Tải bản đầy đủ (.pdf) (314 trang)

Dân ca các dân tộc Pu Péo, Sán Dìu, Dao, Lô Lô, Cao Lan: Phần 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (20.36 MB, 314 trang )

p N GIAN VIỆT NAM
fu TÁC GIẢ

DÂN CA CÁC DÂN TỘC
Pu Péo, Sán Dìu, Dao, lô Lô, Cao Lan

QJ

N H À X U Ấ T B Ả N V Ă N HÓA D Â N TỘC



DÂN CA CÁC DÂN TỘC PU PÉO,
SÁN DÌU, DAO, CAO LAN, LÔ LÔ



HOI VAN NGHE DAN GIAN VIET NAM

DAN CA CAC DAN TOC PU PEO,
SAN DIU, DAO, CAO LAN, LO LO
• D A N C A PU PEO (Le Trung Vu - si/u tarn, gicJi thieu)
• D A N C A SAN DIU (Diep Thanh Binh -

sl/u

tarn va bien djch)

• D A N C A D A O (Do Quang Tu - Nguyen Lien siru tam va bien dich)
• XIN H C A C A O LAN (Lam Q uy - siru tam va dich)
• D A N C A TR O N G l l H O I C U A N G U O l LO LO (TS. L6 Giang Pao siru tam va bien dich)



NHA XU AT BAN VAN HOA DAN TOC
HA NQI-2012



D ự ÁN C Ô N G BỐ , P H Ổ B IÊ N
TÀ I SẢ N VĂ N H Ó A , VĂN N G H Ệ DÂN G IA N
V IỆ T NAM
( E l, N gõ 29, Tạ Q uang Bửu - B ách Khoa - H à Nội
Đ iện thoại: (04)3627 6439; Fax: (04)3627 6440
Em ail: duandangian@ gm ail.com )

BA N C H Ỉ ĐẠO
1. GS. TSKH. TÔ NGỌC THANH

Trưởng ban

2. ThS. HUỲNH VĨNH ÁI

Phó Trưởng ban

3. GS. TS. NGUYỄN XUÂN KÍNH

Phó Trưởng ban

4. Ông NGUYỄN KIỂM

ủ y viên


5. N hà văn ĐỖ KIM CUÔNG

Uy viên

6. TS. TRẦN HỮU SƠN

Úy viên

7. N hà giáo NGUYỀN NGỌC QUANG

ủ y viên

8. ThS. ĐOÀN THANH NÔ

Uy viên

GIÁM ĐỐC VĂN PHÒNG D ự ÁN
ThS. ĐOÀN THANH NÔ

5



Chịu trách nhiệm nội dung:
GS.TSKH. TỐ NGỌC THANH
Thẩm định nội dung:
HỘI ĐỒNG THẨM đ ị n h b ả n t h ả o




LỜI GIÓI THIỆU
H ộ i Văn nghệ dân gian Việt Nam (VNDGVN) là một tổ
chức chính trị xã hội nghè nghiệp, nằm trong khối Liên hiệp
các Hội Vãn học nghệ thuật Việt Nam.
Quyết định số 82/NV, ngày 01/03/1967 của Bộ Nội vụ
thay mặt Chính phù đã cho phép Hội Văn nghệ dân gian thành
lập và hoạt động trên phạm vi toàn quốc và có mối liên hệ nghề
nghiệp với các tổ chức khác ở trong nước và nước ngoài.
Tôn chỉ mục đích của Hội là “S ư u tầm, nghiên cứu, plìỗ
biến và truyền dạy vốn văn hóa - văn nghệ dân gian các tộc
người Việt N a m ”. Trên cơ sớ thành quả của các công việc trên,
Hội là một trong những đội quân chủ lực góp phần bảo tồn và
phát huy những giá trị văn hóa - văn nghệ mang đậm bản sắc
dân tộc đã được ông cha ta sáng tạo và giữ gìn trong suốt mấy
nghìn năm của lịch sử dân tộc.
Những giá trị sáng tạo đó thể hiện moi quan hệ của các
tộc người Việt Nam với thiên nhiên thông qua các tri thức sản
xuất nông nghiệp; với xã hội thông qua phong tục tập quán,
hội xuân; với nhân sinh quan thông qua các nghi lề vòng đời
người; với vũ trụ và thế giới tự nhiên đã được siêu nhiên hóa
thông qua các loại hình tín ngưỡng tôn giáo; với lý tưởng
thẩm mỹ thông qua các sáng tạo văn học nghệ thuật. Ờ mỗi
tộc người Việt Nam, những lĩnh vực và hình thái văn hóa vãn nghệ này lại được thể hiện trong một sắc thái riêng. Chính
9


