuộc vào nhà Hán nhà Đường, bèn thành quận
huyện. Đến khi Đinh Tiên Hoàng bình định các sứ quân, khôi phục


Ọ iiư /I hí' h a im ịiiíto t<ù cúc sứ th ầ n tiêu lìic u ... 9


mớ mang bờ cõi, bấy giờ điền lễ sách phong của Trung Quốc mói
nhận cho đứng riêng là một nước"[\, 136].
Vậy là xét về thực chất, việc Trung Quốc phong vưctng
cho Việt Nam trước hết là công nhận vị trí độc lập của Việt
Nam theo điển lễ đã đưỢc xác định của Trung Quốc với các
nước có quan hệ triều cống và thụ phong. Và đối với Việt
Nam, nước có biên giới ngay sát đại đế quốc phong kiến
Trung Quốc, lại đã từng bị Trung Quốc xâm chiếm hàng
ngàn năm, thì việc cầu phong luôn được sử dụng như một
phương sách ngoại giao để giữ mối quan hệ hoà hiếu với
nước láng giềng này.
Hoạt động cầu phong ấy kéo dài đến thời vua Tự Đức
(triều Nguyễn), bởi đến năm 1885 với hoà ước Thiên Tân
giữa Pháp và Trung Hoa thì đã chấm dứt vĩnh viễn quan hệ
thượng quốc - chư hầu giữa Việt Nam với Trung Quốc.
1.
Nguyên nhân của hoạt động cầu phong trong quan hệ
bang giao giữa Việt Nam với Trung Quốc thời phong kiến
Có thể nói, dưới thời đại phong kiến ở nước ta, các vị
vua sau khi giành được chính quyền đều có mong muốn xin
phong vương với Trung Hoa. Cái lý buộc các vua phong
kiến Việt Nam xin phong vương cũng như các triều vua
trước đó là ở cái thực tế: Việt Nam là một nước nhỏ, sát
cạnh ngay một quốc gia phong kiến Trung Hoa lớn gấp
nhiều lần, lại thường xuyên có mưu đồ thôn tính Việt Nam.
Vì thế, để đảm bảo an ninh, để có thể duy trì quan hệ hoà
hiếu với nước láng giềng khổng lồ ấy, các vua nước ta phải
có đường lối đối ngoại “mềm dẻo”, “lấy nhu, thắng cương”,
giả danh “thần phục”, cầu phong Trung Quốc.
Hơn nữa, khi cầu phong Trung Quốc, bên cạnh lợi ích

dân tộc, các vị vua ờ nước ta còn tính đến lợi ích giai cấp


10

T ủ ĩácỉì

V iớ t T^atn - J ả t n ư ớ f, con n^ườỉ

■■■

dòng họ mình, bởi ngay từ đầu họ đã nhận thấy sự cần thiết
phải khẳng định chính thống, hỢp pháp hoá sự tồn tại của
triều đại mình, để ổn định “nhân tâm” và cũng là để làm
chỗ dựa hậu thuẫn bảo vệ quyền lợi lâu dài của dòng họ.
Điều này đồng nghĩa với việc họ phải sớm được “thiên
triều” Trung Quốc phong hiệu.
Không những vậy, các vị vua dưới thời phong kiến nước
ta cũng nhận thức sâu sắc được cần có sự phong vương của
Thiên triều để khẳng định vai trò của mình với các nước
trong khu vực. Có như vậy mới thực hiện được ý muốn của
các triều đại phong kiến Việt Nam: tự coi mình như một
“Trung Quốc” nhỏ hơn ở phía Nam đối với các nước chư
hầu, ngang hàng với nước Trung Quốc ở phía Bắc. Điều này
được thể hiện đặc biệt rõ nét dưới thời nhà Nguyễn.
Trong khi đó, bản thân Trung Quốc cũng sẵn lòng chấp
nhận việc cầu phong của các vị vua nước ta vì một mặt nó là
phương tiện giao hảo, duy trì không để quan hệ giữa Trung
Quốc - Việt Nam bị cắt đứt, mặt khác để cốt giữ lấy cái quan
hệ giữa “thiên triều” Trung Hoa với “phiên thần” Việt Nam

như là một nhu cầu thiết thân về cả lợi ích chính trị lẫn
kinh tế của mình. Do đó, sau những đoàn sứ bộ của nước ta
sang cầu phong, các vua Trung Quốc đã cử sứ sang ban sắc
phong cho các vua Việt Nam.
Vì những lý do ấy, suốt từ thời Ngô (từ Ngô Xương
Ngập) đến thời Nguyễn, các vị vua phong kiến Việt Nam
ngay khi lên ngôi, việc dầu tiên là xin phong vương của các
hoàng đế Trung Hoa.
2.
Nội dung của hoạt động cầu phong giữa Việt Nam
với Trung Quốc thời phong kiến
Sau đây là bảng thống kê việc các vua nước ta cử sứ giả


Ọ t ia n lié iH iiìĩị ĩịia o rà rd c sir llìầ n tiêu h icu ...

