Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Cơ chế gây cười trong truyện cười dân gian Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (316.15 KB, 11 trang )

Năm học 2010 – 2011

CƠ CHẾ GÂY CƯỜI TRONG TRUYỆN CƯỜI DÂN GIAN VIỆT NAM
Phan Ngọc Trần
(SV năm 4, Khoa Ngữ văn)
GVHD: PGS.TS Hoàng Dũng
1. Mở đầu
Truyện cười dân gian Việt Nam là bộ phận văn học có vị trí quan trọng và liên
tục khẳng định vững chắc đặc trưng một thể loại riêng. Các truyện cười luôn tồn tại với
tư cách sản phẩm hoàn chỉnh của hoạt động giao tiếp bằng lời, tiếng cười của nó có liên
hệ chặt chẽ với các hiện tượng ngôn ngữ. Bản chất cái hài này cũng được tri nhận
thông qua nhiều cơ chế tâm lý phức tạp; những cơ chế này, đến lượt mình, thúc đẩy sự
triển khai thành những cơ chế ngôn ngữ riêng phục vụ trong địa hạt truyện cười.
Nghiên cứu các cơ chế gây cười như thế có ba tác dụng: 1) hỗ trợ tiếp nhận truyện cười
ở các chiều sâu nhất định; 2) trong một chừng mực giúp tự sáng tác và hỗ trợ đánh giá
những truyện cười chưa được nghe, chưa được đọc; 3) phục vụ công tác giáo dục: cung
cấp tri thức và tăng cường hiệu quả thụ đắc tri thức qua bài học.
Ngữ liệu khảo sát: Tiếng cười dân gian Việt Nam [5] (nguồn chính); Tinh hoa văn
học dân gian người Việt – Truyện cười (ba quyển) [11].
2. Các vấn đề nền tảng
2.1. Con đường nắm bắt cơ chế (ngôn ngữ) gây cười và các vấn đề tâm lý nền
tảng
Tính hài là một phạm trù bao hàm toàn diện các đối tượng, sự kiện có tiềm năng
gây ra tiếng cười. Dù không có một quan hệ hai chiều giữa tính hài (hiện tượng tinh
thần) và tiếng cười (ngoại biểu sinh lý học thần kinh) nhưng để đơn giản hóa trong
trình bày, ở đây ta chấp nhận sự tương đương tạm thời giữa ý niệm “gây tiếng cười” và
“có/tạo (được) tính hài”.
Người viết đề xuất ba bước thử nghiệm nắm bắt cơ chế gây cười, tương đương
với việc trả lời ba câu hỏi: 1) nắm bắt bối cảnh phát sinh tiếng cười (Người ta cười khi
nào?), 2) nắm bắt cơ chế tâm lý (Tại sao người ta cười?) và 3) vận dụng cơ chế ngôn
ngữ (Làm thế nào để người ta cười?). Theo con đường này, trước tiên ta phải hiểu được


các ý niệm căn bản về ba cơ chế tâm lý đóng vai trò chủ đạo trong khoa nghiên cứu
tính hài: cơ chế bất tương hợp - giải quyết (ta cười khi nhận thức sự xung đột giữa cái
được mong đợi và cái thực sự xảy ra), cơ chế ưu thế (ta cười khi thấy người khác yếu
thế hơn ta), cơ chế khuây khỏa (ta cười để phóng thích nguồn năng lượng sinh ra từ các
cấm đoán theo chuẩn xã hội). Ba lý thuyết này cùng nhằm lý giải nguyên do tiếng cười,
dù rõ là không lý thuyết nào dành riêng đề cập địa hạt truyện cười. Trong phạm vi khảo
sát đề tài, nếu cơ chế bất tương hợp có thể xử lý nguyên cớ tiếng cười hình thành từ, ví
dụ, “độ lệch” đáng kể giữa nội dung - hình thức thì cơ chế ưu thế và khuây khỏa lại lý
giải tiếng cười như một dạng thức vũ khí mang bản chất công kích, nhạo báng các đối
225


Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH

tượng (tiêu cực) để sau đó mang lại niềm sảng khoái trong thỏa mãn các cấm kỵ chế
định theo lệ thường xã hội.
2.2. Mô hình tách rời đồng vị tính và một số đặc trưng của văn bản truyện cười
(dân gian Việt Nam)
Ở phần này, một số thành tựu trong nghiên cứu mô hình tách rời đồng vị tính
(isotopy disjunction model) do Greimas khởi xướng được đề cập nhằm hỗ trợ cái nhìn
đa diện và có chiều sâu (ở chừng mực nhất định) về văn bản truyện cười. Những kiến
thức này đến lượt mình cũng giúp nhận dạng, phân chia và đánh giá hiệu quả các cơ
chế tạo tính hài trên bình diện ngữ học.
2.2.1. Lý thuyết về đồng vị (isotopy) và mô hình tách rời đồng vị tính
Greimas phát biểu: “Qua đồng vị ta nhận thức được một bộ lặp lại các phạm trù
nghĩa học tạo nên cách lý giải bất biến của văn bản […] Với thuật ngữ đồng vị, chúng
tôi muốn nói khái quát đến một bộ các phạm trù nghĩa học lặp lại, làm cơ sở cho diễn
ngôn đang được xem xét” [1, tr. 76]. Groupe µ đề xuất xác định lại quá trình tìm ra
đồng vị trong một văn bản nhất định là sự kết hợp của hai bộ các ý nghĩa khả hữu cho
các đơn vị bao hàm trong đồng vị. Sau khi điểm qua các loại đồng vị, Eco kết luận