kho tàng văn hóa da dạng đó là nội dung, là đối tượng hoạt
động của hội vicn Hội VNDGVN.
Sau hơn bốn mươi năm hoạt động, dược sự lãnh dạo cua
Đảng và sự chăm sóc của Nhà nước, IIỘi VNDGVN đã lớn

mạnh với gẩn 1.200 hội viên, số công trình do hội viên của
Hội đã hoàn thành lên đến gần 5.000 công trình, hiện đang
được lưu trữ và bảo vệ tại Văn phòng Hội.
Nay, dược sự quan tâm của Ban Bí thư và Thủ tướng
Chính phủ, Dự án “Công bố và p h ổ biến tài sản văn hóa -văn
nghệ dân gian các dân tộc Việt N a m ” đã được phê duyệt.
Trong thời gian 10 năm, Dự án sẽ chọn lọc khoảng 2000 công
trình trong số bản thảo Hội lưu trữ của hội viên và xuất bàn
dưới dạng các cuốn sách nghicn cứu, sưu tầm. Trước mắt
trong giai đoạn đầu (2008 - 2012), chúng tôi dự định sẽ chọn
xuất bàn 1.000 công trình.
Hy vọng, các xuất bàn phẩm của Dự án sẽ cung cấp cho bạn
dọc trong và ngoài nước một bộ sách mang tính chất bách khoa
thư về các sẳc màu văn hóa của các tộc người Việt Nam, phục vụ
thiết thực vào việc tra cứu, mở rộng hiểu biết của bạn đọc về
truyền thống văn hóa giàu có và độc đáo đó; góp phần xây dựng
nên “Văn hóa Việt Nam tiên tiên, đậm đà bản sãc dân tộc”.
Trong quá trinh thực hiện nhiệm vụ, Dự án mong nhận
được ý kiến chi bảo kịp thời của bạn đọc gần xa.
Xin chân thành cảm ơn !
Trưởng B an c h ỉ đạo th ự c hiện d ự án
GS.TSKH. TÔ NGỌC THANH

10


DAN CA PU PEO
sưu tầm, giới thiệu
LỂ TRUNG VŨ




DÂN CA PU PÉO
SỨC SỐNG MÃNH LIỆT CỦA MỘT TÔC NGƯỜI
TRÊN CAO NGUYÊN ĐÁ
Thanh niên nam nữ Pu Péo có tập quán sinh hoạt nghệ
thuật rất hay là vào đêm cuối năm - 30 tháng Chạp âm lịch
hẹn nhau đến tụ họp tại nhà nghệ nhân để học hát. Và cũng
nhân đấy tiễn năm cũ, đón mừng nãm mới.
Nghệ nhân là cụ ông hay cụ bà đểu được, miễn là các cụ
có một thời thanh xuãn nổi tiếng là người say mê ca hát. hát
hay, hát giỏi, tính tình đôn hậu.
Việc lo liệu tết nhất của mọi nhà đã xong. Giờ này, họ
quây quần bên bếp, chất thêm củi cho lửa bừng sáng nhà,
ấm người và quên đi cái rét buốt lạnh lẽo của núi rừng bao
quanh đêm trừ tịch. Một người đại diện cho trai gái làng có
vài lời xin gia chủ cất tiếng hát cho con trẻ “nối tài người
già” và để “giữ cái hay, cái thơm của dân tộc m ình” .
Người già hút xong điếu thuốc, chiêu ngụm trà nóng, vui
vẻ lên liếng, chìm đắm trong giọng dân ca đầm ấm. quen
thuộc. Lớp trẻ chăm chú học, nhắc lại từng câu, từng câu,
kiên nhẫn và đầy hứng thú.
Gần giao thừa, cuộc hát ngừng nghĩ chốc lát để “đón
giọng gà” . “Đón giọng gà” (di-ơ-k-loang káy) là một tục lệ
của người học hát. Trời sắp sang canh, gà sẽ cất tiếng gáy.
13