11

sang Trung Quốc cầu phong và việc vua Trung Quốc ban
sắc phong cho ta từ triều Ngô (bắt đầu dưới thời Ngô Xương
Ngập) đến triều Nguyễn (Theo Ngô Sĩ Liên và các sử thần
triều Lê, 1967-1972. Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb KHXH, tập
1, 2, 3, 4; Phan Huy Chú, 1961. Lịch triều hiến chương loại
chí - Bang giao chí, bản dịch. Nxb Sử học, Hà Nội; Quốc sử
quán triều Nguyễn, 1993. Khâm đụth Đại Nam hội điển sự lệ,
phần chính biên, Nxb Thuận Hoá, gồm 15 tập và Quốc sử
quán triều Nguyễn, 1962-1978. ỡ ạ i Nam thực lục, Nxb
KHXH, gồm 38 tập.)
Tên các
triều đại

1. Triều
Ngô

2. Triều
Đinh

3. Triều


Nước ta sang
Trung Quốc
cầu phong
- Ngô Quyền chưa
xin phong vương
- 954: Ngô Xương
Ngập sai sứ sang
vua Nam Hán là
Lưu Xưởng xin
phong vưctng.
- 972: Đinh Tiên
Hoàng sai con là
Đinh Liễn sang
Tống xin phong
vưcmg.

- 980: Lè Đại Hành
sai 2 sứ thần là
Giang Cự Vọng và

Sắc phong của hoàng đế

Trung Quốc ban cho
vua Đại Việt

- Phong làm Tĩnh hải quân
Tiết độ sứ.

- Phong Đinh Tiên Hoàng làm
Giao Chỉ Quận vương.
- Phong Đinh Liền làm Kiểm
hiệu Thái sư tĩnh hải quân
Tiết độ sứ An Nam đô hộ.
- 975: Phong Đinh Tiên
Hoàng làm Nam Việt Vưctng
và p)inh Liễn làm Giao Chi
Quận vưctng.
- Vua Tống không cho.


1 2 T ú sáí lì

T i ê t ĩ ^ a m - íỉấ t n ư ớ c , c o n n ^ư ờ i

Vương Thiệu Tộ
sang xin vua Tống
phong Vương.
- 985: Vua sai sứ
sang Tống xin lĩnh
chức Tiết trấn.

- Vua Tống phong Lê Đại

Hành chức Tiết trấn.
- 986: Vua Tống sai sứ sang
phong cho Lê Đại Hành chức
Kiếm hiệu Thái bảo sứ trì tiết
đô đốc Giao Châu chư quân
sự, An Nam đô hộ, Tĩnh hải
quản Tiết độ sứ, Giao châu
quán nội quan sát xử trí đằng
sứ, Kinh Triệu Quận hầu.
- 988; Vua Tống phong cho
làm Kiểm hiệu Thái uý.
- 993; Phong làm Giao Chi
Quận vương.
- 997: Phong làm Nam Bình
vương kiêm Thị trung.
- 1010; Phong Lý Thái Tổ
chức Kiếm hiệu Thái phó,
Tinh hái 'nết độ sứ quan sát
sứ, Xử trí sứ, An Nam đô hộ,
Ngư sứ đại phu, Thượng trụ
quốc Giao Chỉ Quận vưctng.
Sau thêm Đồng binh chương
sự.
- 1012: Phong thêm: Khai phủ
nghị đồng tam ti.
- 1014: Phong thêm Bảo Tiết
Thù Chinh công thần.
- 1018: Phong thêm: Kiểm
hiệu Thái uý.
- 1022: Phong thêm Kiểm



C^iuiỊt Ịìè lnỉiiịị ĩỊÌao và vác sứ lỉiầii liêu lúvỉi...

- 1055: Vua Lý
Thánh Tông sai sứ
sang Tống cáo tang.

- 1138; Vua Lý Anh
Tông sai sứ sang

13

hiệu Thái sư.
- 1028: Phong thêm Thị
'Trung Nam Việt vương.
- 1028: Phong cho vua Lý
'Thái Tông làm An Nam đô hộ
Giao Chỉ Quận vương.
- 1032: Phong thêm: Đồng
'Trung 'Thư môn hạ Bình
chương sự.
- 1034: Phong thêm Kiểm
hiệu 'Thái sư.
- 1038; Phong vua làm Nam
Bình vưttng.
- 1055: phong Tăng 'Thị
'Trung Nam Việt vưttng.
- 1055: Sách phong vua Lý
'Thánh 'Tông làm Kiểm hiệu

Thái uý tĩnh hái quân 'Tiết độ
sứ, An Nam đô hộ Giao (T í
Quặn vưttng.
- 1064: Phong thêm: Đồng
trung thư môn
hạ Bình
chưttng sự.
- 1068: tiến Nam Bình vư(tng.
- 1074; phong vua Lý Nhân
'Tông làm Giao Chi Quận
vương.
- 1086: phong vua làm Nam
Bình vưiTng.
- 1130: Phong vua Lý 'Thần
'Tòng làm Giao (T í Quận
vương.
- 1138: Phong vua Lý Anh
'Tông làm Giao (T i Quận


1 4 7 li sá cỉi

ĩ ^ u in - J íìt m rớ í', co n n y ư ờ i

rống
cáo
1 hằn Tông.