đồng vị là “một thuật ngữ bao hàm trùm phủ lên nhiều hiện tượng khác biệt”, là “tính
cố định trong đi vào một chiều hướng mà một văn bản thể hiện khi phục tùng những
quy tắc của mạch lạc trình bày”. Nói cách khác, khi tham gia vào quá trình quyết định
chủ đề của văn bản mà người nghe/người đọc đang phân tích, họ phải sử dụng một
lượng các công cụ ngữ học và luận học; một số trong những công cụ này được liên hệ
trực tiếp với cái gọi là đồng vị. Attardo đề xuất đánh đồng các đồng vị nghĩa học
(semantic isotopies) với ý nghĩa của văn bản. [1, tr. 80-81]
2.2.2. Cấu trúc văn bản truyện cười theo lý thuyết tách rời đồng vị tính
Mô hình ba chức năng của văn bản
Morin tái cấu trúc một chuỗi tương đương với “những tính chất bất biến của cấu
trúc” với sự hiện diện của ba yếu tố tự sự (narrative elements) – ba “chức năng”
(functions): a) Bình thường hóa (normalization): đặt nhân vật vào cảnh huống cụ thể
(hiện thực hóa bằng khúc đoạn giới thiệu nhân vật, cảnh huống và trên đại thể thiết lập
bối cảnh các sự kiện được tường thuật với mục đích “thực thi chức năng như cái nền/
bối cảnh cho bộ phận đối thoại”; b) Móc cài (interlocking): thiết lập câu hỏi/ vấn đề để
giải quyết (mang tính hội thoại, tạo lập mong đợi, đưa ra nhu cầu cần giải quyết trong
truyện, thường chứa đựng yếu tố nối kết giúp chuyển đổi giữa hai ý nghĩa một văn bản
truyện cười đặc trưng ngôn ngữ); c) Tách rời (disjunction): giải quyết vấn đề một cách
khôi hài (xuất hiện cuối văn bản, chứa đựng yếu tố tách rời gây một chuyển đổi từ ý
nghĩa nghiêm túc sang ý nghĩa hài, chịu trách nhiệm về hiệu ứng gây cười của văn
bản).
Văn bản truyện cười là kết quả của chuỗi móc nối ba chức năng tường thuật, ba
chức năng này có mối quan hệ ít nhiều tương ứng với ba phân đoạn của hoàn cảnh
226


Năm học 2010 – 2011

(phân đoạn đầu, phân đoạn nút, phân đoạn kết thúc) trong phân tích cấu tạo truyện cười
từ quan điểm thi pháp học [8, tr. 249]. Rõ ràng, tiếng cười chưa chắc đã có thể sản sinh

(một cách tối đa) chỉ dựa vào những tính chất có tiềm năng gây cười, như Đỗ Bình Trị
nhận xét: “Nhưng bản thân thói xấu chưa đủ gây ra cái cười. Chẳng hạn, nếu kể rằng:
Xưa, có một anh keo kiệt, keo kiệt lắm, keo kiệt kinh khủng, keo kiệt đến mức coi đồng
tiền hơn cả tính mạng mình, v.v… thì chẳng ai nhếch mép. Người ta phải tạo ra một
hoàn cảnh thích hợp để mâu thuẫn tiềm tàng bộc lộ dưới dạng cái ngược đời” [8, tr.
244]. Các hoàn cảnh kích hoạt tiếng cười như thế là phong phú và không dễ để quy về
các tiểu loại, nhưng nhìn bao quát đều chịu sự chi phối của ba chức năng tường thuật.
Quá trình khử mơ hồ và tổ chức tuyến tính của văn bản
Trên đại thể, tính mơ hồ trong ngôn ngữ có thể xem điều bản chất hơn là một biệt
lệ. Tuy vậy các phát ngôn (trong hành chức) không hẳn luôn mơ hồ/thiếu rõ ràng bởi
ngữ cảnh (cả ngữ cảnh ngôn ngữ và ngữ cảnh tình huống) sẽ kéo độ mơ hồ của phát
ngôn xuống đến bằng không/mức chấp nhận được trên phương diện dụng học cho giao
tiếp). Ta gọi đây là hiện tượng khử mơ hồ. Quá trình khử mơ hồ một câu (thành tố cấu
thành văn bản) xuất hiện khi một lựa chọn tích cực được tạo ra giữa các ý nghĩa khác
nhau của các đối tượng từ vựng tạo thành nó. Ý nghĩa cho câu được xác định sau khi
một bộ các lựa chọn mạch lạc (đồng vị) được tập hợp hoàn tất.
Quá trình khử mơ hồ văn bản hoạt động theo dạng thức tuyến tính. Ta biết rằng
tín hiệu ngôn ngữ có bản chất tuyến tính, văn bản được tạo lập cùng bản chất tuyến
tính, sự khử mơ hồ lại là một thủ tục lĩnh hội văn bản, do đó quá trình khử mơ hồ cũng
phụ thuộc vào một thủ tục nắm bắt dần các yếu tố nối tiếp nhau trong không gian và
thời gian. Sự trình bày tuyến tính tương đương với sự trình bày truyện cười trên một
trục thời gian, ở đó các đối tượng bộ phận (bất kể bản chất) được xử lý từng yếu tố
một, liên tục nhau trong một chuỗi mạch lạc [12, tr. 329].
Nhận thức được bản chất tuyến tính như thế, ta phân biệt hai thời đoạn trong thủ
tục khử mơ hồ văn bản: ở phần đầu quá trình, một đồng vị/ý nghĩa thứ nhất (S1) được
thiết lập cho đến khi người nghe bắt gặp yếu tố nào đó gây ra con đường chuyển di từ ý
nghĩa thứ nhất sang một ý nghĩa thứ hai (S2) có nét đối lập với ý nghĩa thứ nhất. Yếu tố
gây ra con đường chuyển di từ S1 sang S2 gọi là “yếu tố tách rời” (disjunctor); nó tương
đương với “điểm chuyển cấu trúc thông tin” sẽ trình bày bên dưới. Yếu tố tách rời hoạt
động trong quan hệ mật thiết với “yếu tố nối kết” (connector). Trong khi yếu tố tách rời