Làm sao phải đôt quả pháo kịp ném vào chuông gà đúng lúc
nó vừa vỗ cánh để buóc nó phải “tắc tiêng gáy” . Ai làm

được thì sẽ gập may, nám mới sẽ sáng trí, thuộc nhiều lời
ca, hát giỏi. Người ta nghĩ, tiếng gà gáy đã hay lại thiêng vì
nó gọi được mặt trời dậy ("Bài ca chào mặt trời"). M à ticng
gà gáy đầu năm càng quý vì đó là tín hiệu chào mừng năm
mới, đem theo biết bao điều may mắn tới cho người. Vì vậy
con người phải “át tiếng gà” , thay tiếng mình vào thì cả năm
ấy sẽ hát hay, sẽ hạnh phúc!
Niềm say mê nghệ thuật và lòng trân trọng nguồn dân ca
của người Pu Péo đến thế thật độc đáo. Người ta coi dân ca
như mạch sống của nòi giống và phải nuôi dưỡng nó, người
tré phải “nối tài người già” . Luyện dạy và truyền nghề vào
giờ thiêng - giao điểm của năm cũ và nãm mới là hành động
được coi như một mỹ tục định kì.
Người ta ca hát trong nhiều tình huống, bằng nhiều cách
diễn cảm, theo những yêu cầu riêng. Song tựu trung có thể
quy vào hai thế loai chính, là hát nghi lễ - phong tục và hát
sinh hoạt - VUI chơi.

Nhóm các bài hát nghi lễ - phong tục gồm nghi lễ trong
đời sống và nghi lễ nông nghiệp.
Trong đời sống, năm mới là cơ hội đặc biệt để thực hiện
các nghi thức trang trọng. Làm sao phải tiễn năm cũ cho
trọn linh và đón nãm mới cho chu đáo ihì mỗi người mới
khỏe mạnh, mỗi gia đình mới bình yên, vẹn toàn. Cứ mỗi
lần Têt đến. nhà nào cũng cử hành ba nghi lễ tuần tự theo
thời gian: Lễ chiêu hồn (chiều 29 tháng Chạp), Hát đón giao
thừa (đêm 30 tháng Chạp) và Hát mừng năm mới (rạng sáng
mồng một).
14



Những nghi lễ này dùng điệu lay khing, một điệu nhạc
chậm rãi, ngâm ngợi. Lay klừng (lay biệt) hay xỉng khìng
cùng chung điệu nhạc, song ứng vào đề tài khác nhau. Lay
khing dùng trong lễ Chiêu hồn và lễ tang. Còn hát đón giao
thừa và mừng năm mới thì dùng xỉng khing, tiết tấu có thay
đổi chút ít, vui hơn lay klùng.
Lễ cưới là giai đoạn hát nhiều nhất của tiến trinh hôn lễ.
Làn điệu “H nải” được dùng trong tiệc vui, cũng dùng vào
đây. Chẳng hạn, khi nhà trai hát cảm ơn nhà gái dọn rượu
đón tiếp mình (Hnải chúng pần cliứng mí) hoặc khi nhà gái
mở gói đổ dản cưới ra xem (Hndi phà pảù).
Trong nông nghiệp, lay khing là điệu nhạc duy nhất được
dùng vào các nghi lễ cầu mùa, đón đòng (gọi vía lúa “nguồn
gốc cây lúa, cây ngô”); lễ mừng lúa m ớ i...
Nhóm các bài hát sinh hoạt - vui chơi có các làn điệu âm
nhạc sinh động, nét giai điệu trữ tình hơn. Đôi khi vẫn dùng
cả làn điệu của nhóm trên. Chẳng hạn như chủ khách hát
đối đáp trong tiệc rượu đầu xuân bằng điệu “Hnải” và là
“Hnải ching - H nải chiêng”.
Pưn tuống là một loại hát nói, tiết tấu chậm rãi, các câu
hát dài ngắn cũng khác nhau, thường thấy trong các đề tài
kể chuyện, kể chuyện đời xưa.
Xỉng cuối, xỉng cáp là làn điệu dùng trong các bài ca
“mừng nhà mới” hoặc hát vui như “Đùa anh chăn ngựa” . ..
Đặc biệt hát đối đáp nam nữ trong “Đêm hát giao
duyên” người ta dùng Xỉng lớn. Nhạc điệu có màu sắc dân
tộc, song phải biến hóa và phục vụ cho thể thơ tứ tuyệt, là
loại kỹ thuật xa lạ với nguồn thơ ca dán tộc. Đâv là hiện
15