5. Triều
Trần


6. Triều
Hồ

7.

Triều

Lê sơ

' 'I hco

tang

- 1229; Vua Trần
Thái Tông sai sứ
sang thăm nưttc
Tống.
- 1261; Vua Trần
Thánh Tông sai sứ
sang thăm nưtíc
Mòng Cổ.

1290: Thượng
hoàng
(Thánh
Tông) băng, sai
Đình Giới sang báo
tang và xin phong.
- 1368; Vua Trần

Dụ Tông sai sứ sang
thăm nhà Minh.
- 1403: Hồ Hán
Thưitng sai sử sang
Minh
xin
cầu
phong.
- 1427; Vua Lê Thái
Tổ sai người dâng

-

vương.
- 1175: Đặc cách phong vua
làm An Nam Quốc vưtmg"’.
- 1177: Phong vua Lý Cao
Tỏng làm An Nam Quốc
vương.
- 1229: Phong vua Trần Thái
l'ông làm An Nam Quốc
vương.
- 1261: Vua Mông c ố phong
vua Trần Thánh Tông làm An
Nam vưctng.
- 1262: Nhà Tống phong vua
làm An Nam Quốc vưiíng, gia
phong Thượng hoàng làm An
Nam đại vương.
- Nhà Nguyên không cho sứ

sang phong.

- 1368: Vua Minh Thái Tổ
phong cho vua Trần Dụ Tông
làm An Nam Quốc vưimg.
- 1403: Nhà Minh phong Hồ
Hán Thương làm An Nam
Quốc vưttng.
- 1427: Nhà Minh Phong Trần
Cáo làm An Nam Quốc vưtmg.

i’han lluv chú: Lịch triều hiến chương loại chi __ Sdd. Ir. 138:
NinVc 1:1 \irni> lá An Nam bat dàu lừ dó.


c^uưn ỈÌVliunịị ịỊÌuo và Cík sứ tỉìần tiêu Ịìicu... 15

8. Triều
Mạc.

9. Triều
Lé Trung

biến cầu phong cho
Trần Cảo.
- 1429; Vua Lê Thái
Tố sai sứ sang xin
sách phong.
- 1434: Vua Lé
Thái Tông sai sứ

sang báo tang Thái
Tổ và cầu phong
- 1442: Vua Lê
Nhân Tông sai sứ
sang báo Tang Thái
Tông và cầu phong.
- 1460; Vua Lẽ
rhánh Tông sai sứ
sang cầu phong.
- 1497: Vua Lê
Hiến Tông sai sứ
sang báo lang Thánh
Tông và cẩu phong.
- 1504; Vua Lê Dục
Tông sai sứ sang
báo tang Hiến Tông
và cầu phong.
1510; Vua Lé
rưííng Dực sai sứ
sang cầu phong.
- 1540: Mạc Dâng
Dung sai sứ mang
hàng biến sang Yên
Kinh cầu phong.
- 1597; Vua Lê Thế
'l'ông sai sứ sang

- 1431: phong vua Lê Thái l'ổ
quyền thự An Nam Quốc sử.
- 1435; Quốc vương đem sắc

cho vua Lê Thái Tông quyền
coi việc nước.

1462: Phong vua Lê
Thánh Tông làm An Nam
Quốc vưttng.
- 1499: Phong vua Lê Hiến
Tông làm An Nam Quốc
vưtmg.
- 1506: Phong vua Lê Dục
Tông làm An Nam Quốc
vương.
- 1513; Phong vua Lê Tương
Dực làm An Nam Quốc
vưiTng.
- 1540; Phong cho Mạc Đăng
Dung làm Đô Thống sứ, ắn
bạc nha môn lòng nhị phẩm.
ấn khắc chữ; An Nam Dô
thống sứ ty.
- 1598: phong vua Lê Thế
Tông làm An Nam Đô thống


16

T ù sứcỉì

V iê t 7 ^am - (ỉiit iurớCf con nííirờỉ


Hưng

cầu phong.
- 1637: Vua Lê
Thần Tỏng sai sứ
sang cầu phong.

ty Đô thống sứ.
- 1647: Phong cho Thần
Tông (lúc này là Thái thượng
hoàng) làm An Nam Quốc
vương.
- 1651: Phong cho chúa Trịnh
là Phó Quốc vương.
- 1667: Phong vua Lê Huyền
Thông làm An Nam Quốc
vương.
- 1683: Phong vua Lê Hi Tông
làm An Nam Quốc vương.
- 1719: Phong vua Lê Dụ Tông
làm An Nam Quốc vương.
- 1734: Phong vua Lê Thuần
Tông làm An Nam Quốc vương.
- 1761: Phong vua Lẽ Hiển
Tông làm An Nam Quốc vương.
- 1778: phong Lê Chiêu Thống

10. Triều
Tây Sơn


- 1789: Vua Quang
Trung cử sứ bộ sang
xin phong vư- 1792: Vua Quang
Toán cho sứ sang
báo tang và xin sắc
phong.