tạo nên con đường chuyển di từ S1 sang S2 thì yếu tố nối kết tạo điều kiện cho sự đồng
tồn tại của S1 và S2 trước đó.
Vì yếu tố nối kết chỉ xuất hiện trong những trường hợp truyện có bao hàm các
hiện tượng đặc thù như chơi chữ, không phải là yếu tố bất biến trong bất cứ văn bản
truyện cười nào, ta thử đưa ra một phân chia (tương đối) cho hai tiểu loại trong truyện
cười: 1) Truyện cười đặc trưng ngôn ngữ (verbal joke) và 2) truyện cười không đặc
trưng ngôn ngữ (referential joke). Loại thứ nhất dựa trên ý nghĩa của văn bản và không
liên quan đến đặc trưng riêng của các đơn vị từ vựng (hay của các đơn vị khác trong
227


Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH

văn bản), trong khi loại thứ hai ngoài dựa trên ý nghĩa của các yếu tố trong văn bản còn
liên quan đến các đặc trưng riêng của ngôn ngữ được sử dụng.
Mô hình tách rời đồng vị tính sẽ áp dụng cho tiểu loại 1), với tiểu loại 2) ta gắn
với lý thuyết về cấu trúc thông tin được V. Raskin đề xuất. Giữa hai lý thuyết có những
đặc trưng chung vì cùng xuất phát từ mô hình tâm lý học bất tương hợp - giải quyết, sự
tách biệt để áp dụng riêng là ít nhiều mang tính chủ quan và cũng nằm trong một ý định
thử nghiệm.
Trong phạm vi ngữ liệu khảo sát (chính), ta thống kê được 54/230 truyện cười
đặc trưng ngôn ngữ (23.48%) và 176/230 truyện cười không đặc trưng ngôn ngữ
(76.52%).
3. Các cơ chế (ngôn ngữ) gây cười phổ quát
3.1. Cơ chế nối kết – tách rời
Đây là cơ chế đặc thù cho tiểu loại truyện cười đặc trưng ngôn ngữ. Như đã trình
bày, ta phân biệt hai thời đoạn trong quá trình khử mơ hồ một văn bản truyện: thời
đoạn thiết lập đồng vị/ý nghĩa thứ nhất (S1) và thời đoạn chuyển di sang một ý nghĩa
thứ hai (S2) có nét đối lập với S1 thông qua yếu tố tách rời. Nếu yếu tố tách rời của
truyện cười không đặc trưng ngôn ngữ có thể xuất hiện mà không cần một chuẩn bị đặc

biệt thì truyện cười đặc trưng ngôn ngữ lại tiền giả định yếu tố nối kết được từ vựng
hóa. Theo Morin, một yếu tố nối kết là bất cứ khúc đoạn nào của văn bản có thể được
gán cho hai cách lý giải khác biệt [1, tr. 96]. Yếu tố tách rời gây ra con đường chuyển
di từ một khả năng hiện thực hóa của yếu tố nối kết sang một khả năng hiện thực hóa
khác mà trước đó bị loại bỏ trong tiến trình lựa chọn bên trong tư duy người tiếp nhận.
Ví dụ: (1) BÁC TÌM GÌ?
Tết gần đến, hai vợ chồng bác nông dân nọ ra tỉnh để mua mấy món đồ cần dùng.
Chợ tỉnh, phiên giáp tết, người đông nghịt. Đi loanh quanh được vài dãy hàng, ông
chồng bị lạc mất vợ. Ông ta cố tìm, hết quán hàng nọ đến quán hàng kia. Một cô bán
hàng thấy ông ta ngó bên này nhìn bên kia, hỏi: - Bác tìm gì?
- Vợ tôi vừa mất!
- Thế thì mời bác đi theo tôi, chỗ tôi bán đồ tang đấy! [11, tr. 59]
Trong ví dụ này, từ đa nghĩa mất thực hiện vai trò yếu tố nối kết. Ngữ cảnh câu
chuyện cho ta S1 là (động từ) “không có, không thấy, không tồn tại (tạm thời hay vĩnh
viễn) nữa” [9, tr. 622], tức tương đương với lạc3 (động từ) “bị mất đi (có thể chỉ là tạm
thời), vì ở đâu đó mà tìm không thấy” [9, tr. 535]. Trong khi đó, khúc đoạn thông tin có
chứa yếu tố đồ tang đã định hướng lại sự giải thích cho yếu tố nối kết, tức tạo lập con
đường chuyển di sang một S2 cho mất với nghĩa (động từ) “không còn sống nữa, chết
(hàm ý thương tiếc)” [9, tr. 622]. Tất nhiên sự chuyển di này không đồng nghĩa với
việc xem S2 là ý nghĩa tối hậu cho yếu tố nối kết.
Để một phát ngôn có hai nghĩa, cả hai ý nghĩa phải hiện diện cùng lúc. Yêu cầu
này tiềm năng thực hiện được bởi các đơn vị ngôn ngữ có tính chất cố hữu là mơ hồ.
228