tượng giao lun văn hóa Pu Péo - H án tộc. Đ iều này có thê
giải thích bằng ý kiến sau đây của già làng (vào những năm
1965 - 1968). Cách nay khoảng 5 đời (khoảng giữa th ế kỉ
XIX - LTV) người Pu Peo cư trú biệt lập. Lúc ấy dùng
“CHÓ/” (Xỉng cuối) và “cáp” (xỉng cáp) để hát trao đổi tình
càm yẽu đương hoặc giao tiếp, chào hỏi nhau trong xã hội.
Sau đó người Pu Péo ở gán rồi ớ xen kẽ với người Hán,
buôn bán với họ (trao đổi sản p h ẩ m ...), hát tình yêu nam nữ
và lấy nhau giữa hai dân tộc. N hư vậy là hiện tượng biến
động về cư trú kéo theo sự phát triển các mối quan hệ xã
hội, tộc người và do đó giao lưu văn hóa.
Dân ca là nguồn tâm sự sâu lắng, cô đọng của mỗi dân
tộc. Vì vậy dân ca có giá trị tự thân to lớn, chứa đựng lượng
thông tin đáng kể.
Dân ca đã ghi lại đời sống thông qua mối quan hệ nhiều
chiều của con người. Người với m ôi trường (thiên nhiên,
thần thánh, ma quỷ, động vật (như: thú rừng, gia súc...),
cây trồ n g ...); người với người: từng thành viên với gia đình,
dòng họ, giữa các thế hệ (con cháu - tổ tiên, bố mẹ - chàng
rể); bạn với bạn; nam - nữ; cá thể và cộng đ ồ n g ... Những
mối quan hệ này thường bộc lộ thông qua các tôn giáo, hoạt
động tôn giáo và phong cách tư duv cổ (tín ngưỡng thờ tổ
tiên, tín ngưỡng đa thần, tục thờ m ặt trờ i...). Dân ca phản
ánh một xã hội có tổ chức, sóng theo ki cương, truyền thống
đạo đức (kinh già. yẽu tré, tình nhân ái, tinh thần lao động
bến bí và sáng tao ...).
Nhiéu đề tài được m ở ra. khai thác, giãi bày tâm tư con
người, thế ứng xử, tinh thần lạc quan và trí thông m inh