- 1789: Phong
Trung làm An
vưtTng.
- 1792: Phong
Toản làm An
vương.

- 1802: Vua Gia
Long cử sứ bộ do
Lê Quang Định
làm chánh sứ sang
xin phong vương
- 1820: Vua Minh
Mạng cử sứ bộ do

- 1804; Vua Thanh cứ người
mang cáo, sắc, ấn dcn làm lẻ
tuyên phong cho Gia Long.

11. Tricu
Nguyền


vua Quang
Nam Quốc
vua Quang
Nam Quốc

- 1822: Vua Thanh cừ người
mang cáo, sắc làm lẽ tuyên


Cịitan hè ìxtnii ịỉịao rà rút'

Ngô Thì Vị làm
chánh sứ sang báo
tang vua Gia Long
và xin phong vương
cho
vua
Minh
Mạng
- 1841: Vua Thiệu
Trị cử sứ bộ do
chánh sứ Lê Văn
Phúc sang báo tang
vua Minh Mạng và
xin phong vương
cho vua Thiệu Trị
- 1848: Vua Tự Đức
cử sứ bộ báo tang
vua Thiệu Trị và
xin phong vương

cho vua Tự Đức

sứ thần

tiêu hiếu,..

17

phong cho Minh Mạng

- 1842: Vua Thanh cử người
mang sắc để làm lễ sách phong
cho Thiệu Trị

- 1849: Vua Thanh cử người
mang sắc thư làm lễ sách
phong cho Tự Đức

Qua bảng thống kê trên, chúng ta nhận thấy: việc xin
phong vương của các triều đại phong kiến nước ta bắt đầu từ
khi nước ta giành lại đưỢc độc lập chủ quyền từ thế kỷ X
dưới thời Ngô, qua các triều đại Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần,
Lê sơ, Mạc, Lê Trung Hưng, Nguyễn Tây Sơn; Nguyễn,
việc xin phong vương theo quy định là một việc đặc biệt hệ
trọng trong quan hệ ngoại giao giữa nước ta với Trung Quốc
mà hầu như không một triều đại nào ở nước ta bỏ qua.
Cứ theo thông lệ bình thường, khi nước ta có vua qua
đời, vua'mới lên nối ngôi lại cử một sứ bộ sang Trung Quốc
báo tang và một sứ bộ sang xin phong vương. Hai sứ bộ này
do hai vị quan cao cấp đứng đầu và cùng đi trong một đoàn,

về phía Trung Quốc, sau khi vua nhận được biểu của vua
Nam thì cũng cử 2 bộ sứ bộ, một phong vương cho vua mới
và một sang tế vua đã chết, trong đó có một trong hai vị


18

T ú sách

V iê t T^aitì - Jẳ1 nư ớ c, con itĩỊười

chánh sứ làm trưởng đoàn chung. Theo sự thống kê của Phan
Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí, chúng ta thấy:
sứ thần được mà Trung Quốc cử sang có thể là một vị quan
cao cấp trong triều như Thượng thư, Thị lang, hay cũng có
khi là các quan đầu tỉnh biên giới gần nước ta như Tổng đốc
Lưỡng Quảng hay Tuần phủ. Các sứ thần do vua Trung Quốc
cử sang mang sắc phong cho vua nước ta, nếu là triều đại mới
lên nắm quyền thì được ban cho cả ấn vàng - tượng trưng cho
quyền lực của Thiên triều. Tiếp đó, việc phong vương sẽ diễn
ra theo nghi thức, thủ tục rất long trọng tại kinh đô (thời
Đinh, Lê là ở Hoa Lư, các đời sau diễn ra ở Thăng Long; đến
thời vua Tự Đức dưới triều Nguyễn diễn ra ở kinh đô Huế) từ
việc đón tiếp sứ bộ Trung Hoa, các nghi lễ phong vương đến
việc ban thưởng và chiêu đãi sau lễ thụ phong của các vị vua
phong kiến nước ta. Cụ thể;
Khi nhận được tin phái đoàn Trung Quốc mang sắc thư
và quốc ấn của vua Trung Quốc sang phong vương, các vua
phong kiến nước ta lúc này đều cử những quan chức cấp cao
của triều đình làm hậu mệnh sứ cùng với hàng nghìn lính và

các tuỳ tùng lên tận Nam Quan để đón. Trên đường đến nơi
làm lễ phong vương, hàng loạt trạm hay còn gọi là các công
quán được dựng lên. Đó là những ngôi nhà sang trọng cho
phái đoàn và tuỳ tùng nghi chân. Tiêu biểu như công quán ở
Đồng Đăng thời vua Minh Mạng (triều Nguyễn). Đây là một
nhà vuông, hai phía phải và trái đều có thêm nhà phụ, mỗi nhà
có 5 phòng chính, hai nhà ngang và một nhà có 5 phòng chính
và 2 phòng ngang. Tất cả đều lợp ngói. Ngoài ra còn có nhà để
cúng bái, 2 trại lính [4; 23-44]. Qua đó để thấy sự đón tiếp rất
long trọng các sứ bộ Trung Hoa của nước ta.
Đến lễ phong vương cho các vua phong kiến nước ta, các
nghi lễ diễn ra theo một trình tự chặt chẽ trong không khí rất