Năm học 2010 – 2011

Tuy nhiên, việc duy trì tính chất này đến cuối quá trình xử lý văn bản đi ngược lại chức
năng chống mơ hồ của ngữ cảnh. Để cho một phát ngôn vẫn giữ được tính mơ hồ, các
truyện cười phải đặt nằm ở tầng hàm ẩn một số thông tin có tiềm năng “gây đe dọa”.

Đây là trường hợp yếu tố nối kết - yếu tố tách rời phân biệt. Trong quá trình khảo sát
ngữ liệu, ta cần phân biệt hai tiểu loại này, về bản chất chúng có những nét đặc trưng
riêng mà cái nhìn nhập chung là thiếu thỏa đáng.
Trong trường hợp yếu tố nối kết - yếu tố tách rời phân biệt, ngữ cảnh hầu như
không hỗ trợ thông tin gì ít nhiều gợi mở về yếu tố tách rời và S2. Vì hai yếu tố phân
biệt nên trong quá trình xử lý tuyến tính văn bản, người tiếp nhận phải bắt gặp trước đó
yếu tố nối kết với một S1 dễ thấy được kích hoạt từ ngữ cảnh. Tiếp đó là một khoảng
gián đoạn trước khi người lĩnh hội tìm thấy yếu tố tách rời và trích xuất được S2. Chính
thời đoạn này giúp củng cố niềm tin người lĩnh hội vào cái được mong đợi (S1) để sau
đó lại nhận ra một “độ lệch” giữa nó và cái thực sự xảy ra trong khúc đoạn ngôn ngữ
hàm chứa yếu tố tách rời. Tiếng cười bật lên từ sự bất ngờ đó, và độ lệch càng lớn thì
hiệu quả gây cười càng cao. Đây là trường hợp mà ví dụ (1) minh họa.
Trường hợp thứ hai, ta xem như biến thể từ trường hợp thứ nhất, yếu tố nối kết –
yếu tố tách rời không phân biệt. Ở trường hợp này hai yếu tố là trùng nhau, những ý
niệm về S2 được lĩnh hội bởi các dự báo xuất phát từ ngữ cảnh. Điều kiện để một truyện
cười đặc trưng ngôn ngữ có hai yếu tố trùng nhau là cần có những chỉ dẫn từ trước cho
sự xuất hiện của một S2 cùng một số ý niệm phổ quát về nó. Nếu không như vậy, người
tiếp nhận khó có cơ sở để xác định một ý nghĩa thứ hai cho câu chuyện. Độ lệch được
tạo ra trong trường hợp này là độ lệch giữa hai ý nghĩa có tiềm năng đồng tồn tại trong
văn bản, tức cả hai đều có năng lực lý giải thỏa đáng cho sự mạch lạc cốt truyện. Hai ý
nghĩa đó, một được kích hoạt từ ngôn cảnh của khúc đoạn ngôn ngữ hàm chứa hai yếu
tố trùng nhau (S1), một được kích hoạt từ ngữ cảnh phổ quát làm nền cho câu chuyện
tiến triển (S2). Ví dụ dưới đây sẽ là minh họa cho trường hợp thứ hai này.
Ví dụ: (2) QUAN SẮP ĐÁNH BỐ
Một anh lính lệ tính cương trực, thấy quan huyện làm nhiều điều trái mắt, thường
hay chế nhạo. Quan vẫn định bụng trị. Một hôm có người đến vu cho anh ta ăn tiền ở
ngoài chợ. Quan mừng thầm có dịp báo thù, liền cho đi bắt về.
Anh lính lệ về, dắt cả thằng con đi theo. Quan vừa trông thấy, đập bàn, thét: Đánh! Đánh! Đánh cho nó chừa cái tật ăn hối lộ đi!
Anh lính lệ ngoảnh lại thủng thỉnh bảo con: - Con đứng lui ra, quan sắp đánh bố
đấy!

Trong trường hợp này, hai ý nghĩa cụ thể cho bố sẽ là 1) danh từ thân tộc, ám chỉ
“cha của quan”, 2) danh từ thân tộc lâm thời dùng làm từ xưng hô trong mối quan hệ
với người con. Theo ngữ cảnh trực tiếp làm nền cho phát ngôn anh lính, ta hướng về ý
nghĩa 2) bằng một suy nghĩ đơn thuần. Tuy nhiên, nhìn toàn thể từ đầu câu chuyện, yếu
tố thông minh và lòng can đảm của anh lính được đề cao thông qua hàm ý công kích
229


Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH

tên quan huyện, hướng người lĩnh hội đến ý nghĩa 1). Như thế, ở truyện này, yếu tố nối
kết và yếu tố tách rời đồng tồn tại trong một yếu tố ngôn ngữ, bên cạnh đó là sự chấp
nhận cả hai ý nghĩa khả hữu được trích xuất từ yếu tố này.
3.2. Cơ chế đối lập cấu trúc thông tin (script opposition)
Raskin đưa ra giả thuyết chính cho Lý thuyết cấu trúc thông tin nghĩa học về tính
hài (SSTH): “Một văn bản có thể được mô tả như một văn bản truyện cười nếu cả hai
điều kiện sau đều được thỏa mãn: i) Văn bản phù hợp, hoàn toàn hay một phần, với hai
cấu trúc thông tin khác nhau; ii) Hai cấu trúc thông tin mà văn bản đều phù hợp có nét
đối lập nhau (…). Hai cấu trúc thông tin mà văn bản nào đó phù hợp hoặc được trình
bày đầy đủ hoặc chỉ được thể hiện một phần trong văn bản” [1, tr. 197]. Cấu trúc
thông tin chứa đựng thông tin đặc thù như các quy tắc đã tồn tại trong một thời gian dài
và những cách thức phổ biến trong thực thi hoạt động.
Bộ các cấu trúc thông tin từ vựng, các mắc xích của chúng, cộng tất cả các cấu
trúc thông tin không mang tính từ vựng, các mắc xích của chúng và tất cả mắc xích gắn
kết giữa hai bộ này tạo nên một “mạng ngữ nghĩa” chứa đựng tất cả thông tin một
người nói có về tri thức của họ. Trong quá trình xử lý văn bản truyện, người lĩnh hội
huy động các quy tắc kết hợp để xâu chuỗi mọi ý nghĩa khả hữu của các cấu trúc thông
tin. Những kết hợp mang lại mạch lạc được lưu giữ và gắn kết với những kết hợp thành
công khác cho đến khi văn bản được xử lý hoàn tất. Một lý giải mạch lạc, chính xác về
ngữ nghĩa và cú pháp sẽ được chấp nhận như “ý nghĩa” của văn bản.

Người viết áp dụng cơ chế gây cười được phát động thông qua hai cấu trúc thông
tin thỏa mãn điều kiện của giả thuyết Raskin vào trường hợp tiểu loại truyện cười
không đặc trưng ngôn ngữ. Từ những gì đã trình bày ở trên, ta thấy nổi lên hai nhân tố
quyết định sự thành công của cơ chế cấu trúc thông tin: tính chồng lấp (overlapping) và
tính đối lập (oppositeness).
3.2.1. Tính chồng lấp
Sự chồng lấp (overlapping) xảy ra trong quá trình kết hợp hai (hơn hai) cấu trúc
thông tin khi ta nhận thấy ở văn bản nào đó hơn một lý giải phù hợp với tinh thần mạch
lạc chung. Attardo đưa ra minh họa “tưởng tượng một văn bản mô tả một người thức
dậy, chuẩn bị bữa sáng, rời khỏi nhà… Những sự kiện này có thể phù hợp với cấu trúc
thông tin ĐI LÀM mà cũng phù hợp được với cấu trúc thông tin ĐI CÂU CÁ” [1, tr.
203]. Hai cấu trúc thông tin cũng có thể giao nhau một phần (một số bộ phận văn bản
hoặc một số chi tiết sẽ không phù hợp với cấu trúc thông tin này hay cấu trúc thông tin
khác) hoặc hoàn toàn (văn bản trong tính toàn vẹn của nó phù hợp với cả hai cấu trúc
thông tin). Raskin cũng đưa ra khái niệm điểm chuyển đổi cấu trúc thông tin (“scriptswitch” trigger), tức yếu tố của văn bản gây ra một bước chuyển từ cấu trúc thông tin
đầu sang cấu trúc thông tin thứ hai được hiện thực hóa trong văn bản. Yếu tố này tương
ứng với yếu tố tách rời trong mô hình tách rời đồng vị tính, tuy điểm chuyển cấu trúc
thông tin không nằm trong thế đối lập với một dạng thức “yếu tố nối kết” nào.
230


Năm học 2010 – 2011

3.2.2. Tính đối lập
Sự chồng lấp hai cấu trúc thông tin không là điều kiện đủ để phát sinh tính hài.
Các văn bản ẩn dụ, tượng trưng… đều thể hiện các cấu trúc thông tin chồng lấp, nhưng
chúng không nhất thiết phải có tính hài. Nhân tố thứ hai của lý thuyết đòi hỏi hai cấu
trúc phải “đối lập” nhau trong một ý nghĩa/ phạm vi chuyên biệt. Nếu một văn bản phù
hợp với hai cấu trúc thông tin và hai cấu trúc thông tin có nét đối lập nhau, văn bản
được xem là có tính hài theo lý thuyết Raskin.