16


phản ánh cuộc sống nội tâm phong phú của m ột dân tộc
trong quá trình đấu tranh sinh thành để tự khẳng định giữa
m ột bối cảnh lịch sử và không gian ít thuận lợi.
Quả vậy, giá trị dân ca Pu Péo được biểu hiện ở sức sống
nội tại và bản sắc dân tộc. Dân ca được sáng tạo và lưu
truyền bằng phương pháp truyền miệng, trẽn cơ sớ chất liệu
nghệ thuật - lời ca cổ truyền và phần nào đó, bằng chất liệu
ngoại lai (đan xen văn hóa).
Như sẽ thấy trong phần dán ca, tất cả các loại bài hát
nghi lễ - phong tục và sinh hoạt - vui chơi (phần I, II, DI)
được sáng tạo hoàn toàn bằng chất liệu dân tộc (âm nhạc lời ca, nghi thức trình diẽn) phục vụ cho các lễ tiết - sinh
hoạt tín ngưỡng của nội bộ cộng đồng. Ý nghĩa sâu xa của
tình hình này là, bản sắc và bản lĩnh dân tộc là gốc. là bền
vững, không thể pha tạp, không thể m ất mát. Chúng ta nhớ
lại rằng, nhân khẩu Pu Péo này chỉ còn 300 người, số dân
vào loại ít nhất trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam (1>.
Những ai đã từng một lần tới vùng cao tỉnh Hà Giang, đi
qua các xã Phố Là, Sủng Chéng (huyện Đồng Văn) rồi đọc
các bài ca trong các chương trên, đều có thể thấy hiện lên
khung cảnh núi rừng quê hương người Pu Péo với những địa
danh, địa hình rất cụ thể, thân quen. Tính chân thực bộc lộ
rõ trong lời văn cầu thần thánh; cúng tổ tiên, vừa khẩn thiết
(1> V ề các vấn đẻ như tộc danh, lịch sử di cư và các quá trình định cu,
hệ ngôn ngữ, nén kinh tế sinh nghiệp của dân tộc Pu Péo xin đọc trong
'T ruyện c ổ Pu P éo” (Lê Trung Vũ sưu tầm, giới thiệu) trang 2 - 3 , Nxb
Văn hóa dân tộc, nãm 1988. Theo Tổng điểu tra dân số và nhà ở năm
2009, ở Việt Nam người Pu Péo có dân số 687 người.


17


vừa cổ sơ, rất mực thân tình chân chất (“ Đón mừng năm
m ới”, “ Lễ chiêu hồn” , “Đón giao thừa” ...). Còn khi đọc
“Tết, bạn cũ gặp nhau” , “Hát ru” ... chúng ta như được giao
tiếp với những lời nói, tấm lòng nhân hậu, vui tươi và rất
mực V C U đời. Hát đố là những bài ca đôi đáp ngắn, sắc bén,
vui hóm và thông m inh...
Riêng phần IV, về Hát giao duyên, nam nữ đối đáp, dài
như một bán tình ca nồng nàn, được sáng tạo trên cơ sỡ giao
lưu văn hóa, dưa vào m ột thể thơ Hán tộc để thể hiện tâm
hổn dân tộc, m à tình hình được xác định theo ý kiến của già
làng như đã trình bày ở trên. Ở đây, sự đấu tranh cho một
tình yêu trong sáng, nhằm đạt hạnh phúc lứa đôi chân chính
được lần lượt diễn tả qua các chặng tình cảm thăm dò, tâm
tình, thề thốt, chia ta y ...
Dân ca Pu Péo đúng như người Pu Péo nghĩ, đó là “cái
hay, cái thơm của dân tộc” , đó cũng là sức sống m ãnh liệt,
ngọn lửa bcn trong vẫn rực cháy của những tâm hồn đa
dạng nhưng chuyên nhất với những đặc điểm đã biết; đã
được giữ gìn trân trọng trong trí nhớ các thế hệ nghệ nhân,
hôm nay muốn được giãi bày, muốn được góp them hương
sắc vào kho tàng dân ca trữ tình rộng lớn của các dân tộc
Việt Nam.
Chúng tôi xin ghi nhớ công lao của các nghệ nhân
Trương Thị M áy. Củng Díu Lòng, Tráng Pháng Lý, Phụ Du
Máy cùng cụ Lê Hải đã giúp đỡ cung cấp tư liệu và tích cưc
cộng tác đế hoàn thiện tác phẩm.

Lê Trung Vũ
18


Phần I

HÁT PHONG TỤC
I. TRỔNG LÚA, TRỔNG NGÔ
BÀI CA CHÀO MẶT TRỜI
Thuở xưa thế kia
Ngày xưa thế ấy.
Có một mặt trời
Có một mặt trãng.
Mải chơi trên núi
Mải chơi trong mây.
Mặt trời vấp ngã
Rơi xuống vực sâu
Mặt trăng vấp ngã
Rơi xuống vực thẳm
Tụt xuống thấp, thấp mãi
Thấy núi cao, cao mãi.
Vách núi thảng đứng
Da núi trơn tuột.
Bầu trời chợt tối sầm
Mặt đất như mù sương.
19