Ọi/U/I hc Ịxiiiịjf i(ia o r à các sử th ầ ĩì tiê u Ịìiế ìi... 1 9

long trọng. Sau đây xin trích một đoạn tả cành lễ phong vương
của sứ bộ nhà Thanh cho các vua Nguyễn được giám mục
Pellesin ghi lại và được Cadiere dẫn ra trong bài viết của mình
ở cuốn: “Những người bạn cố đô Huế” năm 1916.
“Hoàng đế (Trung Hoa) chỉ định một Chánh sứ và một
Phó sứ. Khi đến biên giới An Nam, vua (An Nam) sẽ cử những
vị quan đến đón họ và có trọng trách chờ đợi họ một cách cung
kính. Các quan An Nam lễ kính cẩn đón nhận cái tráp rồng
đựng những phong phẩm của hoàng đế, có nghĩa là phải quỳ
ba lần, lạy chín cái (đầu đụng vào đất) trước cái tráp.
Quan An Nam phải quỳ một lần, lạy ba lạy trước vị Phó
đại diện của hoàng đế.
Khi đoàn đến địa phận An Nam thì các giấy tờ từ triều
đình Trung Hoa, và các đồ vật từ hoàng đế Trung Hoa gửi

đến phải được cất giữ tại nhà khách dành cho phái đoàn
Trung Hoa.
Sau khi làm thủ tục quỳ lạy thường lệ trước các phong
phẩm ấy, các đại diện An Nam phải lạy ba lạy trước các đại
diện Trung Hoa và đại diện Trung Hoa không được miễn
cho các đại diện An Nam khỏi phải lạy.
Vào ngày như đã ấn định, tuyên đọc các tờ sách phong,
thì vua An Nam cùng thái tử và quan chức sẽ đến nhà khách
của các đại diện ở để làm lễ đón rước các văn kiện của hoàng
đế và cái tráp rồng. Sau khi đã lễ bái theo thủ tục trước các
phong phẩm, thì vua tự về cung và tờ sách phong đựng
trong tráp rồng cũng như các tặng phẩm từ hoàng đế sẽ
được đặt vào một cái xe riêng và đưa về hoàng cung.
Đoàn sứ giả Trung Hoa được dẫn đầu bởi cờ hiệu hoàng
đế, trống và nhạc công, họ đi qua cửa chính và theo sau là
các vật phẩm để trao gửi; họ bước lên các tầng cấp của điện


20



S íic lì

V ic t

ĩ ^ a n i - Í Ỉ ( U ÍÌỈC Ớ Í-,

con


tK Ịĩr ờ i

vua mà ở giữa đã đặt sẵn một hương án và hai bên cạnh có
hai bàn khác nữa. Bàn giữa là nơi đặt các tặng vật do hoàng
đế Trung Hoa gửi sang.
Vua, thái tử cùng các quan lại An Nam làm lễ trước các
vật ấy bằng ba quỳ, chín lạy và sau đó đến quỳ trước bàn đã
đặt tờ phong sắc để nghe đọc tờ này. Khi đọc xong thì tờ sắc
được đặt trở lại trên bàn và vua lại quỳ ba quỳ lạy chín lạy
rồi đứng đậy. Các sứ giả Trung Hoa cáo từ, vua và đoàn tuỳ
tùng tiễn chân họ đến tận ngoài rồi trở về cung. ..”[7; 306].
Rõ ràng chúng ta thấy các vua nước ta đă phải “nhún
nhường”, thực hiện những nghi lễ vô cùng long trọng và
mệt nhọc để nhận được sắc phong của hoàng đế Trung Hoa.
Sau lễ thụ phong ấy, các vị vua dưới thời phong kiến
nước la còn ban thưởng và chiêu đãi rất hậu cho các sứ thần
Trung Hoa. Ví như; vua Minh Mạng sau lễ thụ phong đã
chiêu đãi phái đoàn Trung Hoa một bữa cỗ thượng hạng (30
món), sáu bàn thứ phẩm (40 món) và 29 bàn hạng ba (30
món mỗi bàn). Ngoài ra còn có thêm 16 món ăn tráng
miệng; không những thế, vua còn tặng quà rất hậu: 10 nén
bạc mỗi nén 10 lạng, 4 livre'** quế hạng tốt, 20 tấm vải hoàng
bố; 20 tấm vải bông. Ngoài số quà đó còn có thêm: 2 sừng tê
giác, 1 đôi ngà voi, 1 bộ li rượu bằng vàng, 2 livre trầm
hương [8; 90-92]... Đó là chưa kể đến số quà của các quan
chức chỉ định như đại diện biếu cho các sứ thần Trung Hoa
trên đường về đến Nam Quan.
Có thể thấy, từ việc đón tiếp sứ bộ Trung Hoa, việc thực
hiện những nghi lễ phong vương long trọng đến việc ban
thưởng và chiêu đãi sứ thần Trung Hoa sau lễ thụ phong là

cả một sự “nhún nhường” của các vua nước ta với mục đích
I livre của l’háp ngàv xưa lương đưiTng 0.5kg hiện nay.