Trong các đối lập về cấu trúc thông tin, người viết cho rằng đối lập mong
đợi/không mong đợi là đối lập nền tảng tạo dựng nên bất cứ văn bản truyện cười không
đặc trưng ngôn ngữ nào, ít nhất là trong phạm vi ngữ liệu khảo sát được. Từ đối lập cơ
bản này, ta phân chia ra các đối lập ở cấp độ thấp hơn (tức cụ thể hơn): đối lập
thường/bất thường và đối lập thực/phi thực.
Đối lập thường/bất thường nổi bật trong các truyện hàm chứa mâu thuẫn giữa cái
mà lẽ thường cho là như thế và cái thực sự xảy ra trong văn bản: quan ăn hối lộ (CỨ
BẢO TUỔI SỬU CÓ ĐƯỢC KHÔNG?...)/ sợ vợ (GIÀN HOA LÝ SẮP ĐỔ…), võ
tướng bất tài (THẦN BIA TRẢ NGHĨA), thầy đồ/học trò dốt chữ (TAM ĐẠI CON
GÀ, VỊNH CẢNH ĐỀN…), thầy lang chữa chết người (CHỈ CÓ MỘT CON MA…)…
Sự bất tương hợp giữa cái bình thường và cái bất bình thường như thế có cơ sở trên
quan niệm phổ quát của cộng đồng người Việt về các “dạng người” căn cứ theo địa vị
xã hội, tình trạng kinh tế… Nói cách khác, những trường hợp đối lập thường/bất
thường đa phần là những trường hợp đả kích cái “phi chính danh” của xã hội.
Đối lập thực/phi thực có thể chia ra đối lập thực/phi thực và khả hữu/bất khả hữu.
Sự phân biệt này là tương đối, hay đúng hơn là mang tính cấp độ: những gì tri thức con
người có thể ít nhiều xác định được đúng sai sẽ nằm ở cực thực/phi thực, giảm dần đến
cực khả hữu/bất khả hữu, ở đó tiêu chuẩn đánh giá chỉ căn cứ vào các lẽ thường chủ
quan, tức không xác định được đúng sai mà chỉ dựa vào quan niệm cộng đồng. Loại đối
lập này, qua khảo sát, thấy xuất hiện đáng kể trong các truyện có nội dung “nói khoác”,
“nói phóng đại” (TÀI NÓI LÁO, THI NÓI KHOÁC…); bên cạnh đó là những truyện
về thế giới phi thực theo quan điểm của thế giới hiện tại, tức thế giới khả hữu hư cấu thế giới thần thánh ma quỷ (ĐI TU PHẢI TỘI, RẮM QUÝ…).
Ví dụ: (3) CỨ BẢO TUỔI SỬU CÓ ĐƯỢC KHÔNG?
Ðồn rằng có một ông quan huyện rất thanh liêm, không ăn của đút bao giờ. Bà
huyện thấy tính chồng như vậy cũng không dám nhận lễ của ai. Có làng nọ muốn nhờ
quan huyện bênh cho được kiện, nhưng mang lễ vật gì đến, quan cũng gạt đi hết. Họ
mới tìm cách đút lót với bà huyện. Bà huyện cũng chối đây đẩy: - Nhà tôi thanh liêm
lắm, tôi mà nhận của các ông thì mươi, mười lăm năm sau, ông ấy biết ông ấy cũng
vẫn còn rầy rà tôi cơ đấy!
Dân làng nằn nì mãi, bà nể tình mới bày cách: - Quan huyện nhà tôi tuổi “tí”.

Dân làng đã có ý như vậy, thì hãy về đúc một con chuột bạc đến đây, rồi tôi cố nói
giùm cho, họa may được chăng!
231


Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH

Dân làng nghe lời, về đúc một con chuột cống thật to, ruột đặc, toàn bằng bạc,
đem đến.
Một hôm, ông huyện trông thấy con chuột bạc mới hỏi ở đâu ra, bà huyện liền
đem sự tình kể lại. Nghe xong, ông huyện mắng: - Sao mà ngốc vậy! Lại đi bảo là tuổi
“tí”! Cứ bảo tuổi “sửu” có được không? [7, tr. 56-57].
Để xử lý văn bản này, ta liệt kê mọi cấu trúc thông tin được kích hoạt, sau đó
khởi động các quy tắc kết hợp giúp xâu chuỗi các cấu trúc đa dạng dựa vào tính tương
thích và quy tắc ngữ pháp, cú pháp. Khi các từ có chung một cấu trúc thông tin, ta xác
định nó như lý giải ưu tiên và tiếp tục quá trình phân tích. Quá trình kết hợp này cho
đến trước phát ngôn quan huyện sẽ gán cấu trúc [- ĂN HỐI LỘ] cho quan ông và [+
ĂN HỐI LỘ] cho quan bà. Bước kế tiếp là khởi động các quá trình suy ý. Người đọc
suy luận rằng khi quan trông thấy con chuột và nghe vợ giải thích, ông sẽ bất mãn và
bày tỏ ý phê phán. Tuy nhiên, qua phát ngôn cuối văn bản, ta nhận ra độ lệch giữa
những gì được mong đợi và những gì thực sự tồn tại: nội dung phát ngôn không nhằm
vào đối lập [+ĂN HỐI LỘ/-ĂN HỐI LỘ] mà là vào đối lập [+HỐI LỘ NHIỀU/- HỐI
LỘ NHIỀU] (nói mình tuổi sửu để được phần đút lót nhiều hơn). Nhận thức được sự
bất tương hợp này, người tiếp nhận quay ngược trở lại và tái đánh giá văn bản. Trong
ánh sáng của một cái nhìn mới, ta nhận thức vị quan này là kẻ quân tử “giả hiệu”, là
dân chi phụ mẫu mà dối trá và ăn tham, hành động lời nói của ông do đó được lý giải
thỏa đáng. Văn bản tiềm ẩn hai cấu trúc thông tin [+THANH LIÊM/-THANH LIÊM],
các cấu trúc thông tin này nằm trong thế đối lập cơ sở thường/ bất thường. Nó thực thi
cả hai đòi hỏi của SSTH và do đó được đánh giá là có tính hài.
Đến đây, ta thử phân biệt hai tiểu loại văn bản. Ở trường hợp thứ nhất với ví dụ