Lúc nào cũng là đếm đen
Trời đất như ở trong hòm

Mặt trời nằm im, lắng nghe
Măt trăng nằm lặng, lắng nghe.
*
*
*
Thuở xưa thế kia
Ngày xưa thế ấy
Có hai anh em
Anh là Cau Cưông
Em là Cau Cựa
Đem gà trống đi gọi m ặt trời
Ôm gà trống đi tìm mặt trăng
Cau Cuông đến bờ vực
Cau Cựa đến bờ núi.
Cùng cất lời van lạy:
- “Xin mặt trời trở về
Chiếu sáng ban ngày
Xin mặt trãng trở lại
Chiếu sáng ban đêm
Mời mật trời trờ về
Mời mặt trăng trở lại
Cho yên lòng người bản
Cho xanh lá cây rừng” .
Cau Cuông, Cau Cựa
Lại cất lời xin:
Đừng giận giống người
Đừng thù muông thú.
20



Gà trống cất tiếng hát
Hát một lần. Chưa tỏ.
Hát hai lần. Nghe rõ.
Hát ba lần. Nghe hay.
Phương Đông buổi mai
Rừng rực lửa hồng.
Mặt trời mở mắt
Ánh sáng bay lên.
Bầu trời mở rộng
Sáng từ phương Đông
Sáng tới phương Tây
Phương Đông buổi mai
Rực lên ánh hồng
Nghe chim líu lo
Mắt người bừng sáng.
Nhìn rõ cây trong rừng
Nhìn rõ cọ trên đồi
Nhìn rõ lúa trên nương
Nhìn rõ người trong bản
Mặt trời bừng lên từ chỗ ấy.
Nhà nhà mở cửa chào đón
Người người ùa ra đón chào.
Sáng sáng, mặt trời thức giấc từ phương Đông
Chiều chiều, mặt trời về phương Tây ngủ yên.
Như thế, như thế,
Trời đất tưng bừng,
Làng bản sướng vui.
{Củng Díu Lèng hát)
21



N GUỒN GỐC C Â Y LÚ A , CÂ Y NGÔ
Ngày xửa ngày xưa,
Xưa lắm chuyện kể rằng:
Người ta ãn củ nâu, củ mài.
Ngày qua ngày, tháng nối tháng
Đào củ mài trong rừng sâu
Tìm củ nâu trên núi thẳm
Ăn trong rừng, trên núi cao.
Ngày xưa chưa có hạt ngô
Không có hạt lúa
Ãn củ rừng vẫn no bụng
Án củ núi vẫn no lòng.
Nhưng người không lớn, không khôn
Thán hình gầy giơ xương
Ăn càng nhiều bụng càng to, chướng
Ăn càng lắm bụng càng phình ra.
Người trẻ khẳng khiu, người già ốm yếu.
Da mặt bủng vàng
Người chảng nên người, khổ lâu khổ mãi
Khổ cực kéo d à i...
Không chỉ con người ta than thở
Thú rừng cũng phải kêu van
Tiếng kêu than rén rĩ núi non.
*

*
22

*



Hai ông Sáng(1) nghe lời than, thấu nỗi cực,
Từ trời bay xuống mách người mặt đất
- Có giống hồng cẩm chứa trong chum quý
Lại cả kê, mạch, ngô đầy ắp chum trời.
Ăn cơm ngon, bụng người không chướng
Ản ngô thơm, da hết bủng vàng
Trẻ em béo tốt
Người già thêm tuổi!”
Chuyện thật lạ, chuyện thật mới,
Người vây quanh hỏi:
- “Làm thế nào lên được tới nơi
Đem giống quý về,
Cứu nguời đang đói?”
- “Đường lên có thang trời.
Lấy sáp ong miết vào từng bậc
Lấy sáp ong đắp kín kẽ chân
Dùng sáp ong đắp kín kẽ tay
Lần theo thang, từng bậc, cứ lên, lên mãi!”
Người bước lên thang, thang nghiêng nghiêng
Bước xuống thang, thang rung rinh®
- “Thang nghiêng đừng lo
Thang rung đừng ngại
Vòng đi rồi vòng lại
Từng bước bước lên cao” .
Vòng đi rồi vòng lại
(1) Ông Sáng ngày: Mặt trời. Ông Sáng đêm: Mặt trãng.
(2) Thang dài quá, bị võng.


23


×