(^ u a n hè

/«i/K( ĩịiao

rà cúc sứ thần tiên hiến...

21

nhận được sắc phong cùa hoàng đế Trung Hoa. Mặt khác,
chính sự “nhún nhường”, mềm dẻo này cũng đã toát lên
được tầm quan trọng của việc xin phong vương từ hoàng đế
Trung Hoa của các vua triều Nguyễn như thế nào? Một mặt
nhằm cốt giữ quan hệ hoà hiếu giữ hai nước, mặt khác đảm
bảo lính chính thống, hỢp thức hoá sự lên nắm quyền của
mình, phục vụ cho quyền lợi giai cấp dòng họ về láu dài. Đó
là phương cách giả danh “thần phục”, nhún nhường với
Trung Quốc mà triều đại nào ở Việt Nam cũng áp dụng
trong ứng xử với Trung Quốc.
Song dù được quy định nghiêm ngặt, nhưng qua theo dõi
diễn biến việc sách phong, cầu phong của các vua Đại Việt như
bảng thống kê trên chúng ta thấy, việc thực hiện ra sao là tuỳ
thuộc vào tương quan so sánh lực lượng giữa Trung Quốc và
nước ta cũng như vào tiềm lực và vị thế của bản thân hai nước.
Từ Đinh Tiên Hoàng dến Quang Trung, sau khi lên ngôi hầu
hết đều sai sứ sang Trung Quốc xin cầu phong, nhưng trong
rất nhiều trường hỢp, chính “Thiên triều” Trung Quốc chủ

động sai sứ sang sách phong chứ các vua nước Nam không
sang cầu phong. Điển hình như các vua triều Trần nhường
ngôi nhau, chưa sang cầu phong: Trần Thái Tông (1225 1258), Trần Thánh Tông (1258 - 1278), Trần Nhân Tông (1279
- 1293). Hay khi mới dựng nước, nhà Đinh, Lê chỉ được phong
làm Kiểm hiệu Thái sư, Giao Chỉ Quận vương rồi tiến dần lên
Nam Bình vương. Đến thời Lý, vua Lý Anh Tông mới là vị
vua đầu tiên được nhà Tống phong làm An Nam Quốc vương
và cũng lần đầu tiên nước ta được gọi bằng quốc hiệu An
Nam... Qua đó để chúng ta thấy tương quan lực lượng giữa hai
nước có tác động như ihế nào tới quan hệ bang giao. Hay nói
cách khác quan hệ bang giao cũng là tấm gương phản ánh thế
và lực của mỗi quốc gia.


22

T ủ Siíclì

T ié t ì^ a m - (ỉiĩt Ịxước, con lìĩỊirờí

Dưới ảnh hưởng của tư tưởng triết học Trung Hoa mà
chủ yếu là Nho giáo, các vị vua thời phong kiến Việt Nam
đều đã tự đặt quyền lực “trời” ban cho mình dưới quyền lực
của “Thiên triều” Trung Hoa và xem đó như là một điều
hctp lẽ trời trong quan hệ giữa nước lớn với nước nhỏ. Các
vua nước ta lúc này dù xưng là hoàng đế với thần dân trong
nước, song với họ nếu chưa đưỢc Thiên triều công nhận qua
“sách phong” thì cũng vẫn chưa có sự đảm bảo giá trị hỢp
pháp trong mắt người dân và các nước lân cận. Do vậy, từ
thời Ngô Xương Ngập (triều Ngô) đến thời vua Thiệu Trị

(triều Nguyễn), các vua đều phải xin phong vương sau khi
lên ngôi, thậm chí các vua triều Nguyễn tuy đóng đô ờ Phú
Xuân (Huế) nhưng đều phải thân chinh ra Thăng Long để
làm lễ tuyên thụ. Riêng đến thời Tự Đức (triều Nguyễn) thì
nghi lễ tuyên phong đã được diễn ra ở Huế với những nghi
thức trang trọng, tốn kém theo đúng thứ tự nghi lễ cổ xưa.
Điều đó đã minh chứng rõ nét rằng: các vua nước ta đều
tuân theo sự phân định ngôi thứ một cách rỏ ràng: “chư
hầu” thì phục tùng “Thiên tử” cho đúng phép, đúng lễ.
Bề ngoài thì như vậy, song ta nên hiểu thực chất của
việc sách phong, triều cống này ra sao?
Trong tư tưởng của các triều đại phong kiến nước ta đại diện cho cả dân tộc Việt Nam lúc này cũng giống như tư
tưởng của người Việt Nam hàng nghìn năm qua luôn hiểu
khái niệm “độc lập” có nghĩa là đất nước hòa bình, không
có ngoại xâm, phương Nam và phương Bắc cương giới phân
định rõ ràng, còn “lệ thuộc” được hiểu là bị mất độc lập, bị
ngoại bang xâm chiếm đất đai, lảnh thổ và bị đè nén, áp bức
trên mọi lĩnh vực. Nếu chúng ta đối chiếu cách hiểu trên với
việc sách phong, triều cống thời bấy giờ thì rõ ràng là việc