(3), ngữ cảnh hoàn toàn ủng hộ sự xuất hiện và củng cố địa vị của S1 cho đến trước
điểm chuyển cấu trúc thông tin giúp trích xuất S2. Rõ ràng người tiếp nhận được dẫn
liên tục theo một cấu trúc thông tin cho đến khi bắt gặp khúc đoạn văn bản khiến S1
không còn thích hợp và phải tái đánh giá văn bản để tìm ra một S2. Ở trường hợp thứ
hai (ta xem là biến thể của trường hợp thứ nhất), nét đối lập thường/bất thường được
cho xuất hiện khá sớm trong văn bản, ta xem ngữ cảnh có tính chất định hướng, tức có
các chỉ dẫn giúp câu chuyện tiến triển. Sự triển khai văn bản dạng này có thể mang tác
dụng tích cực hoặc tiêu cực. Ở khía cạnh tiêu cực, thử xét ví dụ (4) dưới đây:
Ví dụ: (4) TIẾNG ĐÀN BẦU
Có anh đánh đàn bầu rất dở, nhưng lại cứ tưởng mình hay. Một hôm, anh ta
mang đàn ra gảy, thấy bên hàng xóm có một chị góa chồng còn trẻ cứ thút thít khóc.
Anh ta nghĩ bụng: Không biết có phải tiếng đàn của mình làm cho chị ta xúc động hay
không? Anh ta thử thôi không gảy xem sao. Quả nhiên chị kia không khóc nữa.
Và anh ta nghiệm ra rằng: cứ mỗi lần anh ta đàn thì chị kia lại khóc. Anh ta càng
đánh chị kia càng khóc tợn. Lòng anh ta khấp khởi mừng thầm. Thôi đúng chị ta mê
tiếng đàn của mình rồi! Từ đấy cứ đêm khuya thanh vắng, anh ta đem đàn ra gãy, hòng
232


Năm học 2010 – 2011

quyến rũ chị kia. Cho đến một hôm, anh ta chắc mẩm là “cá đã cắn câu”, bèn lân la
gợi chuyện:
- Chẳng hay chị buồn phiền gì mà cứ mỗi lần tôi gảy đàn chị lại khóc như vậy.
Nếu tiếng đàn của tôi làm cho chị phiền lòng thì từ nay tôi không dám gảy nữa.
Chị kia liền trả lời: - Vâng quả có như vậy. Cứ mỗi lần anh gảy đàn, tôi lại nhớ
đến nhà tôi hồi còn sống.
Anh này như mở cờ trong bụng, liền bảo: - Thế ngày xưa chắc anh ấy cũng là tay
đàn bầu khá lắm đấy nhỉ?
Chị kia lắc đầu: - Không, nhà tôi ngày xưa chỉ biết nghề bật bông thôi. Mỗi lần

anh đánh đàn tôi nhớ tới tiếng bật bông của chồng tôi nên tôi khóc [5, tr. 194-195].
Ở đây, câu mở đầu nếu được loại bỏ sẽ mang lại hiệu quả gây cười cao hơn cho
văn bản, lý do là khúc đoạn thông tin này làm suy giảm yếu tố bất ngờ trong chuyển
đổi giữa hai cấu trúc, tâm trí người đọc từ đầu được định hướng phải “cảnh giác” và dễ
suy ra một phần ý niệm về S2.
Ở khía cạnh tích cực, thử xét ví dụ (5):
Ví dụ: (5) BẨM CHÓ CẢ
Nhà nho nọ thấy quan lại tham nhũng, trong lòng rất khinh. Một hôm, các quan
đến nhà chơi, trong số đó có cả mấy bạn đồng song thuở trước. Ông ta bảo người nhà
dọn rượu thết.
Người nhà bưng mâm lên, ông ta đứng dậy thưa: - Chả mấy khi rồng đến nhà
tôm, các ngài có bụng yêu nhà nho thanh bạch đến chơi, có chén rượu nhạt xin các
ngài chiếu cố cho.
Các quan cầm đũa, bấp mấy món. Các quan ăn thấy ngon miệng, liền khề khà
hỏi: đây đĩa gì, kia bát gì…
Nhà nho thong thả nói: - Ðây là chó, kia cũng là chó, bẩm toàn chó cả. [5, tr. 5354]
Ở trường hợp này, những cấu trúc thông tin bộ phận được kích hoạt trong phần
văn bản không hàm chứa phát ngôn cuối của nhà nho cho ta ý niệm về mối xung đột
(ngầm) giữa nhà nho [+THANH BẠCH] và các bạn [-THANH BẠCH], đồng thời đưa
ra mong đợi về một công kích nào đó từ phía nhà nho, bởi một cấu trúc thông tin được
kích hoạt từ ý niệm “nhà nho” là [+KHÔN NGOAN/MƯU TRÍ]. Theo người viết, có
những phát ngôn nếu trình bày “đơn độc” (đúng hơn là đặt trong ngữ cảnh bình thường/
không được chỉ dẫn đặc biệt) sẽ không phát huy được tính hài, thậm chí không được
nhìn nhận là có tiềm năng gây cười; phát ngôn “Ðây là chó, kia cũng là chó, bẩm toàn
chó cả” là điển hình. Nếu đơn thuần đặt vào ngữ cảnh những người bạn đồng song vui
vẻ ăn uống cùng nhau, nó chỉ có một nghĩa, tức chiếu đến các dĩa chứa thức ăn là thịt
chó. Chính những chỉ dẫn rải rác trong văn bản đã định hướng, giúp khuôn phát ngôn
lại vào một tình thế mà người đọc phải đánh giá là thông minh. Ở đây vẫn xảy ra một
con đường chuyển di từ S1 sang S2, nhưng một phần nằm trong tiên đoán của người tiếp
nhận văn bản.

233


Kỷ yếu Hội nghị sinh viên NCKH

4. Các cơ chế (ngôn ngữ) gây cười bộ phận
Kết quả công tác phân loại và thống kê các cơ chế bộ phận được trình bày tóm tắt
với:
- Cơ chế chơi chữ: 5/230 truyện có yếu tố hoán vị cấu trúc (5.17%); 8/230 truyện
có yếu tố đồng âm – đa nghĩa (3.48%).
- Cơ chế xây dựng bối cảnh hài và tình huống tục: 16/230 truyện có yếu tố thế
giới khả hữu thần thoại hài (6.09%), 42/230 truyện có yếu tố thế giới khả hữu phóng
đại tâm lý – tính cách (18.26%); 6/230 truyện có yếu tố tình huống tục (6.52%).
- Cơ chế xây dựng môi trường giao tiếp phi chân thành: 124/230 truyện (53.91%).
- Cơ chế vi phạm quy luật luận học hình thức và cơ chế logic cục bộ: 31/230
truyện có vi phạm quy luật luận học (13.47%); 18/230 truyện có logic cục bộ - máy
móc (7.83%).
- Cơ chế bất tương hợp ngôn vực và các quan hệ trên trục liên tưởng – kết hợp:
10/230 truyện có yếu tố bất tương hợp ngôn vực (4.35%); 5/230 truyện có yếu tố bất
tương hợp trong quan hệ giữa hai trục liên tưởng – kết hợp (2.17%).
- Cơ chế kế thừa thông báo: 13/230 truyện (5.65%).
- Cơ chế tạo lập khoái cảm thẩm mỹ qua Vần – Thơ – Đối – Thành ngữ - Tục
ngữ: 46/230 truyện (20%).
5. Kết luận
Qua khảo sát ngữ liệu, ta nhận ra trong mọi truyện cười dân gian Việt Nam một
số cơ chế nhất định đóng vai trò tác nhân tạo lập tiếng cười. Bài viết chia các cơ chế ra
làm hai loại: loại cơ chế phổ quát và loại cơ chế bộ phận. Hai loại cơ chế này gắn bó
chặt chẽ và ít nhiều chuyển hóa, đan chéo vào nhau: cơ chế phổ quát đóng vai trò
khung sườn - nền tảng tạo tiền đề cho các cơ chế bộ phận phát triển, các cơ chế bộ phận
củng cố và làm nổi rõ cơ chế phổ quát. Đến lượt mình, các cơ chế ngôn ngữ lại chịu chi

phối bởi ba cơ chế khác từ bình diện tâm lý học.
Nhìn nhận vấn đề như vậy, con đường người viết chọn để giải quyết đề tài đã
tuần tự đi từ chọn lọc các văn bản giá trị, cảm tính phân loại theo cách chúng tác động
vào tâm lý người viết để gây ra tiếng cười, kết hợp so sánh với các cơ chế tâm lý, dần
xác thực mối quan hệ giữa cơ chế tâm lý và cơ chế ngôn ngữ, cuối cùng vận dụng tri
thức ngữ học và các ngành học liên quan để đào sâu, phân chia rồi tìm ra bản chất các
cơ chế trong những quan hệ qua lại với nhau.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Attardo, S. (1994), Linguistic Theories of Humor (Humor Research, No. 1), NY:
Mouton de Gruyter.

2.

Barber, A. and Stainton, R. J. (2009), Concise Encyclopedia of Philosophy of
Language and Linguistics, UK: Elsevier Science.

234


Năm học 2010 – 2011

3.

Diệp Quang Ban (2009), Giao tiếp, diễn ngôn và cấu tạo của văn bản, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.

4.


Bussmann, H. (1999). Routledge Dictionary of Language and Linguistics, NY:
Routledge.

5.

Trương Chính, Phong Châu (1993), Tiếng cười dân gian Việt Nam, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.

6.

Lyons. J. (2009), Ngữ nghĩa học dẫn luận, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

7.

Malmkjaer, K. (2004). Linguistics Encyclopedia, NY: Routledge.

8.

Bùi Mạnh Nhị (chủ biên), Hồ Quốc Hùng, Nguyễn Thị Ngọc Điệp (2003),Văn học
Việt Nam: Văn học dân gian – Những công trình nghiên cứu, Nxb Giáo dục, TP
HCM.

9.

Hoàng Phê (chủ biên) (2006), Từ điển tiếng Việt, Đà Nẵng: Đà Nẵng, Hà Nội - Đà
Nẵng: Trung tâm Từ điển học.

10.

Lê Quang Thiêm 2008, Ngữ nghĩa học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.


11.

Viện nghiên cứu văn hóa 2009. Tinh hoa văn học dân gian người Việt – Truyện cười
(ba quyển), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

12.

Nguyễn Như Ý (chủ biên) (2003), Từ điển giải thích thuật ngữ Ngôn ngữ học, Nxb
Giáo dục, TP HCM.

235



×