C )u a n hè Ix iiK Ị giíio r á các sứ lliầ n liê u hiếu... 2 3

thực hiện sách phong, triều cống của các triều đại phong
kiến Việt Nam với Trung Hoa lúc này xét về cơ bản là
không xâm phạm vào nguyên tắc “độc lập”, tức là sẽ không
bị “lệ thuộc” theo cách hiểu như trên. Thực tế cho ta thấy
danh hiệu “Quốc vương” mà Trung Hoa phong cho các vua
nước ta chỉ mang tính chất tượng trưng mà thôi. Các vị vua
dưới thời phong kiến Việt Nam ngoài thì xưng vương nhưng

trong nước lại xưng đế với thần dân. Hơn nừa, tuy danh
nghĩa là “Thiên tử” đứng đầu “Thiên hạ” song thực tế thì
Trung Quốc không được biết gi nhiều về những công việc
nội trị của Việt Nam, ngoài những thông báo mang tính
nghi lễ ngoại giao việc vua này lên ngôi, vua khác băng hà...
Không những vậy, chúng ta còn dễ dàng nhận thấy hễ khi
Trung Quốc có ý đồ xâm lấn đất đai biên giới, lãnh thổ hay
khi an ninh biên giới bị đe doạ thì các triều đại phong kiến
nước ta đều kiên quyết đánh trả bằng mọi phương tiện quân
chính trị, ngoại giao, quân sự...
Có thể nói, không phải ngẫu nhiên mà Tsuboi
trong Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa đã nhấn
mạnh rằng: “Lịch sử của đất nước Việt Nam cũng là lịch sử
của sự khẳng định độc lập với Trung Hoa”[9; 43]. Điều này
đúng không chi trong thời chiến mà cả trong thời bình. Quả
thật, lịch sử Việt Nam đâ hằn sâu dấu ấn của cuộc chiến đấu
chống đế quốc Trung Hoa. Song sang thời bình ông cha ta
đả thực hiện một tập tục khôn khéo, kéo dài hàng ngàn năm
bắt đầu từ Khúc Thừa Dụ là “Độc lập thật sự, thần thuộc
danh nghĩa” để ngoại giao được với một nước như Trung
Quốc, để giữ vững độc lập chủ quyền toàn vẹn lảnh thổ và
hoạt động cầu phong của các triều đại phong kiến Việt Nam
cũng không nằm ngoài mục đích tối cao ấy.
Trong bối cảnh hiện nay, khi xu thế toàn cầu hóa, quốc


24

T ù sá d ì


V iê t ỉ^ a iii - j ầ l mrớc, con íiíỊinyi

tế hoá đang lôi cuốn mỗi một quốc gia, dân tộc, khi xu
hướng hòa bình, hỢp tác, phát triển đã thành xu hướng
chung của các quốc gia trên thế giới thì công tác ngoại giao
lại càng đóng một vai trò cực kỳ quan trọng đối với mỗi dân
tộc trong việc giữ vững nền độc lập, mở rộng quan hệ với
các nước trên thế giới. Tuy rằng quan hệ với các nước lớn
ngày xưa và ngày nay có khác nhau song những phương
cách ứng xử mà ông cha ta để lại có thể gỢi lên cho chúng ta
tìm ra nhừng đối sách thích hợp để ứng xử với các nước lớn
trong thời đại ngày nay.
T ài liệu tham khảo
[1] Phan Huy Chú, 1961. Lịch triều hiến chưtntg loại chi - Bang giao
chí, Bản dịch. Nxb Sử học, Hà Nội.
[2] Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lé, 1967-1972: Đại Việt SIÌ ký
toàn thư. Nxb KHXH, tập 1,2, 3, 4.
[3] Tạ Ngọc Liễn, 1995. Quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc thế
kỷ X V -đ a u thế ký XVI. NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
[4] Nguyền Thế Long, 2005. Bang giao Đại Việt triều Nguyễn. Nxb
Văn hoá Thông tin.
[5] Quốc sử quán triều Nguyền, 1962-1978. Dại Nam thực lục, Nxb
KHXH, gồm 38 tập.
[6] Quốc sử quán triều Nguyễn, 1993. Khăm định Đại Nam hội điển
sự lệ, phần chính biên, Nxb Thuận Hoá, gồm 15 lập.
[7] Trích tập san Nhi/ng người bạn cố đô Huế năm 1916, 1993. Nxb
Thuận Hoá.
[8] Trích tập san Những người bạn cố đô Huế năm 1917, 1993. Nxb
Thuận Hoá.
[9] Yoshiharu Tsuboi, 1992. Nước Dại Nam đối diện với Pháp và

Trung Hoa 1847 - 1885. Hội Sử học Việt Nam, Hà Nội.
T h S Nguyễn T h ị Mỹ H ạnh
Khoa V iệt N am học, Đ H S P H à Nội


( ^ t ia n ìii' ìx ỉitịị yiưo r ủ c íír sứ th ằ n liê u h ic n .. 2 5

LƯỢC SỬ QUAN HỆ ĐẠI VIỆT - CHĂMPA
Lịch sử quan hệ ngoại giao của Đại Việt với các nước
lân bang như Trung Hoa ở phía Bắc, Ai Lao (Lào ngày nay)
ở phía Tây, Chămpa ở phía Nam đã tạo nên một mạng lưới
giao thoa chằng chịt tới mọi linh vực của đời sống xã hội và
xuyên xuốt diễn trình lịch sứ Việt Nam. Bên cạnh người
láng giềng phương Bắc hùng mạnh, luôn có xu hướng thâu
tóm, đồng hóa và sáp nhập Đại Việt thành một phần lảnh
thổ cúa họ, Đại Việt còn phải ứng xử với những người láng
giềng ở phía Tây và phía Nam. Không to lớn, vĩ đại như
người khổng lồ Trung Hoa nhưng Chămpa và Ai Lao luôn
làm cho các triều đại trong lịch sử Việt Nam phải để mắt,
tính toán đến mỗi khi có những biến cố quan trọng. Đặc
biệt là với người Chàmpa ờ phương Nam mà sử Việt hay
Tàu trước kia gọi là Lâm Àp, rồi Chiêm Thành.
Xét về thời điểm lập quốc thì nhà nước (vhàmpa ra đời
từ khá sớm, vào khoảng cuối thế kỷ II. Vào khoảng thời gian
này, các mô hình nhà nước Việt sơ khai đả bị lan rà bởi sự
xâm lấn của Trung Hoa và đang trong thời kỳ Bắc thuộc. Do
lãnh thổ có khoảng cách xa xôi, địa hình hiểm trớ, đi lại khó
khản nên chính quyền đô hộ không thể can thiệp hoặc xâm
lấn quá sâu vào lảnh thổ Chãmpa. Bên cạnh đó, vàn hóa
Nam Á lại có một hành trình riêng biệt và ảnh hưởng mạnh

mẽ đến các quốc gia Đòng Nam Á nói chung và Chãmpa nói
riêng. Hội tụ hai điều kiện trên, Chàmpa đâ phát triển độc
lập vơi một thể chế chính trị, kinh tế, văn hóa khác biệt so
với Trung Hoa. Khoảng thế ký IX, X, Chãmpa đã có những
thành tựu rực rỡ về kinh tế, chính trị và văn hoa. Khi đó,
Đại Việt mới bước vào quá trinh tái cấu trúc mô hình nhà
nước độc lập, tự chủ sau nghìn năm Bắc thuộc. Từ khi


26

T ú :ỉáclì

V íi’t ĩ*Jíiĩn - liất ĩtỉrớc, con n^ưởi



Chămpa lập quốc cho đến trước khi Đại Việt tái cấu trúc
nhà nước, mối quan hệ bang giao đâ diễn ra rồi, mặc dù đó
là quan hệ với chính quyền đô hộ. Tuy nhiên, khoảng thời
gian này đả tạo tiền đề cho một giai đoạn quan hệ, giao thoa
sôi động trong thời Trung đại của lịch sử Việt Nam.
Trong diễn trình lịch sử của Việt Nam, quan hệ giữa Đại
Việt và Chămpa có thể được chia thành 4 giai đoạn chính.
1.
Quan hệ giữa chính quyền đô hộ với Chămpa thời
Bắc thuộc
Đây là thời kỳ sơ khởi cho quá trình bang giao kéo dài
giừa Đại Việt và Chămpa sau này. Những dấu ấn không nhiều
nhưng cũng đủ cho chính sử Đại Việt ghi chép đưỢc một số

cuộc đụng độ giữa chính quyền đô hộ với Chiêm Thành (bao
gồm cả việc người Chiêm liên kết với một vài cuộc khởi nghĩa
của người Việt để chống lại chính quyền đô hộ).
Từ trước năm 192 đến 248, quan hệ giữa chính quyền đô
hộ với Chămpa chủ yếu xảy ra theo con đưímg chiến tranh.
“Đời vua Quang Võ nhà Đông Hán, năm 40, ở Giao Chỉ, hai
chị em Bà Trưng khởi nghĩa, man di ở Nhật Nam có hưởng
ứng. Nhà Hán sai Mã Viện sang đánh dẹp, không đầy 3 năm
bình định hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân, nhưng quân Hán vào
đến hai huyện Cự Phong, Vô Công cùa quận Cửu Chân rồi trở
lui, chứ không vào đến quận Nhật Nam (tuy nhiên, Mã Viện
cũng lập đưỢc cột trụ đồng để đánh dấu cương vực ở Hà Tĩnh
ngày nay - Đ.Đ.T)“’.
Sau khi người Chăm lập quốc và tự gọi vương quốc của
mình là Chămpa, sứ Trung Hoa và Việt gọi là Lâm Ảp, thì
Nuô Sỹ Liên. D ạ i I 'ici .sir ký loàn ihir. lập 1. N \b K lio u hụ c X ã h ộ i. I là
Nọi. 1972. lr.9'ỉ.


×